Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

500 Giải đáp y học theo yêu cầu bạn đọc

Chương 2: Dinh Dưỡng, Thuốc Men Và Các Vấn Đề Khác

Tác giả: Lê Trọng Bổng
Thể loại: Y Học - Sức Khỏe

41. Làm gì để tránh ngộ độc thức ăn?
“Thấy nhiều người bị ngộ độc thức ăn, bị tiêu chảy phải đi cấp cứu, chúng em hoảng quá, hè này chẳng dám đi chơi xa”.
Các em hãy xem kỹ lại mấy khâu sau đây, nếu đánh giá là đạt yêu cầu rồi thì sẽ không phải lo lắng gì hết.
– Có thường xuyên rửa tay không, nhất là trước khi ăn bất cứ thứ gì? Đã bỏ hẳn được thi quen xấu là nhấm nước bọt vào ngón tay khi đọc sách?
– Trước bữa ăn, có giúp mẹ, giúp chị nhúng tất cả bát đũa vào nước sôi không (hay vẫn chỉ dùng giẻ lau như trước)?.
– Có giúp gia đình kiểm tra lại thức ăn để vứt bỏ các thứ đã bắt đầu ôi thiu không, kể cả những thứ để trong tủ lạnh? Nhớ rằng nếu không được tổng vệ sinh thường xuyên, tủ lạnh sẽ là nơi dung dưỡng và phát tán vi khuẩn đáng gờm.
– Trước khi mua bất cứ thức ăn thức uống gì, có xem nó đảm bảo vệ sinh hay không (có bị ruồi, gián, thạnh sùng “sờ” vào, có tay bẩn của những ai mó vào, nước đá thứ thiệt hay làm từ nước giếng, thậm chí nước sông) và tìm cách khắc phục trước khi ăn (đặt lại ổ bánh mì trên chảo nóng chẳng hạn…)?
Nếu bệnh tả xảy ra thì thật kinh khủng, vì những cái bàn cầu (hố xí) di động của ngành đường sắt vung vãi trên đường sẽ là trợ thủ đắc lực cho mầm bệnh dịch tả trong các chuyến chu du nam bắc.
Tuy nhiên, trong tình huống không may đó, nếu các em đạt “điểm 10” về mấy vấn đề trên thì vẫn đi du lịch được trong dịp hè, vẫn tắm biển an toàn nếu cư dân các vùng này không có thói xấu phóng uế lung tung.
42. Ăn quá mặn rất nguy hiểm
“Ông bác ruột của cháu làm thợ mộc, có thói quen ăn mặn vô tư. Cháu đọc báo thấy nói ăn mặn là không tốt, nhưng ông nói ăn mặn mới khỏe người. Xin cho biết thực hư”.
Ăn mặn là một thói quen không tốt mà con người mắc phải trong quá trình tiến hóa, vì sự thực cơ thể không cần một lượng muối lớn như hằng ngày chúng ta ăn vào. Tuy nhiên, trước đây, người ta chưa biết đến hậu quả tai hại của việc sử dụng quá mức muối ăn (NaCl) đối với sức khỏe con người.
Cách đây khoảng 20 năm, ở phương Tây bắt đầu có những cảnh báo đầu tiên của giới khoa học về chuyện này, nhưng lập tức bị các ông chủ chuyên chế biến thực phẩm tìm cách chống lại và chối bỏ. Vì sao vậy? Rất đơn giản là vì vấn đề lợi nhuận. NaCl là chất giữ ẩm trong sản phẩm; càng nhiều muối, trọng lượng của sản phẩm cũng tăng theo, mà trọng lượng của sản phẩm thực phẩm tương đương với vàng ròng! Muối còn được coi như một chất “gây nghiện” làm cho người sử dụng gắn bó với thực phẩm. Đó là chưa kể đến lợi lộc của các ông chủ chuyên sản nước đóng chai (ăn mặn khát phải uống nước thêm). Chỉ cần giảm 30% lượng muối trong thực phẩm là mỗi năm, các ông chủ “ăn theo” này sẽ thất thu tới 40 tỷ frăng Pháp.
Nhưng chân lý là chân lý. Các nhà khoa học có bằng chứng cho thấy việc sử dụng nhiều muối làm tăng huyết áp, buồng tim trái to ra (thất trái phì đại), các chứng bệnh về tim mạch phát triển, làm tăng nguy cơ loãng xương và ung thư dạ dày.
Năm 1990, chính phủ Phần Lan đã buộc các nhà sản xuất thực phẩm giảm một nửa lượng muối đưa vào cơ thể mỗi ngày (từ 12 g/người xuống còn 6 g), làm cho tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch sau đó giảm một nửa. Điều này khiến Phần Lan quyết định phấn đấu hạ xuống còn 4 g cho đến năm 2002.
Chính phủ Anh hưởng ứng ngay, quyết định giảm mức tiêu thụ muối mỗi ngày xuống còn 5 g/người; và năm 2002, tai biến về tim mạch ở Anh giảm xuống còn 22%. Từ năm 2000, ngày 30/1 ở Anh được gọi là “ngày không dùng muối”. Riêngy năm 2001 đã loại trừ 1.000 tấn muối đáng lẽ được dùng cho thực phẩm.
Pháp vẫn chưa nhúc nhích gì vì cuộc tranh luận chưa ngã ngũ, trong khi người dân nước này sử dụng muối gấp 10 lần nhu cầu của cơ thể. Ở Pháp đã có tới 25.000 trường hợp tử vong vì các chứng bệnh có liên quan đến muối.
Như vậy, cháu có thể tranh thủ lúc người bác thoải mái, đọc giải đáp này cho bác nghe, may ra ông sẽ bớt ghiền muối, vì ai trên đời này chẳng muốn sống thêm được dài dài mà vẫn mạnh khỏe.
Ngoài ra, nếu gặp bất cứ bà mẹ nào đang nuôi con nhỏ, cháu nên cho họ biết thêm một số liệu sau đây. Một nghiên cứu tiến hành trên 476 trẻ sơ sinh 6 tháng tuổi tại thủ đô Amsterdam của Hà Lan cho thấy: huyết áp ở những trẻ dùng sữa bò chứa 0,1 g muối/ngày thấp hơn ở nhóm dùng sữa bò chứa 0,15 g muối/ngày.
43. Không ăn tối có hại gì không
“Bạn cháu đứa nào cũng mập nên chỉ ăn sáng và trưa, còn tối thì nhịn. Xin cho biết như vậy có hại gì không?”.
Tại một số vùng ở miền Bắc nước ta, người dân quê nhịn bữa tối và đi ngủ bình thường, năm này qua năm khác mà không thấy gì nguy hại. Có lẽ do lao động mệt nhọc nên tối đến họ lên giường sớm, tuy bụng rỗng không mà vẫn ngủ say.
Trường hợp các cháu, nếu còn đi học thì ban đêm phải làm bài, nếu để bụng quá đói e không lợi. Các cháu nên tính toán xem lượng và chất ăn vào hằng ngày bao nhiêu là vừa (không cho tăng cân nhiều), rồi chia đều ra làm ba bữa. Nếu thấy bụng “lỏng lẻo” quá thì độn thêm rau xanh, rau củ, hoa quả (trừ chuối vì chuối cũng có thể gây béo) cho chặt dạ dày, nhằm “đánh lừa và an ủi nó” trong khi mình cần thức để học.
Phải kiểm tra thể trọng hằng tuần để tránh một chế độ ăn thiếu calo và chất dinh dưỡng, có hại cho sức khỏe.
44. Phải ăn sáng thật tốt mới được
“Hai chúng em là nữ sinh lớp 11, đều thuộc loại chẳng thon thả gì, lại không được cao ráo nên định nhịn ăn sáng để bớt mập. Xin cho biết có nên không?”.
Nhịn ăn sáng chẳng những không làm bớt mập mà còn khiến em ăn hăng hơn vào các bữa ăn khác, lại hay ăn thêm nhiều mỡ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nếu muốn giảm hoặc không tăng cân, tốt nhất là ăn sáng và ăn trưa đầy đủ, còn bữa tối ăn nhẹ.
Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng, với số calo như nhau, một bữa ăn phong phú dùng ban sáng giúp giảm thể trọng hơn dùng ban tối.
Ngoài ra, việc ăn sáng tốt giúp đạt kết quả học tập cao hơn: Trong những năm đầu của thập niên 1980, tại Mỹ đã có những nghiên cứu cho thấy, ở những học sinh ăn đều đặn hoa quả hoặc nước ép hoa quả trong bữa sáng, số điểm học tập tăng 16%.
Đầu năm 1999, một nghiên cứu tại Boston (Mỹ) cũng cho thấy, những học sinh được ăn sáng tử tế sẽ có kết quả học tập cao hơn (nhất là về môn toán), lại bớt lo lắng, bớt nghịch ngợm và vui tính hơn so với những em không ăn sáng.
45. Tác dụng của cà rốt
“Đọc báo, cháu thấy nói một chất trong cà chua chín có tác dụng làm giảm sự phát triển của một số dạng ung thư đường ruột, tuyến tiền liệt… Cà rốt cũng có màu đỏ như cà chua, vậy nó có chất chống bệnh ung thư không?”.
Một công trình nghiên cứu tại Mỹ được thực hiện trên 13.00hụ nữ cho thấy, ở những người ăn cà rốt ít nhất 2 lần mỗi tuần, nguy cơ ung thư vú giảm 44% so với những người không ăn. Cà rốt chứa một lượng lớn chất carotenoid, có tác dụng ngăn ngừa ung thư (ngay sau khi được nấu chín, hàm lượng chất chống ôxy hóa tăng gần 35%, vì vậy ăn cà rốt nấu chín tiết kiệm hơn ăn sống). Cà rốt lại không gây béo phì.
Ngoài cà rốt, cải bina (épinard) cũng có tác dụng như trên.
46. Nên ăn nhiều cà chua nấu chín
“Ăn cà chua có tốt không, và nên ăn sống hay nấu chín?”.
Đầu năm 1999, Mỹ đã công bố kết quả 35 công trình nghiên cứu cho thấy, ở những người ăn nhiều cà chua và chất chế biến từ cà chua, nguy cơ ung thư giảm 40% so với những người ăn ít. Kết quả rõ rệt nhất đối với bệnh ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi và ung thư dạ dày.
Cà chua ăn sống cung cấp nhiều vitamin hơn do không bị nhiệt độ phá hủy trong quá trình xào nấu cổ điển; vả lại, ăn nó cũng khoái khẩu hơn.
Còn về cà chua chín thì gần đây, kết quả một nghiên cứu ở châu Âu trên hàng nghìn người cho thấy, cà chua đã chế biến (xào nấu, nhất là sốt cà chua) cung cấp một lượng lycopene dồi dào. Lycopene có tác dụng làm giảm sự phát triển của một số dạng ung thư đường ruột, ung thư tuyến tiền liệt, chống chứng nhồi máu cơ tim. Nó không cho các gốc tự do phá hủy các tế bào lành mạnh của cơ thể.
Lượng lycopene trong cà chua tăng nhiều nếu được nấu chín (chẳng hạn, sốt cà chua có lượng lycopene cao gấp 5 lần so với cà chua sống). Nhiệt độ cao giúp giải phóng lycopene dễ dàng, và chất béo dùng trong quá trình chế biến tạo thuận lợi cho việc hấp thu nó.
Công trình nghiên cứu nói trên cũng cho thấy, cà chua chín cây có nhiều lycopene hơn cà chua chín sau khi hái. Ngoài cà chua, lycopene còn có trong dưa hấu, bưởi điều, tôm, cua…
47. Lợi ích của mật ong
“Mẹ em bị ốm nặng, đang hồi phục, được bồi dưỡng và uống mật ong, nhưng có người bảo uống mật ong chỉ nuôi thêm bệnh. Em nên nghĩ thế nào?”.
Ăn mật ong không hề nuôi thêm bệnh, trái lại, mật ong giúp cho cơ thể thêm sức mạnh chống bệnh và chóng hồi phục. Mật ong chứa 65-70% đường trái cây (glycose và levulose), một số muối khoáng, axit hữu cơ, các men tiêu hóa, các vitamin A, D, E…
Ngoài tính chất bổ dưỡng, mật ong còn có tác dụng tiêu diệt một số vi khuẩn có hại, chữa đỡ hoặc khỏi một số bệnh gan mật, thần kinh, loét dạ dày – tá tràng, cao huyết áp, táo bón, nhức đầu, ngủ kém… Cuối năm 1998, một nhóm nghiên cứu Mỹ ở bang Illinois cho biết, trong mật ong, nhất là mật ong màu sẫm, có chất chống ôxy hóa, giúp cơ thể chống tác hại của các gốc tự do.
Ở một số nước, kể cả phương Tây, mật ong còn được dùng phối hợp với bột quế (cinnamon) để chữa mệt mỏi, cảm cúm, viêm khớp, cholesterol máu cao, béo phì, sức nghe giảm, bệnh tim, dạ dày, vô sinh, đau nhức (kể cả răng), rụng tóc, mụn nhọt, eczema, hôi miệng.
48. Cháo dinh dưỡng ăn liền lina
“Gần đây trên thị trường có loại cháo dinh dưỡng Lina ăn liền, được quảng cáo là có tảo Spirulina giàu đạm, khoáng và vitamin. Có thật vậy không?”.
Nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu và phát triển Spirulina platensis, loài tảo dễ nuôi trồng, phát triển chứa nhiều chất dinh dưỡng. Nó có hàm lượng protein (chất đạm) cao gấp 3 lần thịt bò hoặc thịt gà, 18 axit amin, trong đó có 8 thuộc loại không thể thay thế, nhiều vitamin A, B, E, PP… Đặc biệt, hàm lượng vitamin B12 trong tảo Spirulina cao gấp đôi gan bò, lượng beta-caroten cao gấp 10 lần cà rốt.
Với những đức tính quý báu này, tảo Spirulina có triển vọng được sử dụng rộng rãi trong dinh dưỡng và điều trị như một loại thuốc bổ và chữa bệnh, vừa tốt vừa rẻ tiền.
Ở nước ta, việc nghiên cứu tảo Spirlina được tiến hành từ hơn 20 năm nay. Gần đây, từ kết quả nghiên cứu của Trung tâm Dinh dưỡng trẻ em TP HCM, cơ sở thực phẩm Đồng Tâm đã sản xuất một loại cháo dinh dưỡng mang tên Lina, ăn liền, đóng thành gói 35 g, gồm chủ yếu là tảo Spirlina. Cháo cung cấp 138 calo; 4,5 g chất đạm; 3,5 g chất béo, 22 g chất ngọt, các vitamin và chất khoáng.
49. Có nên ăn rươi?
“Mẹ cháu bị cảm cúm, bà nói là không thể ăn rươi (con rươi thường nổi lên ở cánh đồng ngoài bãi quê cháu vào tháng 9-10). Vậy bị bệnh gì thì không được ăn rươi?”.
Về ăn uống, trong Tây y, người ta thường chỉ đề cập đến tính chất của thức ăn (giàu hay nghèo protein, chất mỡ, chất xơ…, nhiều hay ít các vitamin và chất khoáng nào, có hay gây dị ứng không, nên ăn chín, tái hay sống…) để sử dụng phù hợp cho từng đối tượng. Theo đó, mẹ cháu không nhất thiết phải kiêng rươi. Tuy nhiên, do rươi có thể gây dị ứng như tôm, cua (gây đau bụng, tiêu chảy, nổi mề đay…) nên phải cẩn thận, đầu tiên hẵng ăn ít đã.
Rươi chứa nhiều protein, rất bổ dưỡng, không nên bỏ phí, có thể làm thành mắm rươi để ăn dần.
50. Mực khô
“Ăn mực khô lợi hay hại, và có nên ăn nhiều không?”.
Mực khô cung cấp một lượng protein (chất đạm) đáng kể. Ngoài ra, nó còn chứa một số chất khoáng mà chỉ các loài sống ở biển mới có, trong đó có chất iốt. Cháu là nữ, nếu trong gia đình thường xuyên dùng muối iốt, nay thỉnh thoảng ăn thêm mực khô nữa thì sẽ không lo bị bướu cổ.
