Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 18

Tác giả: Frederik Forsythe

Hai người từ Nhà Thế kỷ đến Riyadh trước Chip Barber từ Washington. Steve Laing và Simon Paxman hạ cánh trước bình minh, bay đêm từ Heathrow.

Julian Gray, trạm trưởng Riyadh, gặp họ trong chiếc xe quen thuộc và đưa họ về ngôi biệt thự nơi ông vờ như đang ở, với vài cuộc viếng thăm tình cờ về nhà để gặp vợ mình, trong vòng năm tháng nay. Ông bối rối vì sự xuất hiện trở lại đột ngột của Paxman từ London; ông chưa biết đến thượng cấp cao hơn Steve Laing, để khôi phục một chiến dịch đã được đóng lại.

Trong biệt thự, sau những cánh cửa đóng kín, Laing nói với Gray chính xác tại sao Jericho cần được tìm lại và đưa vào vai diễn ngay không chậm trễ.

– Chúa ơi. Thế cái thằng con hoang đó lại đúng à?

– Chúng tôi e rằng đúng, Laing nói. Khi nào Martin sẽ nghe?

– Giữa 11 giờ 15 và 11 giờ 45 đêm nay, Gray nói. Để an toàn, chúng tôi đã không gửi gì cho anh ta từ năm ngày nay. Chúng tôi cho rằng anh ta sẽ về biên giới vào bất cứ lúc nào.

– Hãy hy vọng rằng anh ta vẫn còn ở lại đó. Nếu không, chúng ta thực sự rơi vào vực thẳm đó. Chúng ta sẽ lại phải gài lại anh ta, và điều đó có thể không thể thực hiện được. Các sa mạc của Iraq đã đầy lính tuần tra rồi.

– Bao nhiêu người biết được điều đó? Gray hỏi.

– Càng ít càng tốt, và vẫn thế mà, Laing trả lời.

Một nhóm rất nhỏ những người cần-phải-biết đã được thiết lập giữa London và Washington, nhưng với giới chuyên nghiệp như thế vẫn còn là quá nhiều. Ở Washington có tổng thống và bốn thành viên trong chính phủ của ông ta, cộng thêm chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia và Chủ tịch Đội hoạt động chung. Cộng thêm vào đó là bốn người ở Langìey, trong số đó, Chip Barber, đang chỉ huy ở Riyadh. Tại California, vị tiến sĩ không may Lomax có một người khách không mời đến túp lều của mình để đảm bảo ông không liên lạc với bất kỳ ai ở bên ngoài.

Ở London, tin đã đến với vị thủ tướng mới, John Major, thư ký Chính phủ, và hai thành viên của Chính phủ; Ở Nhà thế kỷ, ba người biết. Tại Riyadh hiện tại chỉ có ba người trong căn hộ của SIS, và Barber đang trên đường đến. Trong giới quân sự, thông tin chỉ được truyền cho bốn vị tướng, ba người Mỹ và một người Anh.

Tiến sĩ Terry Martin đã có hộ chiếu ngoại giao và hiện đang sống rất tiện nghi trong một ngôi nhà an toàn của SIS ở thôn quê, được trông coi bởi một người trông nhà hiền lành và ba người không được hiền lành cho lắm.

Kể từ đó, tất cả các chiến dịch chống Iraq có quan hệ đến việc truy tìm, và tiêu diệt, thiết bị của Liên quân được đặt biệt danh Qubth-ut-Allah, hay Cú đấm của Thượng đê, có thể được tiến hành dưới vỏ bọc của những biện pháp tích cực được chỉ định để kết liễu chính Saddam Hussein, hay vì một nguyên do có thể nào khác.

Hai chủ định khác trên thực tế đã được tiến hành. Hai địa điểm đã được phát hiện ở chỗ mà tổng thống Iraq có thể ở, ít nhất là đôi khi. Không ai có thể nói chính xác khi nào, đối với Rais chuyển đến một biệt thự từ chỗ trốn của mình đến một địa điểm trốn khi ông ta không ở boong ke ở Baghdad.

Sự kiểm soát chung đã nhìn thấy hai địa điểm. Một là biệt thự ở thôn quê cách Baghdad 40 dặm, cái khác là một ngôi nhà di động lớn được chuyển hoá thành một chiếc xe chiến tranh và trung tâm lên kế hoạch.

Trong một cơ hội những người nhìn từ không trung đã nhìn thấy các khẩu đội tên lửa di động và xe nhẹ di chuyển đến địa điểm quanh biệt thự. Một máy bay của đội Eagle đã bay đến và thổi bay ngôi biệt thự. Đó là một báo động nhầm – và con chim bay mất.

Vào cơ hội thứ hai, hai ngày trước khi tháng Giêng kết thúc, chiếc xe lớn được nhìn thấy đang di chuyển đến một vị trí mới. Lại một lần nữa tấn công; và lại thêm lần nữa mục tiêu không có ở đó.

Ở cả hai cơ hội các phi công đều phải chịu những hiểm nguy cực lớn khi tấn công, bởi các tay súng Iraq đã bắn theo rất rát. Sự thất bại trong việc kết liễu độc tài Iraq ở cả hai cơ hội đã khiến Liên quân mất ăn mất ngủ. Chỉ đơn giản là họ không biết được các di chuyển chính xác của Saddam Hussein. Vấn đề là, không ai biết được chúng, ngoài một nhóm nhỏ các vệ sĩ cá nhân được đến từ Amn-al-khass, được chính con trai của ông ta, Kusay chỉ huy.

Trên thực tế, ông ta luôn di chuyển. Mặc dù giả thuyết rằng Saddam đang ở trong boong ke của mình ở sâu dưới lòng đất trong hầu hết thời gian cuộc không chiến, thì quả thực ông ở chỗ đó chỉ một nửa thời gian mà thôi. Nhưng sự an toàn của ông ta được đảm bảo bởi hàng loạt những dấu vết giả. Nhiều lần ông ta đã bị “nhìn thấy” bởi những đội quân thân yêu của ông ta, một sự mỉa mai. Người mà các đội quân Iraq nhìn thấy trong tất cả những lần đó chỉ là một người rất giống Saddam đóng giả nhưng chỉ những người thân cận nhất với ông ta mới biết được điều đó

Những lần khác, các đoàn xe limousin, khoảng một tá, đi quanh khắp Baghdad với cửa sổ đen ngòm, khiến cho dân cư nghĩ rằng Rais của họ đang ở trong xe. Không phải vậy; đó chẳng qua là cách trang trí. Khi ông ta di chuyển, đôi khi ông ta chỉ đi trên một chiếc xe hơi không thể nhận diện.

Ngay cả giữa những người thân cận nhất của ông ta, các biện pháp an toàn cũng được sử dụng. Các thành viên Chính phủ được thông báo đi họp với ông ta có thể chỉ được báo trước có năm phút để rời khỏi nhà, lên xe, và theo một người đi xe môtô đằng trước. Ngay cả khi đó, đích đến cũng không phải là địa điểm họp.

Họ có thể được dẫn đến một xe buýt đỗ với cửa sổ đóng kín, thấy ở đó các bộ trưởng khác đang ngồi trong bóng tối. Có một tấm chắn giữa các bộ trưởng và người tài xế. Ngay cả người lái xe cũng phải theo một người của Amn-al-khass lái mô tô dẫn đến chỗ hẹn thực sự.

Sau người lái, các bộ trưởng, tướng lĩnh, và cố vấn ngồi trong bóng tối giống như những cậu bé học trò trong một chuyến di kỳ bí, không bao giờ biết sẽ đi đâu, hoặc, sau đó, đang ở đâu.

Phần lớn các trường hợp những cuộc họp như thế diễn ra trong các biệt thự rộng và biệt lập, được đặt trước cho ngày đó và được làm trống trước khi nửa đêm. Một nhiệm vụ đặc biệt của Amn-al-khass là tìm kiếm một biệt thự khi Rais muốn họp, bắt những người chủ đi chỗ khác, và cho họ về nhà sau khi Rais đã đi từ lâu

Chẳng khó hiểu tại sao Liên quân không thể nào tìm thấy ông ta. Nhưng họ đã thử – cho đến tuần đầu tiên của tháng Hai. Sau đó, mọi ý định ám sát đều bị bỏ, và bên quân sự không bao giờ biết tại sao.

Chip Barber đến biệt thự người Anh ở Riyadh ngay sau giữa trưa ngày cuối cùng tháng Giêng. Sau khi chào hỏi, bốn người ngồi xuống và chờ đến giờ có thể liên lạc với Martin, nếu anh còn ở đó.

– Tôi cho là chúng ta có một hạn cuối về việc này chứ?

Laing hỏi. Barber gật đầu.

– Ngày 12 tháng Hai. Norman Bão tố muốn đổ bộ vào đó ngày 12 tháng Giêng.

Paxman huýt sáo. Hai mươi ngày, quái quỷ thật. Chú Sam liệu có chuyển ngày đó lại được không?

– Có. Giám đốc đã ra lệnh giao cho Jericho một triệu đôla đến ngay tài khoản của anh ta ngay lập tức, trong ngày hôm nay. Với địa điểm của thiết bị, hãy giả thuyết có một và chỉ một thôi, và chúng ta sẽ trả cho tên con hoang đó gấp năm lần.

– Năm triệu đôla? Laing thốt lên. Chúa tôi, không ai được trả nhiều tiền như thế cho một thông tin hết cả!

Barber nhún vai. Jencho, dù là ai đi chăng nữa, được xếp vào hàng đại phú rồi đấy. Hắn ta thích tiền, không gì ngoài tiền. Thế thì cứ để hắn ta kiếm chác. Đó là cái bẫy. Người Arập thì thế, chúng ta thì không. Năm ngày sau khi hắn ta nhận được lời báo, chúng tôi sẽ nhỏ giọt từng nửa triệu mỗi ngày cho đến khi hắn ta chỉ được địa điểm chính xác. Hẳn hắn ta phải biết.

Ba người Anh lẩm bẩm rằng đó là tổng cộng tiền lương của tất cả họ cộng lại trong suốt đời.

– Tốt. Laing nhận xét, điều này có thể làm hắn ta phải nói ra đấy.

Thông điệp được tạo ra vào buổi chiều và tối. Đầu tiên, liên lạc không nối được với Martin, người có thể phải khẳng định với mật mã mới những từ anh đã có rằng anh vẫn ở đó và vẫn chưa bị tóm. Rồi Riyadh có thể nói anh ta về món quà cho Jericho, một cách chi tiết, và cho anh hiểu tình thế bây giờ gấp đến mức nào rồi.

Những người đó ăn một cách chán ngán, thấy thức ăn thật dở, bị gánh nặng phải đối mặt với áp suất trong phòng. Mười giờ rưỡi Simon Paxman đi vào phòng radio với những người khác và nói thông điệp đã được đưa vào máy. Đoạn nói được tăng tốc hai trăm lần và biến thành chỉ còn hai giây. Vào 11 giờ 15 quá 10 giây, kỹ sư trưởng của radio gửi tín hiệu ngắn gọn – có nghĩa “anh có ở đó không”. Ba phút sau. có một tiếng động nhẹ nghe như rất tĩnh. Chiếc dĩa vệ tinh bắt được nó, và khi đã bật chậm lại, năm người nghe thấy giọng của Mike Martin: “Râu Đen gửi Núi Đá. Đang nhận. Hết.”

Cả một niềm vui bùng nổ trong ngôi biệt thự ở Riyadh, bốn người đàn ông trưởng thành nhảy lên lưng nhau như những cổ động viên bóng đá ăn mừng khi đội của mình thắng trong giải Super Bowl.

Ai chưa từng ở tình cảnh đó hẳn khó hình dung cảm giác khi được biết “một người trong số chúng ta” vẫn còn ở đó sau đường dây, bằng cách nào đó vẫn sống và an toàn.

– Anh ta đã ngồi ở đó mười bốn ngày thật chó chết, Barber cảm kích. Thế quái nào mà anh ta lại không ngu ngốc rời khỏi đó khi đã được báo tin nhỉ?

– Bởi vì anh ta quả là một tay cứng đầu, Laing lẩm bẩm.

– Chỉ là quá tốt mà thôi.

Người trực điện đàm kém phấn khích hơn đang gửi một bản câu hỏi vắn tắt khác. Anh ta muốn năm từ để khẳng định – thậm chí cả khi người đọc tin nói với anh ta giọng nói bắt được. quả là của Martin – vị chỉ huy SAS vẫn bắt phải kiểm tra kỹ.

Mười bốn ngày còn hơn là một kỳ nghỉ cho một người.

Thông điệp của anh ta từ Baghdad ngắn hết mức có thể. “Của Nelson và bắc, tôi nói lại. của Nelson và bắc. Ra.”

Ba phút nữa trôi qua. Ở Baghdad, Martin nằm bò trên sàn nhà trong cái bao của mình trong góc vườn nhà Bí thư thứ nhất Kulikov, bắt được âm thanh, nói trả lời, ấn nút tăng tốc, và gửi đi một đoạn một phần mười giây đến thủ đô Xêut.

Những người bên kia nghe anh nói “Hát một ngày chói lọi đã biết”. Người trực nhăn nhở cười.

– Chính là anh ta đấy, thưa ngài, còn sống hoạt bát và tự do.

– Một bài thơ đấy à? Barber hỏi.

– Câu đúng là, Laing nói, Hát ngày vinh quang đã biết.

Nếu anh ta đọc đúng, thì tức là anh ta đang nói với một họng súng dí vào thái dương. Trong trường hợp đó… ông nhún vai. Người trực gửi thông điệp cuối cùng, thông điệp thực sự, và đóng lại. Barber với chiếc cặp tài liệu của mình.

– Tôi biết có thể không đúng lắm với thể thức ở đây, nhưng cuộc đời ngoại giao có một số ưu tiên nhất định.

– Tôi nói, Gray nói, Dom Pengnon. Ông có nghĩ Langley có thể trả tiền không?

-Langley, Barber nói, vừa mới bỏ năm triệu đôla giấy xanh vào trong bàn đánh bạc. Tôi cho rằng có thể cho người của các ông một chai sâm banh đấy.

– Tuyệt thật, Paxman nói.

Một tuần đã trôi qua với sự chuyển hoá bên trong Edith Hardenberg – một tuần, nghĩa là, và những hiệu ứng đang yêu. Với sự khuyến khích nhẹ nhàng của Karim cô đã có một bộ tóc mới ở Grinzing, người đã thả xoà tóc cô xuống, cắt nó và làm đẹp cho nó, phủ xuống đến cằm, nên nó rơi xuống trước mặt cô, điền vào những nét hẹp và cho cô một sự quyến rũ chín muồi hơn.

Người yêu của cô đã chọn một loạt những đồ trang sức với sự đồng ý rụt rè của cô; không có gì lố lăng, chỉ là một bút kẻ mắt, kem dưỡng da, một ít phấn, và một vệt son môi ở miệng.

Ở ngân hàng, Wolfgang Gemuetlich cảm thấy thật khó chịu, ngầm nhìn cô đi ngang qua gian phòng, giờ đã cao hơn với đôi giày cao gót một inch. Thậm chí không phải giày cao gót hay tóc hay đồ trang sức làm ông khó chịu, dù ông đã thẳng thắn cấm chúng. Cô Gemuetlich còn gợi lên một ý tưởng khác nữa. Điều làm ông ta quấy động nhất trong cung cách của cô, một cảm giác tự tin khi cô đứng trước ông ta với những bức thư để ký hay để đọc lại.

Dĩ nhiên ông biết điều đã xảy ra. Một trong số những cô gái điên rồ ở tầng dưới đã thuyết phục cô tiêu nhiều tiền hơn. Đó là chìa khoá của tất cả, tiêu tiền. Điều này luôn luôn, theo kinh nghiệm của ông ta, dẫn đến chỗ thảm hoạ, và ông ta e sợ kết cục xấu nhất.