Tuy nhiên, khi nướng mực chớ để cháy, chẳng những ăn không ngon mà còn có hại. Báo chí đã nhiều lần nhắc các bà nội trợ đừng để cháy thịt cá khi rán và hạn chế việc cho chồng con ăn thịt cá nướng, để phòng ngừa nguy cơ ung thư ruột.
Ăn gì quá nhiều cũng đều không tốt, huống chi mực khô là loại hải sản đắt tiền. Còn đang đi học mà đã có thói quen ăn mực khô “xả láng” thì e rằng khi thành cán bộ lương sẽ không đủ xài!
51. Có nên ăn mía và cá ngừ?
“Ăn mía nhiều hằng ngày có mắc bệnh tiểu đường không? Có phải cá ngừ độc, ăn vào là tức ngực và đau người?”
Ăn nhiều mía không gây bệnh tiểu đường, nhưng nên ăn vừa phải và theo dõi thể trọng để không trở thành béo phì.
Cá ngừ giàu chất dinh dưỡng và các muối khoáng, lại không độc. Nên chọn kỹ để tránh cá ươn. Và khi ăn bất cứ hải sản nào cũng phải xem chừng phản ứng của cơ thể, nhất là những người “yếu bụng”; ví dụ, ăn tôm cua có thể nổi mẩn hoặc đau bụng, lên cơn hen…
Các nhà khoa học đã phát hiện tác dụng tốt của các loại cá béo (cá trích, cá thu, cá hồi, cá vược, cá ngừ…) do chúng chứa các axit béo không bão hòa (nhất là omega-3, làm giảm triglycer trong máu). Chúng có tác dụng tốt trong việc phòng ngừa một số bệnh tim mạch.
52. Ăn thịt cá nướng có lợi hay hại
“Một hôm chúng em rủ nhau đi picnic. Sẵn có cá ở vùng đó, chúng em đốt lửa nướng ăn, ngon lắm. Thật buồn cười, có một bạn nhất định không đụng đến, nói là ăn đồ nướng sẽ mắc bệnh ung thư. Xin cho biết bạn ấy đúng hay sai?”.
Không buồn cười đâu, chuyện nghiêm túc đấy. Bạn của em vừa đúng lại vừa sai. Đúng nhiều và sai chút xíu. Đúng ở chỗ bạn đó có đọc sách báo hoặc nghe nói về tác hại của thói quen ăn đồ nướng trên lửa, trên than, hoặc nướng trong lò, quay. Lâu nay, nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng cảnh báo rằng, khi nướng thịt hoặc cá trên than ở nhiệt độ 500-600 độ C, mỡ giọt xuống than hồng sẽ hình thành các phân tử hydrocarbure thơm đa vòng (HAP); đó là những chất gây ung thư.
Còn trong lò, ở nhiệt độ 80-100 độ C, chất creatin (hoặc creatinin) trong thịt cá là sẽ trở thành amin thơm dị vòng (AHA). Chất này khi vào tới gan thì biến thành chất độc, sau đó đi xuống ruột, tạo ra nguy cơ ung thư đại tràng. Những chất tiết ra lúc đầu, nước thịt nước cá dính lò (mà ta thường thu gom lại) rất dễ chuyển thành AHA. Nếu vì khoái khẩu hoặc tiếc rẻ mà ăn vào, sau một thời gian dài, ta dễ có nguy cơ mắc ung thư. Ở nhiệt độ trên 200 độ C, nhiều loại AHA khác có thể hình thành do sự phân hủy axit amin. Những AHA này nằm tại chỗ thịt quay bị cháy.
Cho nên, đun nấu thức ăn bằng nước, bằng hơi nước, xào rán vừa lửa, không để cháy là an toàn nhất. Ăn thịt cá nướng thường xuyên là điều nguy hiểm, tuy ngon miệng nhưng hậu quả thật khó lường. Bạn của em đã nhận thức đúng.
Nhưng bạn ấy sai khi từ chối tham gia bữa tiệc đó. Chỉ ăn một bữa cá nướng, cho dù ăn hết cỡ chăng nữa, thì làm sao bị ung thư được! Mấy khi được gần nhau, lẽ ra cứ… chịu khó cùng ăn cho “vui vẻ cả nhà”!
53. Ăn gì có thể gây dị ứng?
“Mẹ em hay bị nổi mề đay, được bác sĩ chẩn đoán là bệnh dị ứng, cho đơn thuốc và căn dặn không được ăn tôm, cua, rươi. Em muốn biết mẹ em cần kiêng thêm những gì nữa?”.
Dị ứng có thể hiểu nôm na là “phản ứng một cách dị thường đối với một số tác nhân nào đó”, như hoa lá (phấn hoa, nhựa cây), vật lạ (bụi bặm, lông mèo, lông chim), thuốc men (penicillin, novocain), đồ ăn uống (tôm cua, bia rượu), mỹ phẩm (kem thoa mặt, thuốc nhuộm tóc), thời tiết (độ ẩm, nhiệt độ, áp suất không khí)…
Bảng liệt kê các tác nhân gây dị ứng khá dài. Nhưng may mắn thay, người bị bệnh dị ứng không phản ứng một cách dị thường với mọi tác nhân, mà chỉ đối với một số tác nhân nhất định thôi. Chẳng hạn, có người hay nổi mề đay khi thay đổi thời tiết có thể ăn nhậu thoải mái mà không hề hấn gì; có người nhấp một ngụm bia đã thấy toàn thân nổi mẩn ngứa, nhưng có thể không sợ gió mùa đông bắc rét buốt.
Khi đã biết mình dị ứng với tác nhân nào thì phải tránh thật xa tác nhân đó. Dù nó vô hại đối với người khác nhưng rất có thể gây cho mình một cơn sốc phản vệ rất khó cứu chữa (phản vệ có thể hiểu nôm na là “phản lại sự tự bảo vệ của cơ thể”).
Ngoài ra, người có cơ địa dị ứng phải hết sức cẩn thận khi lần đầu với một tác nhân mà mình chưa trải nghiệm, vì có thể sẽ phản ứng một cách dị thường với nó.
Một chuyên gia về văn hóa (người phương Tây) khi đến công tác ở nước ta thường đưa cho người phục vụ ăn uống xem một mảnh bìa ghi bằng tiếng Việt: “Tôi bị dị ứng đối với mỡ động vật, gừng, hạt tiêu và lạc. Xin đừng cho vào đồ ăn của tôi những thứ này để tránh nguy hiểm đến tính mạng tôi”.
Đầu năm 1999, Viện nghiên cứu dị ứng, hen và miễn dịch của Mỹ cho biết, khoảng 1% dân số của nước này bị dị ứng với lạc, trong số tử vong vì ngộ độc thức ăn hằng năm, phần lớn bị dị ứng với lạc. Trước tình hình đó, một số hàng hàng không trên thế giới đã hạn chế việc bán lạc rang hay bánh kẹo chế biến từ lạc, sợ rằng hành khách có thể hít phải bụi lạc tung ra từ trong bao gói!
Các nhà khoa học Mỹ cũng đã phát hiện ra một gene nghi là thủ phạm gây dị ứng, đó là gene pCMVArah2. Họ đang sử dụng nó vào việc chế tạo một vacxin để tiêm phòng.
Trường hợp của mẹ em, vì thư nói không chi tiết, nên không biết mẹ dị ứng với những tác nhân nào và bằng con đường nào (ăn uống, hít thở hay do thay đổi thời tiết…). Tuy nhiên, có thể giúp cơ thể mẹ em bớt dần dị ứng bằng một vị thuốc uống khá hữu hiệu, dễ kiếm và rẻ tiền.
54. Rau sản phụ
“Tôi thấy một số người hay ăn rau sản phụ, như vậy có tốt không? Rau thai chữa được những bệnh gì? Có cách gì chế biến nó để tiện dùng?”.