Sự rụt rè bản chất của cô chưa hoàn toàn tan biến, và trong ngân hàng cô vẫn giữ nguyên giọng nói cũng như trong cung cách. Nhưng khi có mặt Karim, khi họ ở lại một mình với nhau, cô thường xuyên tự làm đỏm với khả năng của mình. Trong suốt hai mươi năm những thứ vật chất đã là quá kinh tởm với cô, và giờ đây cô giống như một lữ khách trong một chuyến đi với sự khám phá chậm và tuyệt vời, nửa lo sợ hãi hùng, nửa tò mò kích thích. Thế là sự yêu đương của họ – thoạt tiên hoàn toàn là đơn phương – đã trở nên có tính khám phá và từ cả đôi bên. Thời gian đầu cô chạm vào anh ta “ở dưới đó”, cô nghĩ cô đã chết vì sốc và ngượng, nhưng cô ngạc nhiên thấy cô vẫn còn tiếp tục sống được.

Vào buổi tối ngày ba tháng Hai anh mang về nhà cho cô một cái hộp gói bằng giấy gói quà với một ruy băng.

– Karim, anh không phải làm những việc như thế đâu. Anh tiêu nhiều tiền quá đấy.

Anh ôm cô vào lòng và vuốt tóc cô. Cô đã học được cách thích điều này khi anh làm vậy.

– Xem này, em thân yêu, cha anh giàu có. ông cho anh nhiều tiền. Liệu em có thích anh tiêu nó vào các hộp đêm không nào?

Cô cũng thích khi anh vuốt ve cô. Dĩ nhiên, Karim không bao giờ có thể đi đến những chỗ kinh tởm như thế. Thế là cô nhận những lọ nước hoa và đồ trang điểm mà, chỉ mới hai tuần trước thôi, cô còn nghĩ mình sẽ không bao giờ chạm vào.

– Em có mở được không? cô hỏi.

– Thì chính nó ở đây là để em mở mà.

Đầu tiên cô không hiểu chúng là gì. Bên trong của cái hộp như là một lớp lụa và dây và màu sắc. Khi cô hiểu ra, bởi vì cô đã xem quảng cáo trên các tạp chí – không phải loại mà cô mua, dĩ nhiên – mặt cô trở nên đỏ bừng.

– Karim, em không thể đâu. Em không thể đâu.

– Có chứ, em có thể mà, anh nói, và cười. Hãy thử chúng đi, em yêu. Hãy vào phòng ngủ và mặc thử chúng xem. Đóng cửa phòng vào – anh không nhìn trộm đâu.

Cô để những thứ đó lên trên giường và nhìn chằm chằm vào chúng. Cô, Edith Hardenberg ư? Không bao giờ. Đó là những thứ tất dài và đồ nữ, quần lót các loại, và áo ngủ, đủ các màu đen, hồng, đỏ, kem, và be. Những cái buộc dây hoặc không, những đồ lót mềm bằng lụa mà trên đó ngón tay cảm thấy như là chạm vào băng.

Cô ngồi một mình trong phòng suốt một tiếng đồng hồ trước khi mở cửa phòng trong bộ đồ ngủ. Karim đặt tách cà phê xuống, đứng lên. và tiến lại. Anh nhìn xuống cô với một nụ cười trìu mến vào bắt đầu cởi dây buộc bộ váy. Cô lại thấy nóng bừng cả người và không thể có được sự hứng khởi như anh. Cô ngó lơ.

Anh để chiếc váy đang cởi dở.

– Ồ em yêu, em đa cảm quá.

Cô không biết phải nói gì, chỉ biết quàng tay lên cổ anh, không còn thấy hoảng sợ hay ghê tởm khi hông cô chạm vào vật cứng trong quần jean của anh.

Khi họ đã làm tình xong, cô đứng lên và đi vào trong phòng tắm. Khi quay lại cô đứng sững và nhìn xuống anh. Không phần nào trên cơ thể anh mà cô không yêu. Cô ngồi lên thành giường và lần đầu ngón tay đi xuống cái sẹo nhỏ dọc theo một bên cằm anh, cái mà anh đã có khi ngã từ một nhà kính của vườn ươm của bố anh ở bên ngoài Amman.

Anh mở mắt, mỉm cười, và nâng khuôn mặt cô lên. Cô ngậm lấy tay anh và luồn ngón tay xuống dưới, cho đến cái nhẫn nhỏ trên ngón út của anh, cái nhẫn với màu phớt hồng mà mẹ anh đã cho anh.

– Chúng ta sẽ làm gì tối nay? Cô hỏi.

– Đi ăn đi, anh nói. Cửa hàng Sirk’s ở Bristol.

– Anh thích steak quá nhỉ.

Anh trườn ra sau cô và nắm lấy đôi nhũ đào nhỏ bé của cô dưới lần áo mỏng.

– Đây là món steak mà anh thích đấy. Anh cười.

– Ngừng lại đi – anh kinh khủng thật đấy, Karim!, cô nói, em phải mặc quần áo.

Cô đẩy anh ra và liếc nhìn mình trong gương. Làm thế nào mà cô có thể thay đổi ghê gớm đến thế nhỉ? Cô nghĩ. Bằng cách nào cô lại có thể mặc vào người đồ lanh như thế này? Rồi cô nhận ra vì sao. Đó là cho Karim, Karim của cô, người cô yêu và người yêu cô, có có thể làm bất cứ việc gì. Tình yêu có thể chỉ đến vào lúc cô đã có tuổi, nhưng nó đến với sức mạnh của một dòng thác chảy xuống từ núi cao.

Mike Martin tìm thấy dấu phấn vào ngày 7 tháng Hai và nhận phong bì mỏng từ hòm thư chết cùng tối hôm đó. Ngay sau nửa đêm, anh dựng đĩa vệ tinh ra hướng về cửa ra vào của túp lều và đọc bản tin tiếng Arập trên một trang duy nhất giấy nến thẳng vào máy ghi. Sau tiếng Arập, anh thêm vào bản dịch tiếng Anh của mình và gửi thông tin vào lúc 0 giờ 16, một phút sau vào cửa sổ của mình.

Khi thông tin chạy qua và vệ tinh bắt được nó tại Riyadh, người trực đài đang làm nhiệm vụ kêu to lên:

– Anh ta đấy. Râu Đen trở lại rồi.

Bốn người đàn ông đang ngủ trong phòng phụ chạy vào. Chiếc máy ghi to dùng dựa vào tường đọc chậm lại và giải mã thông điệp. Khi kỹ thuật viên ấn nút quay chậm, căn phòng đầy âm thanh của Martin đọc tiếng Arập. Paxman, với tiếng Arập tốt nhất, nghe được nửa chừng:

– Anh ta tìm thấy rồi. Jericho nói anh ta tìm thấy rồi.

– Trật tự nào, Simon.

Tiếng Arập ngừng lại, và đoạn tiếng Anh bắt đầu. Khi giọng nói dừng lại và tắt đi, Barber đấm một cú từ tay này vào tay kia đầy phấn khích.

– Cậu bé, cậu làm được rồi. Các anh, các anh có thể cho tôi một bản cái đó, ngay bây giờ không?

Kỹ thuật viên chạy lại băng, cắm tai nghe vào, quay máy chữ của mình, và bắt đầu gõ.

Barber đi đến một cái điện thoại trong phòng khách và gọi cho đại bản doanh ngầm dưới đất của CENTAF. Chỉ có một người mà anh cần nói chuyện.

Tướng Chuck Horner cần ngủ rất ít. Không ai khác trong các văn phòng Chỉ huy Liên quân dưới Bộ Quốc phòng Xêut của đại bản doanh CENTAF dưới toà nhà của Không lực Xêut trên đường Old Airport ngủ nhiều trong những tuần đó, nhưng tướng Horner là người ngủ ít nhất.

Khi đội bay yêu quý của ông đang bay và đang chao lượn tận bên trong lãnh thổ kẻ thù, ông không hề cảm thấy có thể ngủ được. Khi chuyến bay đã được thực hiện hai bốn giờ mỗi ngày, thì lại càng có ít thời gian để ngủ hơn.

Ông có một thói quen đi dạo trong các văn phòng của toà nhà CENTAF vào lúc giữa đêm, đi từ chỗ các nhà phân tích của Hố Đen dọc đến Trung tâm Chiến thuật Bay. Nếu một cú điện thoại kêu lên một cách không chờ đợi và ông đang ở gần đó, ông có thể trả lời được ngay. Nhiều sĩ quan Không lực thích đùa trong sa mạc, gọi về để hỏi điều gì đó, thấy mình được nói chuyện với chính ông chủ.

Đó là một thói quen dân chủ, nhưng nhiều khi mang lại bất ngờ. Trong một lần một chỉ huy đội bay, người sẽ phải giữ bí mật tên, gọi để than phiền rằng các phi công của anh ta đang chạy trong đêm một chiếc máy A ba lần trên đường đến mục tiêu của mình. Liệu các tay súng Iraq có thể bị quét sạch bởi một chuyến thăm từ các máy bay ném bom nặng được không, hở Buff?

Tướng Horner nói với viên trung tá rằng điều đó là không thể được – các Buff đều đã được trao nhiệm vụ đầy đủ. Người chỉ huy đội bay ở bên ngoài sa mạc phản đối, nhưng câu trả lời vẫn giữ. nguyên. Tốt, viên trung tá nói, trong trường hợp đó ông có thể bú tôi đi.

Rất ít sĩ quan có thể nói với một vị tướng toàn quyền làm điều đó và làm điều đó. Việc này nói lên rất nhiều phương pháp của Chuck Horner với các đội bay của mình, hai tuần sau người chỉ huy đội bay đó đã được thăng vượt cấp lên tướng.

Chính theo cách này mà Chip Barber tìm thấy Horner đêm đó, ngay trước khi một giờ đêm; ông gặp vị tướng trong văn phòng riêng ở toà nhà dưới lòng đất 40 phút sau đó.

Vị tướng đọc bản viết bằng tiếng Anh từ nhóm ở Riyadh. Barber đã sử dụng máy chữ để đánh dấu một số phần – trông nó không còn giọng một thông tin điện đàm nữa.

– Cái thông tin khác này của sự diễn giải của anh là từ các cuộc phỏng vấn các doanh nhân ở châu Âu đấy hả? ông châm biếm hỏi.

– Chúng tôi tin thông tin này là chính xác, thưa tướng quân.

Horner nhăn mặt. Cũng giống như những chiến binh khác, ông có ít thời gian cho thế giới giả trang. Còn hơn thế. Nguyên nhân thật đơn giản. Chiến đấu được dành cho sự tìm kiếm sự lạc quan – lạc quan tếu cũng có thể, nhưng tuy nhiên vẫn là lạc quan hoặc không ai có thể dự phần vào đó. Thế giới tình báo được dành cho giả thuyết sự bi quan. Hai triết lý có rất ít điểm chung, và thậm chí ở bước đó của cuộc chiến Không lực Mỹ đã trở nên ngày càng sôi mấu bởi những gợi ý nhắc đi nhắc lại của CIA rằng nó đã phá huỷ được ít mục tiêu hơn là đã tưởng.

– Và có thể cho rằng là mục tiêu gắn với đó tôi nghĩ? Vị tướng hỏi.

– Chúng tôi chỉ tin nó là rất quan trọng, thưa ngài.

– Tốt, điều thứ nhất, thưa ngài Barber, chúng tôi sẽ xem xét mẹ kiếp, vấn đề này.

Lần này một chiếc TR-1 ra ngoài Taif để thực hiện những chiến công hiển hách. Một phiên bản được nâng cấp của U-2 đời cũ TR- 1 đã được sử dụng như một loại máy thu thập thông tin đa chức năng, có khả năng bay trên Iraq mà không bị nhìn thấy và nghe thấy, sử dụng công nghệ của mình để nằm sâu vào trong hàng phòng thủ cùng với rađa tưởng tượng ra và nghe ngóng trang thiết bị. Nhưng nó vẫn có các camera và đôi khi vẫn được sử dụng không phải để chụp ảnh cỡ lớn mà chỉ cho một nhiệm vụ bí ẩn nhỏ bé nào đó. Nhiệm vụ chụp ảnh một địa điểm chỉ dược biết tên là Al Qubai là một đặc vụ nhỏ bé như ai đó có thể đoán ra.

Có một lý do thứ hai để chọn TR- 1 : Nó có thể chuyển các bức ảnh của mình vào thời điểm thực sự. Không chờ phải trở về. truyền tải TARPS, rửa phim, và đưa thẳng về Riyadh. Khi chiếc TR-l đang thám tiễu trên đường sa mạc đã được định vị phía tây Baghdad và nam căn cứ quân sự Al-Muhammadi, các hình ảnh nó thấy đã đến thẳng một màn hình vô tuyến trong căn cứ của đại bản doanh nằm ở Không lực Xêut.

Có năm người đàn ông ở trong phòng, gồm kỹ thuật viên vận hành màn hình và là người có thể. theo lệnh từ một trong số bốn người kia, lệnh cho máy tính giữ lại một khung hình và in ra ngay lập tức để nghiên cứu.

Chip Barber và Steve Laing đang ở đó, hiền dịu trong bộ đồ dân sự ở thánh địa của khí tài quân sự đó; hai người còn lại là đại tá Beatty của USAF và chỉ huy đội bay Joe Peck của RAF, cả hai đều là chuyên gia về phân tích mục tiêu.

Lý do sử dụng Al Qubai chỉ đơn giản là nó gần mục tiêu hơn chỉ vì nó quá nhỏ bé để có thể hiện ra trên các bản đồ của họ, nó là điểm tham chiếu đi kèm và miêu tả rất quan trọng đối với các nhà phân tích.

Chiếc TR-l tìm ra nó cách vài dặm điểm tham chiếu do Jericho gửi, nhưng ở đó không vấn đề gì rằng miêu tả đã chính xác, và ở đó không hề có địa điểm nào gần đó từ xa hợp với miêu tả.

Bốn người nhìn vào mục tiêu đang hiện dần ra, lưu lại khung hình đẹp nhất, và giữ lại. Máy in ra một bản để nghiên cứu.

– Ớ dưới này chăng? Laing thở hổn hển

– Hẳn là thế rồi, đại tá Beatty nói. chẳng có gì khác giống thế trong hàng dặm xung quanh hết cả.

– Chấy rận thật, Peck nói.

Al Qubai trên thực tế là một nhà máy chế tạo nguyên tử cho chương trình nguyên tử toàn Iraq của tiến sĩ Jaafar Al- Jaafar.

Một kỹ sư nguyên tử người Anh một lần đã nhận xét rằng đội cùng làm của anh ta là “l0% thiên tài và 90% ngu ngốc”. Thậm chí còn có phần hơn thế. Nhà máy chế tạo là nơi đội đó tạo ra sản phẩm của các nhà vật lý, các tính toán của các nhà toán học và các máy tính, và các kết quả của các nhà hoá học và tổng hợp tất cả lại để thành sản phẩm cuối cùng, chính các kỹ sư nguyên tử đã thực sự làm cho thiết bị trở thành một linh kiện kim loại có thể di chuyển được.

Iraq đã chôn nhà máy Al Qubai của mình hoàn toàn dưới sa mạc, sâu tới 80 fít, và đó chính là độ cao của mái. Bên dưới, 3 tầng xưởng chạy sâu xuống dưới. Điều khiến chỉ huy Đội Peck phải thốt lên chấy rận thật” là kỹ năng với nó nhà máy đã được nguỵ trang.

Không khó lắm để xây dựng cả một nhà máy ở dưới lòng đất, nhưng nguỵ trang nó lại gặp phải những vấn đề lớn. Một khi nó đã được xây dựng trong cái hố khổng lồ của mình, cát có thể làm hiện hình những bức tường thép và trên mái trừ khi toà nhà được xoá sạch đi. Cho toà nhà chìm xuống dưới tầng thấp nhất có thể phải đối mặt với vấn đề nước thải.

Nhưng nhà máy sẽ cần phải có điều hoà nhiệt độ; điều này đòi hỏi đưa vào một máy lọc không khí và một kiểu máy to đùng – cả hai đầu ống sẽ đều phải tòi ra trên nền sa mạc. Nó cũng sẽ cần có rất nhiều năng lượng điện và do đó một máy phát điện diesel mạnh. Nó cũng rất cần một lắp đặt không khí và bộ phận xả lại thêm hai ống nữa.

Lại còn cần một máy đi hoặc một thang máy chở người và một máy chở hàng để chuyên chở và đi lại cho nhân viên và dụng cụ – một cấu trúc làm lộ lên trên mặt đất nữa. Những xe tải chuyên chở sẽ không thể chạy trên nền cát mềm; nó cần có đường nền cứng, phải có nhựa đường chạy chí ít trên đường chính.