Rau sản phụ rất giàu protein (chất đạm), mà lại là protein của người, dễ hấp thu hơn cả, có thể nói là loại thịt bổ nhất trên đời; tiếc rằng trước nay ta thành kiến cho nó là bẩn nên chôn mất. Trẻ bị suy dinh dưỡng, người mới ốm dậy, người gầy yếu ít ngủ dùng rất tốt. Theo các tài liệu cổ, rau sản phụ có tác dụng đại bổ khí huyết, dùng chữa gầy yếu, hen suyễn, ra nhiều mồ hôi, đau nhức xương, di tinh, hoạt tinh.
Cách chế biến:
-Rau bỏ màng ối và cuống rốn, thấm khô, đặt vào tủ sấy cho khô giòn, đem nghiền thành bột, đựng vào lọ kín dùng dần.
– Ngâm rau vào mật ong một thời gian cho tan ra, vứt bỏ bã. Khi dùng, có thể thêm chút rượu thuốc cho dễ uống. Phải mật ong thật thì rau mới tan. Trong thời gian ngâm, không nút lọ quá kín để khỏi nổ vỡ.
– Ngâm rau vào rượu.
Người béo không nên dùng.
55. Thừa sắt lợi hay hại
“Tôi còn nhớ trước đây cơ quan dược phẩm ở phía Bắc có sản xuất viên sắt dùng cho người thiếu máu, vì sao hiện nay không thấy bán? Con gái đầu lòng của tôi có thai lần đầu, tôi muốn cháu có thêm chất sắt cho khỏe cả con lẫn mẹ”.
Đầu tiên, xin trao đổi với bác về chuyện thai nghén. Ta hay nghĩ giản đơn và lệch lạc là hễ có thai thì cái gì ít nhất cũng phải “gấp đôi”, phải thuốc men, tẩm bổ, dù tốn kém mấy cũng vui lòng, để được mẹ tròn con vuông.
Trong khi đó, khoa học lại thấy rằng cơ thể của thai phụ và thai nhi biết cách điều chỉnh hợp lý để con phát triển bình thường mà không gây hại cho mẹ. Vì vậy, người có thai chỉ cần ăn uống đủ chất đều đặn bình thường là đủ. Tuy nhiên, để dự phòng khi chế độ ăn thiếu một số vitamin tối cần cho thai, người ta khuyến cáo thai phụ nên dùng thêm 2 vitamin chính:
– Vitamin B9, tức axit folic, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ống thần kinh ngay từ những ngày đầu của thai, uống liên tục trong thời gian thai nghén, 500 microgram/ngày.
– Vitamin D, cần cho sự phát triển xương, uống từ tháng thứ 7 trở đi, 100.000 IU/ngày.
Về chất sắt, trước đây do nhận thức sai, ta hay “vỗ sắt” cho các chị em có thai, do đó bắt ép họ ăn nhiều gan đến phát khiếp (gan chứa nhiều sắt hơn thịt). Trong chuyện này, người thầy thuốc dạo trước cũng có lỗi vì cho rằng sắt chỉ có mặt tích cực.
Một công trình nghiên cứu của Italy, tiến hành trên 826 người lớn cả nam lẫn nữ, tuổi từ 40 đến 79, đã cho thấy rõ mối liên quan giữa đậm độ sắt trong máu và tốc độ tiến triển của chứng xơ vữa động mạch. Nghiên cứu khẳng định rằng, việc thừa sắt sẽ có hại cho tim mạch.
Người ăn quá nhiều thịt lợn, thịt bò, người dùng đa sinh tố với liều quá cao… thường xuyên đưa vào cơ thể một lượng sắt lớn, chẳng những không ích lợi gì mà còn có hại. Cuối năm 1997, Đoàn bác sĩ phụ sản quốc tế của Pháp đã tuyên bố chống lại việc sử dụng sắt đồng loạt cho thai phụ.
56. Mối liên quan giữa đường và bệnh tiểu đường
“Cháu 19 tuổi, đang tập thể hình và rất thích uống nước đường sau các buổi tập. Xin cho biết việc uống nhiều đường có gây bệnh tiểu đường không?”
Một nghiên cứu của nước ngoài được công bố năm 1997 cho thấy, ở những người sử dụng đường một cách vô độ, nguy cơ bị bệnh tiểu đường gia tăng.
Các nhà nghiên cứu ở bang California (Mỹ) đã thử nghiệm trên chuột và nhận định rằng, một chế độ ăn nhiều mỡ và đường dẫn đến hiện tượng gia tăng tính kháng insulin của cơ thể, triệu chứng mở đầu cho sự xuất hiện bệnh tiểu đường không phụ thuộc insulin (type 2) ở con người.
Cháu vẫn cần uống đường để bù đắp cho việc tiêu hao năng lượng, nhưng đừng thái quá; nên ăn thêm cơm, chuối và các chất bột khác. Dùng thêm mỗi ngày 1 viên đa sinh tố để bổ sung vitamin và chất khoáng.
57. Mối liên quan giữa rượu và đường
“Nhiều người nói, rượu pha đường hay mật ong uống say hơn rượu để nguyên. Điều đó có đúng không, tại sao?”.
Nhận định đó không đúng. Trái lại, khoảng từ cuối thập niên 1920, người ta đã biết rằng các loại đường, nhất là đường fructose (lấy từ quả cây), có tác dụng làm chậm việc hấp thu rượu của cơ thể và thúc đẩy quá trình phân hủy rượu của gan; và rượu pha đường uống ít say hơn rượu để nguyên.
Người ta dùng ống thông cho rượu vào dạ dày chuột, sau đó cho thêm một dung dịch đường (trong đó fructose chiếm 36%) rồi đặt chuột lên ván bập bênh để kiểm tra hoạt động thần kinh. Họ dùng máy tự động lấy máu ở đuôi chuột để xét nghiệm xác định lượng rượu trong máu từng nửa giờ một.
Kết quả cho thấy, so với nhóm đối chứng, ở những con chuột này, lượng rượu trong máu thấp hơn 29%, thời gian phân hủy rượu ngắn hơn 31%; thời gian rượu lưu thông trong máu giảm 24%. Uống đường cùng lúc với rượu hay 3 giờ sau khi uống rượu đều có tác dụng tốt ngang nhau.
Các nghiên cứu về tác dụng của đường fructose trên người cho kết quả như sau: Ở người không uống rượu, thời gian phản ứng của thần kinh là 0,48 giây. Lúc rượu ngấm tối đa vào máu, thời gian này kéo dài tới 0,56 giây. Sau khi dùng 50g đường fructose, thời gian phản ứng trở lại 0,49 giây (gần bình thường). Điều đặc biệt là, nếu dùng 100 g đường fructose thì thời gian phản ứng chỉ còn 0,47 giây (nhanh hơn bình thường); mặc dù lúc đó, lượng rượu trong máu vẫn còn ở mức 0,35 g/l.
Người ta cũng thấy, đường fructose có tác dụng tốt đối với hoạt động thần kinh của người uống rượu. Liều 100 g làm cho lượng rượu trong máu giảm 50%. Rõ ràng, đường fructose có tác dụng “giã rượu” rất tốt (các đường khác như glucose, lactose, saccharose có tác dụng kém hơn).
Nhưng điều đó không có gì đáng để con ma rượu phấn khởi cả. Theo các bác sĩ chuyên nghiên cứu về rượu, người thường xuyên sử dụng đường với liều cao sẽ bị chứng béo phì, cao huyết áp, bệnh mạch vành…
58. Thêm đường sữa vào trà
“Uống nhiều chè (trà đen, trà xanh) có tốt không? Một số người ghiền chè nói rằng pha đường hoặc sữa vào chè là không tốt. Xin cho biết tại sao?”.
Trà đen chứa chất catechine, có tác dụng chống bệnh tim mạch. Trà xanh làm giảm 1/3 nguy cơ mắc ung thư dạ dày ở những người uống ít nhất 7 tách mỗi ngày.
Một nghiên cứu của Mỹ tiến hành trên 680 người cho thấy, ở người uống ít nhất 1 tách trà mỗi ngày, nguy cơ bị cơn đau tim giảm 46% so với người không uống.