Cũng sẽ phải có các máy khí nóng, sử dụng được trong ngày khi bên ngoài rất nóng, nhưng không còn được như thế trong những đêm giá lạnh.

Do đó làm cách nào có thể nguỵ trang khỏi sự giám sát từ không trung một vùng đất sa mạc trinh nguyên có chứa một con đường trải nhựa có vẻ như không chạy đến đâu, bốn cái ống chính, một đường thang máy, điểm đến và đi cố định của các xe tải, và các máy sưởi thường xuyên sử dụng?

Chính đại tá Osman Badri, thiên tài trẻ tuổi của Quân giới lraq, đã làm được điều đó; và giải pháp của anh ta làm điên tiết cả Liên quân với tất cả những máy bay do thám của mình.

Từ không trung, Al Qubai là một cái sân di động chiều ngang 5 acre chiều dài 40 acre. Mặc các con mắt quan sát ở Riyadh, ngay cả với những dụng cụ tốt nhất, cũng không thể nhìn thấy được nó, bốn trong số những cái xe vứt ngổn ngang – những vòm vững chắc với kim loại cuộn – dưới đó các ống được đưa ra ngoài không khí hoặc được lọc khí qua các thân xe ôtô và xe tải gãy.

Vùng chính, xưởng cán thép, với những cái thùng to bằng thép chứa ôxy và axêtylen được đặt một cách bướng bỉnh bên ngoài, che giấu lối vào của các thang máy. Sự tự nhiên của ngôi nhà ở một chỗ như thế chứng tỏ một nguồn khí ấm. Lý do khiến con đường đi vào không bị nhìn thấy thật rõ ràng – các xe tải chở những chiếc xe vứt đi đến đó rồi chở thép đi

Toàn bộ hệ thống thực sự đã được nhìn thấy trước bởi AWACS, cái đã thông báo nhìn thấy một khối lượng kim loại khổng lồ ngay giữa sa mạc. Liệu đó có phải là sư đoàn xe tăng? Một đập nước? Một chuyến bay do thám đã sớm được thực hiện trả lời đó chỉ là một bãi rác xe hơi, và mối quan tâm liền bị bỏ qua.

Cái mà bốn người đàn ông ở Riyadh cũng không thể nhìn thấy là bốn đống xác xe hơi khác cũng tạo nên những khung lớn, bên trong được tạo thành hình vòm, nhưng với các ống thuỷ lợi bên dưới chúng. Hai trong số chúng có chứa các khẩu đội pháo phóng không hoả lực mạnh, nòng ZSU-23-4 của Nga với nhiều phát bắn; cái khác là hai SAM, đời 6,8,và 9, không phải do rađa hướng lối mà là một kiểu dò tìm bằng sức nóng nhỏ hơn một đĩa rađa có thể hướng được lối.

– Vậy thì nó phải ở dưới đó, Beatty thì thầm.

Họ nhìn thấy cả một xe tải dài đang kéo các xác xe hơi cũ kéo đi. Nó có vẻ di chuyển trong những lối đi nhỏ, bởi vì TR-l, bay 80 nghìn fít phía trên Al Qubai, đã chạy qua vẫn các khung hình đó ở tỉ lệ nhiều giây. Phấn khích, hai sĩ quan tình báo nhìn cho đến khi chiếc xe tải lại quay trở về địa điểm cũ.

– Cá là đồ ăn, nước uống, và đồ tiếp tế đều ở dưới các xác xe hơi đấy, Beatty nói. ông ngồi xuống. Vấn để phức tạp là, chúng ta sẽ không bao giờ đến được cái nhà máy thối tha đó. Ngay cả khi các Buff có thể ném bom đạt đến độ sâu đó.

– Chúng ta có thể phong toả chúng, Peck nói. Phá vỡ đường vào ra, cố định chúng ở trong đó. Rồi nếu chúng thử cố các biện pháp cứu chữa để phá vây, chúng ta sẽ bắn chúng tung xác.

– Nghe hay đấy, Beatty đồng ý. Thế phải mất mấy ngày nữa mới tới ngày đổ bộ?

– Mười hai, Barber nói.

– Chúng ta có thể làm được điều đó. Độ cao, laser dẫn lối, nhiều máy bay, một chiếc gorilla.

Laing ném sang Barber một cái liếc xéo cảnh báo.

– Chúng tôi thích một cái gì đó kín đáo hơn một chút Barber nói. Một cuộc tiễu trừ hai chiếc, độ cao thấp, xác nhận bằng mắt thường sự phá huỷ.

Một sự im lặng bao trùm.

– Người của anh đang cố nói chúng ta điều gì đó à? Beatty hỏi.

– Baghdađ không được phép biết là chúng ta đang quan tâm

– Thế có thể làm như thế được không? Laing gợi ý. Có vẻ như là chẳng có phòng thủ gì cả đâu. Chìa khoá ở đây là sự nguỵ trang thôi mà.

Beatty gật đầu. Mẹ kiếp bọn này chứ, ông nghĩ. Họ đang cố bảo vệ ai đó đây mà. Tốt thôi, chẳng phải việc của ta. – Anh đang nghĩ gì thế hả Joe? ông hỏi vị chỉ huy đội bay.

– Các Tornado có thể làm được việc này, Joe Peck nói, cùng với các Buccaneer hướng mục tiêu cho chúng. Sáu quả bom một nghìn pound sẽ rơi đúng vào cửa của chỗ đó. Tôi cá cửa đó sẽ được gia cố ở bên trong đó. Có thể khó phá.

Beatty gật đầu.

– Tốt rồi, người của anh sẽ làm việc đó. Tôi sẽ nói lại với tướng Horner. Anh thích sử dụng ai hả Joe?

– Đội 6, à 8, ở Maharraq. Tôi biết viên sĩ quan, Phil Curzon. Tôi gọi anh ta đến đây nhé?

Chỉ huy bay Philip Curzon chỉ huy mười hai trong số những chiếc Tornado Panavia của Không lực Hoàng gia trong Đội 608, trên đảo Bahrain, nơi họ đã đến hai tháng trước từ căn cứ của mình ở Laarbruck, Đức. Ngay sau buổi trưa ngày hôm đó mồng tám tháng Hai, anh ta nhận được lệnh không được chối từ: ngay lập tức về trung tâm CENTAF ở Riyadh. Độ khẩn cấp lớn đến nỗi vào thời điểm anh biết được thông điệp, thì người sĩ quan cấp trên báo cáo rằng một chiếc Beach King phải từ Shakey’s Pizza ở bề bên kia đảo đã đỗ xuống và đang đỗ đó chờ đón anh ta. Khi anh ta lên được chiếc Beach King sau khi đã vơ vội quân phục, anh ta phát hiện chiếc máy bay hai động cơ là thuộc về đích thân tướng Horner.

– Cái quái gì đang xảy ra đây? chỉ huy bay tự hỏi, rất băn khoăn.

Tại căn cứ quân sự Riyadh một chiếc ôtô chở người của USAF đang đợi để mang anh ta đi một dặm khỏi đường Sân Bay Cũ để đến Hố Đen.

Bốn người trên đã ở trong phòng họp để xem các bức ảnh do chiếc TR-l gửi về vào 10 giờ sáng vẫn còn ở đó. Chỉ thiếu người kỹ thuật viên. Họ không cần có thêm ảnh nữa. Những cái họ có được trải rộng trên mặt bàn. Chỉ huy đội Peck đang dẫn giải.

Steve Laing giải thích điều họ cần, và Curzon kiểm tra các bức ảnh.

Philip Curzon hoàn toàn không điên, hoặc là anh ta chưa từng chỉ huy một phi đội bay của những chiếc máy bay ném bom vô cùng đắt giá của Nữ Hoàng. Trong các phi vụ ít quan trọng trước với những quả bom JP-233 chống các địa điểm sân bay của Iraq; hai người anh biết đã chết. Hai người khác đã bị dẫn lôi đi, bị đánh và hành hạ, trên TV Iraq, một trong số các kiệt tác của PR của Saddam.

– Tại sao không đưa mục tiêu này vào danh mục Nhiệm vụ Không quân, giống như mọi cái khác? Anh trầm ngâm hỏi. Tại sao phải vội thế?