Trà suông hay pha đường, sữa đều có tác dụng như nhau (sau khi uống, người ta thấy lượng catechine trong máu ở cả hai trường hợp thêm hoặc không thêm đường sữa là ngang nhau). Dĩ nhiên, đường sữa cung cấp thêm năng lượng cho cơ thể, nhất là sau khi vận động thể lực. Nếu sợ béo phì thì đừng cho vào.
Nếu chưa quen dùng trà thì đừng pha đậm (làm tim đập mạnh) và tránh uống trà vào ban tối, thậm chí buổi chiều (vì dễ bị mất ngủ). Tránh uống trà đặc ngay sau bữa ăn vì sẽ gây khó tiêu.
59. Quý ông cứ yên tâm uống cà phê
“Chúng tôi có thói quen uống cà phê hằng ngày. Hôm qua, tôi nghe một anh bạn bảo rằng vì cà phê gây ung thư nên mới bị rớt giá”.
Chắc người đó nói đùa thôi. Đúng là cà phê rớt giá, nhưng không phải do nguyên nhân như bạn nói. Mọi giá cả trên thị trường đều có thể biến động, trồi sụt. Xin đừng vì tin đồn nhảm mà lo lắng hoặc ứng xử không đúng để rồi phải hối tiếc.
Nếu không bị cao huyết áp và không hay mất ngủ, quý ông cứ yên tâm uống cà phê, vì cho tới nay, chưa có công trình khoa học nào kết luận là cà phê gây ung thư.
Ngược lại, một nghiên cứu của Nhật Bản tiến hành trên 1.700 bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa và 21.000 người khỏe mạnh cho thấy, ở những người dùng ít nhất 3 tách cà phê mỗi ngày, nguy cơ ung thư đại tràng (ruột già) giảm 54%.
Còn các quý bà nên lưu ý: Theo một nghiên cứu của Thụy Điển, ở thai phụ uống mỗi ngày 5 tách cà phê, tỷ lệ sẩy thai cao gấp đôi so với các thai phụ chỉ uống 1 tách, dù là cà phê nguyên hay đã khử cafein.
60. Có nên dùng lò vi sóng?
“Vợ chồng chúng tôi vừa có cháu nhỏ nên có ý định mua một lò vi sóng. Nhưng có người nói lò vi sóng làm cho thức ăn biến thành chất độc. Xin cho biết ý kiến”.
Cho đến nay, chưa thấy thông báo khoa học nào nói là lò vi sóng (vibathực phẩm thành chất độc. Các bạn cứ yên tâm mua, miễn là theo đúng chỉ dẫn của nhà sản xuất. Lò vi sóng dùng rất tốt cho cá, rau, chất lỏng, thức ăn không béo, giữ được vitamin và chất khoáng.
Chỉ xin các bạn lưu ý:
– Khi đun nấu bằng lò vi sóng, do nhiệt độ phân bố không đều trong thức ăn nên có thể không diệt hết được vi khuẩn trong thực phẩm. Người ta đã phát hiện vi khuẩn salmonella gây bệnh đường ruột trong một số trứng lacoóc đun bằng lò vi sóng. Các bạn nhớ kiểm tra mức độ chín của từng loại thức ăn để duy trì cho đủ thời gian chín đều.
– Một số thành tố của bao gói và những chất hiện diện trên bao gói plastic (từ mực in nhãn) có thể đi sang thức ăn đun nấu bằng lò vi sóng.
– Không dùng lò vi sóng để nấu thịt lợn ướp hoặc thăn lợn hun khói (có chứa muối nitrit) vì việc này sẽ tạo ra các nitrosamin – những phân tử gây ung thư rất mạnh.
61. Nước thôi phèn
“Nước giếng của gia đình tôi luôn luôn trong nhưng lại bị thôi phèn, nấu cơm bị vàng… Liệu có cách nào làm hết được?”.
Nguồn nước giếng nhà bác có nhiều sắt, và điều này không giải quyết được từ gốc. Nước mới đầu trong vì chất sắt được hòa tan (sắt 2), khiến bác không nhìn thấy. Khi gặp ôxy trong không khí, chất sắt kết tủa (sắt 3), có màu vàng lơ lửng trong nước. Cách khắc phục như sau:
– Nước múc từ giếng lên được chứa vào thùng và khuấy đảo nhiều lần trong vài ba ngày để chất sắt hòa tan bị kết tủa (nước từ chỗ trong vắt chuyển sang vàng khè, để cho vàng tối đa).
– Đem nước này đổ vào bể lọc thông thường (gồm cát, sỏi là chủ yếu), càng nhiều lớp càng hay. Nước lần này trong vì đã để lại cặn sắt kết tủa trong cát. Định kỳ súc bể, rửa sạch cát sỏi để tiếp tục lọc được tốt.
Xin bác lưu ý là nếu đem lọc nước vừa múc từ giếng lên thì sẽ không kết quả, bởi vì chất sắt hòa tan không bị cát giữ lại, nước “lọc” rồi vẫn giữ nguyên chất sắt và vẫn trở thành vàng như thường.
62. Nước có chất vôi
“Tôi ở gần núi đá, giếng nước bình thường nhìn trong nhưng dùng nấu nước chè xanh thì uống nhạt và nước có màng, luộc rau muống thì nước xanh như nước rêu, đun sôi để nguội thì bên dưới có một lớp phấn như vôi. Xin hỏi ăn vào có việc gì không?”.
Nước ở vùng đó có nhiều chất canxi hòa tan; khi đun sôi để nguội, nó lắng xuống đáy chai. Mỗi khi uống, phải gạn cho khéo để tránh đưa vào cơ thể mình quá nhiều canxi. Ngoài ra, bạn cần chú ý dùng muối iốt đều đặn và cùng bà con cô bác trong vùng luôn cảnh giác với bệnh bướu cổ.
63. Phải uống từ từ
“Đang khát cháy cổ mà uống thật nhiều nước một lúc thì có hại gì không?”.
Khi ta nhịn uống, lúc đầu, lượng nước bị thiếu chưa nhiều, các tế bào của cơ thể tự điều chỉnh được bằng nước hiện hữu trong máu. Do máu thiếu nước nên niêm mạc (trong đó có niêm mạc miệng) bị se, khiến ta có cảm giác khát, gọi là khát niêm mạc. Chỉ cần một lượng nước nhỏ bổ sung cho máu là sẽ hết khát.
Nếu cứ tiếp tục nhịn uống, nhất là khi đang ra nhiều mồ hôi, chất nước trong máu sẽ cạn, các tế bào lâm vào tình trạng thiếu nước (càng lúc càng nghiêm trọng), gọi là khátế bào. Lúc này, dù uống ngay một lúc bao nhiêu nước cũng vẫn thấy khát, bởi lẽ nước chưa kịp tới các tế bào.
Như vậy, bạn thấy ngay rằng, dù khát cháy cổ, bạn vẫn nên uống có chừng mực, chia thành nhiều lần, từ tốn, đều đặn cho tới khi hết hẳn cảm giác khát. Tốt nhất là uống qua ống hút để dễ chủ động.
Việc uống ngay một lượng nước lớn là điều rất nguy hiểm vì có thể gây hiện tượng phù não, hôn mê, dễ dẫn tới tử vong. Vì vậy mà người nuôi ngựa có bao giờ cho ngựa vừa đua xong mặc sức uống nước đâu!
Trong sinh hoạt hằng ngày, nên duy trì thói quen uống nước một cách đều đặn, cho dù lúc bấy giờ không có cảm giác khát thực sự. Bởi vì khi để cho mình thấy khát là đã khá muộn. Lúc đó, lượng nước mất đi ít nhất bằng 1% thể trọng; nghĩa là một người nặng 50 kg đã mất tối thiểu 0,5 lít nước khi anh ta bắt đầu thấy khát. Ngay cả khi nằm nghỉ ngơi thoải mái, mỗi ngày đêm, cơ thể cũng thải ra khoảng 2,5 lít nước (bao gồm nước tiểu, mồ hôi và hơi nước qua phổi). Còn khi đi bộ bình thường, mỗi giờ cơ thể thải ra ít nhất 0,5 lít mồ hôi. Những con số này sẽ tăng lên khi thời tiết nóng nực.
64. Tại sao vẫn không đã khát
“Chúng em thuộc đội bóng đá của nhà trường. Sau mỗi trận đấu, cả bọn thường rủ nhau đi uống nước ngọt; nhưng uống hết cả tiền mà vẫn không đã khát. Xin cho biết tại sao?”.
Theo các tài liệu nghiên cứu mới nhất, sau một trận bóng đá quốc tế, mỗi cầu thủ thường thải ra 3-4 lít mồ hôi. Các em là cầu thủ “nhí”, tạm cho là chỉ mất 1/3 lượng đó. Kể nước tiểu và hơi nước bốc ra theo đường hô hấp, cứ tạm ước tính khiêm tốn là 2 lít. Có thể các em đã uống vào hơn 2 lít nước ngọt, tưởng đủ rồi, nhưng vẫn khát chứ gì?
Nguyên nhân đầu tiên là các em uống nhanh quá. Điều này kích thích mồ hôi tiết nhiều hơn, làm cho các em tiếp tục mất nước thêm một lúc nữa. Nhưng vấn đề này không lớn.
Nguyên nhân quan trọng hơn là các em chỉ uống nước ngọt, có độ đường khá cao, gây trở ngại cho việc hấp thu nước của cơ thể (bản thân nước ngọt là một dung dịch ưu trương, không dễ gì “chia bớt nước” cho cơ thể).
Cách khắc phục không khó: Không uống nước ngọt nguyên chất mà pha loãng ở mức 60 g đường trong 1 lít. Dùng nước trái cây, rau má, nước râu ngô (bắp), hay nước chè xanh, nước rau luộc của gia đình cũng rất tốt (lượng đường pha vào không được quá mức trên). Phải uống từ tốn từng ngụm nhỏ một, tốt nhất là qua ống hút để đảm bảo uống thật chậm.
Điều quan trọng là tập thói quen uống khi chưa thấy khát. Trong quá trình thi đấu, các em phải tranh thủ mọi thời cơ bổ sung nước thường xuyên. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nếu cơ thể vận động viên mất một lượng nước bằng 1% thể trọng, thành tích thi đấu của anh ta sẽ giảm 20%, anh ta lại dễ bị chuột rút.
65. Có nên uống nhiều nước?
“Uống nhiều nước thì phải đi tiểu nhiều, như vậy có làm mệt cho thận không?”.
Ngược lại. Ta uống đủ nước thì thận lọc nhẹ nhàng, đỡ vất vả; các chất cặn bã hòa tan trong máu được pha loãng nên dễ đi qua màng lọc. Nếu ta ăn mặn, thận phải làm việc căng hơn để thải chất muối (chỉ giữ lại một tỷ lệ không đổi là 0,9%). Ta thường ăn mặn do thói quen chứ không phải do cần thiết; người thường xuyên ăn quá mặn dễ bị tăng huyết áp.
Một công trình nghiên cứu của Anh tiến hành trong 10 năm trên 48.000 người cho thấy, nếu trung bình mỗi ngày ta uống 1,5 lít nước, tỷ lệ ung thư bàng quang sẽ giảm 50%. Việc đi tiểu nhiều lần sẽ làm cho các chất gây ung thư không nằm lâu trong bàng quang để gây hại.
66. Chị em có nên dùng rượu bổ?
“Em là con gái nhưng trong bữa ăn, cứ thấy ông nội nhâm nhi ly rượu bổ thơm phức là em phát thèm. Xin thì nội không cho và bảo thứ này chỉ có nam mới dùng được. Xin cho biết có loại rượu bổ nào dành cho nữ không?”.
Ông nội em nói đúng đấy. Nam thuộc dương, nữ thuộc âm nên theo y học phương Đông, việc sử dụng thuốc cũng như kiêng cữ trong thời gian mắc bệnh ở 2 giới có những chỗ khác biệt. Về thuốc bổ cũng vậy, không phải bất cứ thuốc gì bổ cho nam cũng sẽ bổ cho nữ.
Riêng với em, do thấy em hình như hơi có “máu” thích rượu giống ông nội nên tôi muốn cung cấp kết quả một nghiên cứu của Mỹ: Ở những phụ nữ uống đều đặn mỗi ngày 1 ly rượu, nguy cơ ung thư vú tăng 11%, uống 2 ly: tăng 24%; trên 2 ly: tăng 40%.
Người ta đã thông báo như vậy, không biết chị em nhà ta có nên dùng rượu bổ hay không?
67. Có nên dùng nhiều cam thảo?
“Em là con trai, đang học lớp 12 ở một trường khá xa nhà. Ông nội em là lương y nên từ bé em đã thích nhai cam thảo. Liệu có nên cho nước sắc cam thảo vào nước để giải khát sau khi đi học về?”.
Cam thảo là một vị thuốc dùng phối hợp trong Đông y để chữa một số bệnh. Nhược điểm quan trọng của cam thảo là giữ nước lại trong cơ thể nên nếu được dùng trong thời gian dài, nó sẽ dễ gây phù nề (mà mới đầu ta tưởng là tăng cân nhanh nên rất phấn khởi!). Do đó, từ lâu, các thầy thuốc ở phương Tây đã đi đến chỗ kết luận rằng cam thảo không tốt đối với huyết áp.
Một nhóm nghiên cứu Italy còn phát hiện thêm nhược điểm của cam thảo là giảm sức khỏe giới tính của nam giới. Họ cho 7 thanh niên (22-24 tuổi) uống một chất thuốc trong đó chủ yếu là cam thảo suốt một tuần liền. Kết quả là tỷ lệ hoóc môn nam của cả 7 người đều giảm sút. Rõ ràng là cam thảo đã can thiệp vào và ức chế dây chuyền tổng hợp hoóc môn nam, từ đó dẫn đến những rối loạn sinh dục làm giảm hứng thú lứa đôi.
Như vậy, đôi lúc nhâm nhi chút xíu cam thảo “cho zui” thì được, còn tuyệt đối không nên dùng nó thường xuyên, nhất là con trai.
68. Nõn lá bàng chữa bệnh đường ruột
“Em bị sôi bụng liên tục và hay đi tiêu phân lỏng nên người rất gầy…; Mẹ cháu bị bệnh đường ruột đã lâu, uống rất nhiều loại thuốc Tây, thuốc Bắc nhưng không khỏi, sức khỏe suy sụp…; Em bị viêm đại tràng và dạ dày – tá tràng, đã uống nhiều thuốc không đỡ…; Tôi đã được bác sĩ kết luận là viêm đại tràng mạn và trĩ, hay bị táo bón xen kẽ đi tiêu phân nhầy, đau và sôi bụng thường xuyên…”
Có một vị thuốc không độc, dễ kiếm và không mất tiền mua, được bà con ở một số vùng quê miền Trung dùng chữa bệnh mạn tính ở đường tiêu hóa. Thuốc này cho kết quả khả quan về lâm sàng, kể cả loét hành tá tràng. Đó là nõn lá (đọt non) của cây bàng.
Cách dùng như sau: Hái những nõn lá bàng lành lặn (mùa không còn nõn thì dùng những lá non nhất bên trên cũng được), nhẹ tay rửa sạch, thái nhỏ, rang vàng (không để cháy) rồi sắc với nước, uống thay nước chè (có thể thêm đường).
Theo tiến sĩ dược học Đỗ Tất Lợi thì vỏ, lá và nhân hạt của cây bàng đều có tác dụng chữa bệnh và không độc. Tuy vậy, lần đầu, nên dùng một nắm nhỏ rồi tăng dần lên cho tới liều hữu hiệu. Khi mới uống được 1-2 ngày, bệnh nhân có thể đi lỏng rất nhiều nhưng đừng sợ, cứ tiếp tục sẽ có kết quả.
69. Tâm sen
“Mỗi lần uống trà, tôi thường bị mất ngủ nên phải dùng tâm sen chế nước uống hằng ngày, thấy ngủ được. Nhưng có người bảo tâm sen gây ung thư vì nó là phần vứt đi. Xin cho biết tác dụng của tâm sen. Có nên dùng nó để uống thay trà?”