– Hãy để tôi nói thật thẳng thắn với anh, Laing nói. Chúng tôi giờ đây đã biết được mục tiêu này là đang chứa đựng cái chính yếu của Saddam và có thể chỉ chứa những đầu đạn khí độc rất nguy hiểm. Rõ ràng là các kho đang dần được chuyển ra ngoài mặt trận. Vì thế cần phải rất khẩn trương.

Beatty và Peck gật gù. Đó là lời giải thích đầu tiên họ nhận được cho mối quan tâm quá đáng vào cái nhà máy nằm dưới cái bãi rác.

– Nhưng mà hai máy bay tấn công thôi à? Curzon vẫn khăng khăng. Chỉ có hai? Như thế làm cho nó trở thành nhiệm vụ hết sức không quan trọng. Tôi sẽ nói thế nào với người của tôi đây? Tôi sẽ không nói dối họ đâu, thưa các ngài. Xin hãy nói thẳng thắn ra đi.

– Không cần đâu, Laing nói. Chỉ cần nói với họ sự thật mà thôi. Rằng kiểm soát từ trên không đã nhận ra các chuyển động của xe tải đến và đi khỏi địa điểm. Các nhà phân tích tin rằng đó là các xe tải quân sự, và họ đã đi đến kết luận rằng cái có vẻ vô hại đó che giấu một đống những thứ kinh tởm – đặc biệt là bên trong cái tảng khổng lồ trung tâm đó. Do vậy nó trở thành mục tiêu. Và còn với điệp vụ ít quan trọng, anh có thể thấy là sẽ không có tên lửa, không có loại A đâu.

– Và đó là sự thật chứ? Viên chỉ huy bay hỏi.

– Tôi thề mà.

– Thế thì tại sao, thưa các ngài, chủ định rõ thế rằng nếu bất kỳ ai trong số người của tôi sẽ bị bắn hạ và bị thẩm vấn, Baghdad có thể không moi được thông tin từ đó? Các anh không tin câu chuyện xe tải quân sự cũng như tôi vậy đâu.

Đại tá Beatty và chỉ huy bay Peck ngồi xuống. Người này quả thực khó chơi. Thật tốt.

– Nói với anh ta đi, Chip, Laing chào thua nói.

– Tốt thôi, chỉ huy bay, tôi sẽ nói với anh vậy. Nhưng chỉ là cho riêng anh thôi đấy nhé. Phần còn lại là hoàn toàn đúng. Chúng tôi có một tay trong. Trong đó. Vào trước chiến tranh như là một sinh viên sau đại học. Bây giờ anh ta đang say mê một cô gái Mỹ và muốn ở lại trong đó. Trong các cuộc phỏng vấn với người di cư, một số điều đã xảy đến. Một người phỏng vấn thông minh đã chuyển anh ta cho chúng tôi.

– CIA phải không? Curzon hỏi.

– Phải, đúng là CIA. Chúng tôi trò chuyện với chàng trai. Anh ta có thẻ xanh, đã cứu chúng tôi. Khi anh ta còn ở Iraq, trong Đội Công binh, anh ta đã làm việc với một số dự án bí mật. Giờ anh ta nói hết chúng ra. Nên chúng tôi biết được. Nhưng nó là tuyệt mật đấy. Nó sẽ không phải là sau nhiệm vụ, và sẽ không phải là nói dối nếu anh không nói với người của anh chuyện đó – nếu chẳng may, anh không thể làm.

– Câu hỏi cuối cùng nhé, Curzon hỏi. Nếu người đó an toàn trong đó, thì tại sao lại cần chơi đểu Baghdad một cú như thế?

– Còn có những mục tiêu khác anh ta hở cho chúng tôi nữa cơ. Mất thời gian, nhưng chúng tôi có thể có được 20 mục tiêu nóng sốt nhờ anh ta. Chúng tôi báo động Baghdad rằng anh ta đã hót như một con chim yến, họ đã rời các chỗ đó trong đêm rồi. Họ còn có thể thêm vào hai cái nữa, anh cũng biết đấy.

Philip Curzon đứng dậy và nhặt những bức ảnh lên. Mỗi cái đều có điểm tham chiếu chính xác trên bản đồ để kế bên.

– Tốt rồi. Rạng sáng ngày mai. Điểm này sẽ ngừng tồn tại. Rồi anh ta đi. Trên chuyến bay trở về anh ta mải mê nghĩ về nhiệm vụ. Cái gì đó bên trong nói với anh ta rằng mình đã bị lừa dối thảm hại. Nhưng những lời giải thích hoàn toàn có thể chấp nhận, và anh ta đã nhận lệnh. Anh không thể nói dối, nhưng anh đã bị cấm để lộ bất cứ gì. Phần tốt đẹp là, mục tiêu được đặt ở chỗ trống, không có bảo vệ. Người của anh ta có thể đến và đi về không gặp gì trắc trở. Anh đã biết người có thể đi thực hiện cuộc tấn công đó.

Chỉ huy bay Lofty Williamson đang sung sướng lắc lư trong một cái ghế trong ánh mặt trời buổi chiều khi tiếng chuông điện thoại vang lên. Anh ta đang đọc số mới nhất của tạp chí Không lực Thế giới, kinh thánh của phi công chiến đấu, và đang buồn chán đến chết một bài báo đầy chất mệnh lệnh về một trong số những máy bay thả bom của Iraq anh có thể phải lao vào.

Chỉ huy đội bay đang ở trong văn phòng của mình, những bức ảnh bày ra trước mặt. Trong một giờ đồng hồ anh trình bày ngắn gọn với thượng cấp của mình điều họ cần.

– Anh sẽ có hai chiếc Buck để đánh dấu mục tiêu cho anh, nên anh cần chuồn lẹ khỏi đó trước khi quỷ biết được điều gì xảy ra.

Williamson tìm thấy hoa tiêu của mình, người ngồi ở băng ghế sau mà người Mỹ gọi là wizzo, người giờ đây đã làm nhiều việc hơn chỉ là dẫn đường, đang chịu trách nhiệm các đồ điện tử và các hệ thống vũ khí. Trung uý bay Sid Blair đã nổi tiếng với khả năng tìm thấy được một cái vỏ lon trên sa mạc Sahara nếu cần phải ném bom.

Giữa họ, với sự trợ giúp của những người của Chiến dịch, họ đánh dấu trên bản đồ mục tiêu của phi vụ. Địa điểm chính xác của cái bãi rác được tìm thấy, từ chỗ tham chiếu của nó trên các bản đồ bay.

Viên phi công phàn nàn anh ta muốn tấn công từ phía đông vào đúng lúc mặt trời lên, để nếu có tay súng Iraq nào có thể giương súng lên trong mắt họ trong khi anh ta, Williamson, có thể nhìn thấy mục tiêu với độ chính xác cao.

Blair nhấn mạnh anh ta muốn một “stone bonker”, một vị trí không thể nhầm lẫn dọc theo đó anh ta có thể có được những điều chỉnh là phút cuối cùng trong cuộc đi của anh ta. Họ tìm thấy hơn một dặm ngược lại khỏi mục tiêu trong một hướng lệch sang đông – một làn sóng điện đàm chính xác đúng một dặm từ chỗ đó.

Đến nơi vào lúc bình minh cho họ Thời điểm Mục tiêu cốt tử hay TOT, mà họ cần. Lý do TOT phải được làm theo đến từng giây là vì độ chính xác này quyết định sự khác biệt giữa thành công và thất bại. Nếu phi công thứ nhất bị chậm dù chỉ một giây, thì phi công thứ hai có thể theo đúng chính xác chỗ những quả bom của đồng nghiệp mình nổ; tệ hại hơn thế, phi công thứ nhất sẽ có một chiếc Tornado đến vào sau anh ta vào gần 10 dặm một phút – không phải một dấu hiệu hay. Cuối cùng, nếu phi công thứ nhất vào quá sớm hoặc phi công thứ hai vào quá muộn, các tay súng sẽ có thời gian để tỉnh giấc, hướng nòng súng của họ lên, và nhắm bắn họ. Do đó những người bay thế sẽ phải vào thật đúng khi có vụ nổ bùng lên dưới đất.

Williamson mang theo người bay cùng mình và hoa tiêu thứ hai, hai trung uý bay trẻ tuổi, Peter Johns và Nicky Tyne. Thời điểm chính xác khi mặt trời lên trên dãy đồi thấp ở phía đông mục tiêu đã được nhất trí là 7 giờ 8 phút, và cuộc tấn công sẽ trực chỉ vào 270 độ tây.