Tâm sen (chồi mầm nằm trong hạt sen) gọi là liên tâm hay liên tử tâm, đem phơi khô hay sấy khô có tác dụng chữa hồi hộp, mất ngủ, di mộng tinh; mỗi ngày uống 4-10 g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc pha (hãm).
Bạn thuộc dạng thần kinh nhạy cảm với các chất kích thích, không nên uống trà (hoặc chè xanh) vào buổi chiều. Nếu muốn có giấc ngủ trưa, không nên dùng trà muộn trong buổi sáng và dĩ nhiên là không nên uống cà phê. Đối với tâm sen, khi thấy đã ngủ tốt, nên giảm dần liều lượng xuống một mức thích đáng, tiến tới thôi hẳn và dùng nước chín.
Ngoài tâm sen, cây sen còn cho ta nhiều vị thuốc như:
– Ngó sen, gọi là liên ngẫu, dùng làm thuốc cầm máu.
– Hạt sen cả vỏ (nói “quả sen” mới đúng) được gọi là thạch liên tử, dùng chữa lỵ cấm khẩu. Hạt sen bỏ vỏ được gọi là liên nhục hay liên tử, dùng làm thuốc bổ, chữa di tinh, mất ngủ, suy nhược thần kinh…
– Gương sen già bỏ hết hạt, phơi khô (liên phòng) và lá sen (hà diệp) đều được dùng làm thuốc cầm máu.
– Tua nhị sen bỏ “hạt gạo”, phơi khô, gọi là liên tu, dùng chữa xuất huyết, di mộng tinh.
70. Hà thủ ô
“Cháu là con gái, gần đây trên đầu thấy nhiều sợi tóc bạc, một số bạn cháu cũng vậy. Nghe nói hà thủ ô có thể làm đen tóc?”.
Hà thủ ô được nhân dân dùng làm thuốc bổ, trị thần kinh suy nhược, khỏe gân cốt, sống lâu, làm đen tóc… Đã có một số phương thuốc kết hợp hà thủ ô với các vị thuốc khác để chữa bệnh.
Riêng về tác dụng của hà thủ ô đối với chứng tóc bạc sớm, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nghiêm túc nào khẳng định hay phủ định. Tuy nhiên, theo một quan niệm thông thường, người ta cho rằng những chất có màu đen (vừng đen, đậu đen, gà đen…) có thể giúp làm trẻ người, đen tóc…
Trong dân gian lâu nay vẫn lưu hành cách đồ hà thủ ô với đỗ đen, đem phơi khô, xong lại đồ tiếp như trên đúng 7 lần (để dùng cho nam) hoặc 9 lần (để dùng cho nữ); ăn liên tục thường xuyên cho tới khi đạt kết quả.
Nếu có điều kiện, cháu thử vận dụng xem.
71. Mạch môn, tam thất
“Để làm nhuận phổi, long đờm và trị ho, nên dùng củ mạch môn độc vị hay kết hợp với các vị khác? Tương tự, dùng tam thất để trục huyết ứ cho sản phụ như thế nào?”.
Củ mạch môn (còn gọi là mạch môn đông, lan tiên) có thể dùng độc vị (mỗi ngày 6-20 g dưới dạng thuốc sắc) hoặc phối hợ một số vị như trong bài thuốc chữa ho, khó thở, ho lâu ngày sau đây:
Củ mạch môn đông 16 g, bán hạ 8 g, đẳng sâm 4 g, cam thảo 4 g, gạo nếp sao vàng 4 g, đại táo 4 g, nước 600 ml. Sắc trên bếp nhỏ lửa còn 200 ml, chia uống làm 3 làn trong ngày.
Tam thất (còn gọi là sâm tam thất) có thể sử dụng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột, mỗi ngày 4-8 g. Dùng trong các trường hợp bị chấn thương có ứ huyết, sưng đau.
Ngoài ra, theo kết quả một số công trình nghiên cứu trong nước, tam thất có tác dụng phòng ngừa hiện tượng ung thư hóa. Cách dùng tiết kiệm nhất là ngậm một mẩu củ, để cho thuốc ngấm dần qua niêm mạc miệng, không bị dịch tiêu hóa tác động (ban đầu thấy đắng, nhưng về sau lại thấy vị ngọt dễ chịu).
72. Vỏ cây dền
“Vỏ cây dền có tác dụng gì mà một số người thường dùng nấu nước uống?”
Cây dền còn có tên là cây sai, cây thối ruột (vì ngay từ khi cây còn non, tủy cây đã bị tiêu hủy), tên khoa học Xylopia vielana Pierre, có thể cao tới trên 20 mét, vỏ màu nâu tím rất dễ bóc.
Vỏ lấy từ cây tươi, đem phơi hay sấy khô để dùng dần. Nhân dân dùng vỏ cây dền sắc uống để chữa kinh nguyệt không đều, thiếu máu; dùng lá cây sắc uống chữa đau nhức tê thấp. Ở miền Trung, miền Nam, người ta dùng vỏ cây dền tán bột hay ngâm rượu để chữa sốt rét và làm thuốc bổ.
Liều dùng hằng ngày: 5-10 gam vỏ khô.
73. Hãy thử “làm cho ngực nở nang”
“Gần đây, tôi được giới thiệu một bài thuốc làm ngực nở nang dần gồm: thuốc cứu (ngải diệp) 1 nắm, nghệ sống 1 củ bằng ngón tay cái, cà rốt 200 g. Ba thứ giã nát, vắt với nước dừa nạo, uống hằng đêm. Bài này có công hiệu không? Thuốc cứu còn có tên gì khác không?”.
Theo tài liệu của giáo sư Đỗ Tất Lợi, cây thuốc cứu còn có tên gọi là ngải cứu, tên khoa học Artemisia vulgaris L., thuộc họ Cúc. Trong Đông y, nó được dùng làm thuốc điều hòa kinh nguyệt, an thai (không kích thích dạ con nên không gây sẩy thai); tăng cường tiêu hóa, chữa đau bụng…
Mấy thứ bạn kể đều là thức ăn thông thường, trong đó nghệ có tác dụng kích thích sự tiết mật của tế bào gan, làm hạ cholestérol trong máu; cà rốt cung cấp caroten (tiền vitamin A), chống lại tác động nguy hại của các gốc tự do, chống đi lỏng (tiêu chảy); cùi dừa chứa nhiều chất béo, glucid và protid; nước dừa chứa nhiều axit amin, lợi tiểu…Nếu dùng thử chắc cũng tốt, lại rẻ tiền. Tuy nhiên, khi “nở nang” được khá xinh rồi là phải giảm liều để tránh nguy cơ trở thành … thùng ton nô. Các vị thuốc trên đều không có tác dụng làm ngực to ra.
74. Thuốc dân gian chữa viêm đa khớp dạng thấp
“Tôi được bác sĩ chẩn đoán là viêm đa khớp dạng thấp, cho dùng nhiều thuốc tây không khỏi. Xin cho tôi một cách chữa nào đơn giản mà hữu hiệu”.
Nếu đúng bệnh của bạn là viêm đa khớp dạng thấp (khác với bệnh thấp khớp về bệnh sinh, diễn biến, tiên lượng…), thì xin mời bạn dùng thử mấy vị thuốc dân gian dễ kiếm sau:
1. Lá cây chay quả (giống cây chay cho vỏ ăn trầu, nhưng có quả chín màu vàng, bên trong chứa cơm màu đỏ, vị chua ngọt) rửa sạch, sao vàng, sắc uống, mỗi ngày 20 g.
2. Hai ngày đầu dùng nước nho tươi hoặc nước bưởi (0,5 lít/ngày). Hai ngày tiếp dùng mỗi ngày 0,5 lít nước cần tây. Hai ngày tiếp dùng mỗi ngày 0,5 lít nước ép cà rốt và cần tây. Nên chia làm 2-3 lần uống mỗi ngày. Nếu khỏi, uống tiếp 1 tuần cà rốt + táo tây + cần tây (ba thứ bằng nhau, cho ra đủ 0,5 lít/ngày). Nếu chưa khỏi, làm lại từ đầu.