Hai chiếc Buccaneer từ Đội số 12, cũng đóng ở Maharraq, đã được chỉ định. Willamson có thể dựa vào các phi công ở đó trong buổi sáng. Các khẩu pháo đã được hướng về để cung cấp ba quả bom một nghìn pound trang bị các mũi laser hướng dẫn PAVEWAY cho mỗi chiếc Tornado. Vào tám giờ tối đó, bốn người trong đội ăn và đi ngủ, với đồng hồ đặt chuông chỉ 3 giờ sáng.

Vẫn còn tối om khi một người trong đội bay đi một chiếc xe tải đến những khu phố còn đang say ngủ của đội số 608 để mang bốn người lên chỗ bay.

Nếu những người Mỹ ở Al Kharz đã đi cày dưới canvas, thì những người đóng ở Bahrain vẫn còn vui vẻ với những tiện nghi cuộc sống dân sự. Một số đóng trong những căn phòng hai người ở khách sạn Sheraton. Những người khác trong những khu độc thân xây bằng gạch gần căn cứ không quân. Thức ăn rất tuyệt, đồ uống sẵn sàng, và sự cô đơn tệ hại nhất của đời lính chiến được giảm bớt đi bằng sự có mặt của 300 nữ phục vụ bay đang huấn luyện trong một trường huấn luyện của Không quân vùng Vịnh.

Những chiếc Buccaneer đã được đưa ra ngoài Vịnh chỉ một tuần trước đó, đầu tiên được nói là không được muốn. Kể từ đó, chúng đã thể hiện hơn cả giá trị của mình. Về bản chất là những chiếc đánh ngầm dưới nước, các Buck quen hơn với việc chìm sâu dưới nước của Biển Bắc tìm kiếm những quả thuỷ lôi của Xô viết, nhưng không hề để ý đến sa mạc.

Khả năng đặc biệt của chúng là bay thấp, và mặt dù chúng đã là những chiến binh già tới 30 tuổi, chúng được biết đến, trong những cuộc tập trận chung với USAF ở Trường Bay Không quân ở Miramar, California, để tấn công nhanh hơn rất nhiều những máy bay chiến đấu của Mỹ chỉ đơn giản bởi “ăn bẩn” – bay thấp đến nỗi trở nên không thể bị theo dọc theo các mô đấtt và ụ đất của sa mạc.

Sự đối nghịch trong nội bộ không lực sẽ có cái mà những người Mỹ không thích bay thấp và dưới 500 fít cố thấp hơn nữa, vì Không lực Hoàng gia thích điều đó và trên 100 fít thì không thể được nữa. Trên thực tế, cả hai chiếc đều bay thấp hoặc cao, nhưng những chiếc Buck, không siêu âm nhưng được chế tạo một cách tuyệt diệu, cho thấy chúng có thể xuống thấp hơn bất kỳ ai mà vẫn sống sót được.

Lý do sự xuất hiện của chúng ở vùng Vịnh là những thất bại ban đầu của những chiếc Tornado, ở những phi vụ thấp kỷ lục làm việc một mình, những chiếc Tornado phải ném bom rồi sau đó đi theo chúng mọi cách thức đến được mục tiêu, ngay vào trung tâm của hình tam giác chữ A. Nhưng khi chúng và những chiếc Bucaneer làm chung với nhau, bom của Tornado với mũi gắn PAVEWAY, trong khi những chiếc Buck có thiết bị truyền

laser, được gọi là PAVESPIKE. Lái bên trên và bên dưới một chiếc Tornado, một chiếc Buck có thể “đánh dấu mục tiêu, để chiếc Tornado định vụ bom và sau đó thổi tung tất cả.

Hơn thế nữa, hệ thống PAVESPIKE của Buck được chứa trong một cái hộp hình ống chắc chắn ở bụng mình, bằng cách đó nó cũng có thể quay và vẫy, trong khi vẫn giữ tia laser thẳng vào mục tiêu cho đến khi bom đến và thổi đi.

Trong buồng lái, Williamson và hai phi công Buck đồng ý thiết lập IP của họ – tức là Điểm Đầu tiên, khởi điểm của bom – ở 12 dặm về phía đông của địa điểm cần ném bom. Rồi họ đi thay đồ bay. Như thường lệ, họ đã đến trong bộ đồ thường phục; ở Bahrain có quá nhiều dấu hiệu quân sự trên đường phố có thể đánh động người dân sở tại.

Khi họ đã thay đồ xong, Wilhamson với tư cách chỉ huy phi vụ điền vào báo cáo. Vẫn còn hai giờ nữa mới đến lúc cất cánh. Những phi công của chiếc “scramble” 32 của Thế chiến hai còn nhiều thời gian. Vẫn còn đủ để uống cà phê và bước sang bước tiếp theo của các chuẩn bị. Mỗi người cầm súng tay lên, một khẩu Walther PPK nhỏ đều đã được lắp đạn, cần đến nếu cuộc tấn công trong sa mạc cần bắn vào một cái đầu Iraq nào đó và hy vọng xử lý được bằng cách này.

Họ cũng rút 1000 bảng của mình bằng đồng tiền vàng và “goolie chít”. Tài liệu đáng chú ý này lần đầu được người Mỹ đưa vào sử dụng ở Chiến tranh vùng Vịnh, nhưng người Anh, người đã bay chiến đấu trong khu vực này kể từ những năm 1920, hiểu rõ chúng. Một goolie chít là một thư bằng tiếng Arập và sáu thứ tiếng phương ngữ Bedouin. Nó nói rằng “Kính thưa ngài Bedou, người cầm lá thư này là một sĩ quan người Anh. Nếu ngài đưa anh ta về với đội tuần tra gần nhất của Anh, với sự an toàn tuyệt đối của anh ta, ngài sẽ được thưởng 5000 bảng bằng vàng”. Đôi khi cách đó cũng được việc.

Các bộ quân phục bay đã được trang bị ở vai miếng kim loại để có thể được nhìn thấy bởi các đội tìm kiếm của Liên quân nếu phi công bị rơi xuống sa mạc.

Sau khi uống cà phê là đến lúc khử trùng – không đến nỗi ghê gớm như nghe qua. Mọi thứ nhẫn, thuốc lá, bật lửa và ảnh gia đình đều bị thu lại, mọi thứ có thể cung cấp cho người tra hỏi một thứ cá tính của tù binh. Việc tìm kiếm này được thực hiện bởi một WAAF đáng sợ tên là Pamela Smith – đội bay cho rằng đó là phần hay ho nhất của phi vụ, và các phi công trẻ hơn sẵn sàng giấu những thứ có giá nhất của mình ở những chỗ

đáng kinh ngạc để xem Pamela có tìm ra không. Thật may mắn, cô đã từng là y tá và chấp nhận cái trò đùa nhảm gì này với sự vui vẻ bình thản.

Một giờ trước khi cất cánh. Một số người ăn, một số không thể, một số gấp chăn, một số uống cà phê và hy vọng sẽ không bị chơi bất thình lình trên đường đi làm phi vụ, một số người khác mặc kệ.

Chiếc xe bus chở tám người đến chỗ, đã được chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị, vũ khí. Mỗi phi công đi quanh chỗ mình, tìm xem theo nghi lễ tiền cất cánh. Cuối cùng họ trèob lên khoang lái. Nhiệm vụ đầu tiên là ngồi yên, thật chắc, và nối với điện đàm nhanh do đó có thể nói được. Rồi APU – đơn vị trợ lực đã lắp mọi thứ đồ đạc dụng cụ nhảy.

Wilhamson khởi động máy bên phải, cái bắt đầu rú lên chậm rãi, rồi bên trái. Đóng lại, bấm vào nút số một, điểm đã chọn . Có dấu hiệu từ tháp, bấm vào nút cất cánh. Williamson liếc nhìn sang bên phải. Chiếc Tornado của Peter Johns đang ở sau anh và hơi chậm hơn, và bên dưới anh là hai chiếc Buccaneer. Anh giơ một tay lên. Ba cánh tay đeo găng tay màu trắng cũng giơ lên trả lời.

Nhấn ga, đẩy đến mức năng lượng tối đa. Chiếc Tornado hơi chòng chành nhè nhẹ. Qua cánh cửa để bay ra, giờ đây nó đã ở trên. Một lần giơ ngón cái lên cuối cùng và ba lời đáp lại. Thả phanh ra, trôi lên, lăn đi, nền đường ray ngày càng bị nghiến đi nhanh hơn nhanh hơn, và rồi chúng bị vượt, bốn cái trong đội, lao thẳng ra ngoài biển đen sẫm, những ánh đèn của Manama để lại đằng sau, chuẩn bị đường cho cuộc gặp gỡ với chiếc tiếp nhiên liệu đang đợi ở đâu đó trên biên giới giữa Xêut và Iraq.

Wilhamson đẩy năng lượng lên trên mức cao và lượn một vòng ở độ cao 12 nghìn fít. Với rađa, họ tìm thấy chiếc tiếp nhiên liệu trong bóng tối, rất gần, và cắm chiếc mũi tiếp nhiên liệu vào những chiếc máy bay. Khi đã được đổ đầy nhiên liệu, cả bốn chiếc lại quay đi và lao về hướng sa mạc.

Williamson nâng độ của mình lên f00 rít, lập một cruise tối đa 480 knot, và lao thẳng vào Iraq. Anh đang bay với sự trợ sức của TIALD, hình ảnh Nhiệt và Chỉ định Ijaser, là tương đương của Anh với hệ thống LANTIRN. Thấp dưới sa mạc đen sẫm, các phi công có thể nhìn thấy mọi thứ đang đến với mình, các tảng đá, bụi cây, mưa, đồi, khi chúng đang đến gần.

Ngay trước khi mặt trời mọc, họ quay IP của mình đến chế độ sẵn sàng thả bom. Sid Blair nhìn vào màn hình điện đàm và nói với phi công của mình chỉnh lộ trình một độ. Williamson chỉnh lại độ thả bom đến độ tự động và liếc xéo về màn hình trước mặt, nó đang chạy hàng dặm và hàng giây đến mục tiêu thả. Anh hạ xuống 100 fít, trên nền đất phẳng và giữ nguyên như thế. Ở nơi nào đó bên dưới anh, người bay cùng cũng làm giống hết. Thời gian Mục tiêu đã chính xác.

Anh nhấn nút thả và giữ tốc độ tấn công ở 540 knot. Mặt trời đã chiếu lên những quả đồi, những sợi khói đầu tiên lan toả trên bình nguyên, và còn cách 6 dặm nữa. Anh có thể nhìn thấy ánh thép, những đống xe bị vứt chỏng chơ, và cái miệng màu ghi to lớn ở trung tâm, hai cánh cửa chìa về phía anh.

Những chiếc Buck đang ở 100 fít phía dưới và một dặm phía sau. Những câu nói từ những chiếc Buck, đã bắt đầu ở IP, tiếp tục vang vào tai anh. Sáu dặm nữa đang lại gần, năm dặm nữa, một chuyển động nào đó trên khu vực mục tiêu, bốn dặm.

“Tôi đang đánh dấu đây”, hoa tiêu của chiếc Buck thứ nhất nói. Mũi laser của chiếc Buck đã chĩa thẳng vào cửa khu đó Cách ba dặm, Williamson bắt đầu “lướt”, thả lỏng dần, nhìn chằm chạm vào mục tiêu. Không vấn đề gì hết, công nghệ có thể làm nốt phần còn lại. Cách 300 fít HUD của anh bảo anh thả bom. Anh nhấn vào nút thả bom, và cả ba quả bom một nghìn pound rơi xuống dưới. Vì anh đang lướt, những quả bom lao lên cùng anh một chút trước khi trọng lực trái đất kéo chúng xuống và chúng bắt đầu đường rơi hình parabol xuống bãi rác.

Máy bay của anh nhẹ đi được một tấn rưỡi, anh lao lên nhanh đến 1000 fít, rồi chuyển sang 135 độ nghiêng và giữ theo cột điều khiển. Chiếc Tornado đang lao xuống và quay lại, quay về phía mặt đất và về phía con đường đã đến. Chiếc Buck của anh lao theo, rồi cũng quay ngược.

Vì có màn hình camera ở bụng máy bay, người hoa tiêu của chiếc Buccaneer có thể nhìn thấy tác động của những quả bom vào chính diện những cánh cửa của cái bãi rác. Toàn bộ khu vực phía trước bãi rác chuyển thành một tảng lửa và khói, trong khi một cột bụi bay lên từ nơi trước kia từng là một bãi rác.

Vì đã bắt đầu yên trở lại, Peter Johns trong chiếc Tornado thứ hai đã đến, chậm hơn người chỉ huy 30 giây. Người hoa tiêu của chiếc Buck nhìn thấy nhiều hơn thế. Những chuyển động anh ta thấy trước đó được ấn định vào một mảng. Những họng súng lộ ra.

– Chúng có pháo phòng không đấy! Anh ta gào lên. Chiếc Tornado thứ hai đang lao lên. Chiếc Buccaneer thứ hai có thể nhìn thấy toàn bộ. Bãi rác, bị thổi bay thành từng mảnh dưới áp lực của ba quả bom đầu tiên, để lộ ra một cấu trúc bên trong đang bị xoáy lên và đổ rạp. Nhưng có những họng súng phòng không đang chĩa lên từ những chiếc xe nát bẹp.

– Thả bom rồi! Johns hét lên, và chuyển chiếc Tornado của anh ta vào chế độ quay hình chữ G tối đa. Chiếc Buccaneer của anh ta cũng chạy ra khỏi mục tiêu, nhưng cái PAVESPIKE ở dưới bụng nó vẫn giữ hướng về bãi rác.

– Trúng rồi! Người hoa tiêu của chiếc Buck kêu lên.

Có một tiếng động của đạn giữa những chiếc xe đổ nát. Hai SAM bắn dựa trên vai khạc lửa sau chiếc Tornado. Wilhamson đã chuyển sang chế độ quay, trở về 100 fít bên trên sa mạc nhưng hướng sang hướng khác, về phía mặt trời

đang hiện ra. Anh nghe thấy giọng thét lên của Peter Johns:

“Chúng tôi bị trúng rồi!”

Sau anh, Sid Blair im lặng. Trong cơn điên giận,

Wilhamson giật chiếc Tornado quay thêm một vòng nữa, nghĩ rằng có cơ may bắn được các tay súng Iraq bằng súng của mình. Anh đã quá chậm.

– Anh nghe thấy một trong hai chiếc Buck nói, “Họ có tên lửa dưới đó”, và rồi anh nhìn thấy chiếc Tornado của Johns, đang lao xuống, khói bốc ra từ động cơ đang cháy, nghe thấy anh chàng 25 tuổi nói khá rõ, “Đang rơi… đang phóng ra”.

Họ không còn có thể làm được gì nữa rồi. Trong những phi vụ trước đó những chiếc Buck thường đi theo những chiếc Tornado về nhà. Trong ngày hôm nay, đã thoả thuận rằng những chiếc Buck có thể về bằng đường riêng của mình. Trong im lặng hai chiếc đánh dấu mục tiêu đã làm cách tốt nhất của mình: Họ chĩa bụng xuống sa mạc và giữ nguyên như thế để trở về.

Lofty Williamson đang trong cơn giận mù quáng, rõ ràng anh đã bị lừa dối. Anh ta đã không: không ai biết về pháo phòng không và những quả tên lửa giấu ở Al Qubai.

Ở bên trên, một chiếc TR-l gửi về những bức ảnh đúng lúc cuộc tàn phá về Riyadh. Một đồn E-3 đã nghe thấy mọi thứ trong cuộc trò chuyện trên không và nói với Riyadh họ đã mất một chiếc Tornado.

Lofty Williamson trở về nhà một mình, để báo cáo và đổ sự tức giận của mình vào những kẻ lựa chọn mục tiêu ở Riyadh. Tại đại bản doanh của CENTAF ở đường Old Airport, mềm vui mừng của Steve Laing và Chíp Barber rằng Quả Đấm của Thượng đế đã bị chôn vùi trong cát bụi nơi nó được tạo ra đã bị che mờ bởi sự thể mất hai người lính trẻ.

Bình luận