Trong khi dùng liệu pháp này, không nên dùng bất cứ thuốc gì.
75. Cây cỏ mực (cây nhọ nồi)
“Trong một đơn thuốc nam của người nhà, em thấy ghi cây cỏ mực. Nó là cây gì, công dụng ra sao, có phải là cây cỏ lồng vực như một số người bảo?”.
Đây là hai loại cây khác nhau. Cỏ lồng vực là loài cỏ dại hại cây trồng. Cây cỏ mực (còn gọi là cây nhọ nồi, hạn liên thảo) là một vị thuốc nam quý giá.
Cây cỏ mực mọc hoang khắp nước ta. Cỏ mực mọc thẳng đứng, có thể cao tới 80 cm, thân có lông cứng, lá mọc đối có lông ở hai mặt, dài 2-8 cm, rộng 5-15 mm.
Cây cỏ mực không độc, tươi hay khô đều có tác dụng cầm máu nhờ làm tăng tỷ lệ prothrombin toàn phần. Dân gian dùng thân lá giã nát, vắt nước uống để chữa rong kinh, trĩ ra máu, vết thương chảy máu, chữa viêm họng, nấm da… Có nơi còn sắc uống hoặc ngâm vào dầu dừa đem bôi lên đầu cho đen râu tóc.
76. Cây hẹ
“Tôi thấy dân gian hay dùng lá hẹ chữa một số bệnh. Xin cho biết khoa học đã xác định được tác dụng của cây hẹ chưa? Có phải trong nam gọi hẹ là nén không?”.
Tại vùng trung Trung Bộ có củ nén, hơi giống củ hành tăm ngoài Bắc nhưng mùi hắc, không thơm bằng hành tăm, củ tròn, to và chắc hơn; chúng tôi chưa tìm được tài liệu nghiên cứu về củ nén.
Về cây hẹ, ở Trung Quốc từ hơn 50 năm nay đã có một số nghiên cứu khá sâu, cho thấy: Nước ép hẹ tươi chứa chất odorin, có tác dụng diệt tụ cầu vàng và một số vi khuẩn gây bệnh đường ruột, kể cả thương hàn và lỵ. Tác dụng trên sẽ mất hoàn toàn nếu nước ép được đun nóng.
Ở nước ta, nhân dân thường dùng hẹ (lá, rễ, củ) chữa ho trẻ em, giúp tiêu hóa tốt, bổ gan, chữa lỵ, giun kim… Liều dùng hằng ngày 20-30 g (trộn đường, hấp cơm hay đun cách thủy). Hạt của cây hẹ (cửu tử, cửu thái tử) được dùng chữa mộng tinh, mỏi gối, đau lưng… với liều 6-12 g (nước sắc) mỗi ngày.
77. Củ nghệ đen
“Xin cho biết nghệ đen chữa được những bệnh gì?”.
Đông y dùng nghệ đen (nga truật) để chữa chứng đau ở ngực hoặc ở bụng, ăn uống khó tiêu. Nghệ đen còn có tác dụng chữa ho, bế kinh, kinh nguyệt không đều. Mỗi ngày dùng 3-6 g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay thuốc viên. Nghệ đen có vị đắng, cay nên người ta thường thêm mật ong hay làm thành tễ cho dễ uống.
78. Cây đinh lăng
“Nhà cháu trồng đinh lăng đã được 10 năm. Vừa rồi bố cháu đào lấy củ, thái miếng, phơi khô, hãm vào nước sôi để uống như nước chè. Xin cho biết như vậy có tốt không?”.
Cây đinh lăng (còn gọi là cây gỏi cá) có tác dụng tăng sức dẻo dai của cơ thể, chống mỏi mệt (rễ đinh lăng thái mỏng, phơi khô 0,5 g; cho vào 100 ml nước, đun sôi trong nửa giờ, chia thành 2-3 lần uống trong ngày); chữa tắc tia sữa (rễ đinh lăng 30-40 g, cho vào 1/2 lít nước, sắc còn 1/4 lít, uống nóng trong 2-3 ngày liền).
Nhiều tài liệu cũng cho biết đinh lăng có tác dụng lợi tiểu, tăng cường hô hlàm tăng nhẹ co bóp tử cung…
Như vậy, bố cháu có thể dùng thường xuyên “nước chè đinh lăng”, nhưng cần chú ý đến liều lượng hằng ngày nói trên.
79. Lá cây cứt lợn chữa viêm xoang
“Chúng em bị viêm xoang, chữa mãi không khỏi, mà nghe nói đến mổ lại sợ. Xin cho biết hiện đã có phương pháp nào hữu hiệu chữa khỏi viêm xoang?”.
Các biện pháp chữa viêm xoang bao gồm sử dụng kháng sinh toàn thân, chọc hút xoang kết hợp với bơm tại chỗ các thuốc kháng sinh và chống viêm. Phẫu thuật đục xoang là biện pháp cuối cùng, nhưng có khá nhiều trường hợp tái phát.
Có một loại cây dễ kiếm nhưng có thể chữa viêm xoang khá công hiệu: Cây cứt lợn (còn gọi là cây cỏ hôi, cây bù xít, cỏ cứt heo), tên khoa học Ageratum cony-zoides L., thuộc họ Cúc. Đây là một cây nhỏ, mọc hoang, cao khoảng 30-60 cm, thân có nhiều lông mềm. Lá mọc đối, hình trứng hay ba cạnh, dài 2-6 cm, rộng 1-3 cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt lá đều có lông (khi vò ra có mùi hăng hắc, nhưng khi đun nước lại có mùi thơm, thường được một số chị em ở nông thôn dùng gội đầu). Hoa nhỏ màu tím, xanh.
Lấy một nắm lá tươi, rửa nhẹ tay cho sạch, giã nát rồi vắt lấy nước đem nhỏ vào hai lỗ mũi. Nằm ngửa chừng 10-15 phút, dưới hai vai có kê gối để lỗ mũi dốc ngược, cho phép thuốc ngấm vào xoang. Làm mỗi ngày 1-2 lần cho đến khi khỏi.
80. Uống chè hoa hoè có hại không
“Tôi nghe các cụ nói uống chè hoa hoè sẽ bị loãng tinh và không có con. Điều đó có đúng không?”.
Hoa hoè (tên khoa học Sophora japonica L.) được nhân dân ta dùng làm thuốc cầm máu khi bị ho ra máu, đổ máu cam, tiểu tiện ra huyết, trĩ chảy máu (mỗi ngày uống 5-20 g nụ hoa hoè phơi khô dưới dạng thuốc sắc). Tây y dùng chất rutin chiết xuất từ hoa hoè cho những bệnh nhân cao huyết áp để tăng cường sức chịu đựng của mao mạch.
Cho đến nay, chưa có tài liệu khoa học nào cho thấy hoa hoè gây hại cho hệ sinh dục nam nói riêng cũng như đối với các cơ quan nói chung.
81. Cây sống đời
“Xin cho biết tác dụng của cây sống đời”.
Cây sống đời (còn gọi là cây trường sinh, cây thuốc bỏng…) được nhân dân dùng làm thuốc chữa bỏng, cầm máu, đắp vết thương, chữa mắt đỏ, sưng đau. Các nhà khoa học Ấn Độ đã chiết được từ cây sống đời một hoạt chất gọi là bryophulin có tác dụng kháng khuẩn, có thể dùng điều trị một số bệnh đường ruột.
Khi dùng cây này, bạn nhớ rửa sạch đất cát cũng như các chất lạ bám vào.
82. Lá cây gây ngứa
“Vừa rồi chúng cháu về chơi ở vùng núi, khi chui vào bụi chạm phải loại cây gì lá to và có lông, bị ngứa ghê gớm. Đó là cây gì vậy, tại sao lá nó ngứa thế?”.
Đó là cây lá han. Trên bề mặt lá của một số cây như lá han, tầm ma có nhiều gai nhọn dài, dính hờ vào tổ chức của lá bằng một tế bào đơn độc. Chỉ cần chạm nhẹ là những gai nhọn đó rời ra ngay và cắm vào da, giải phóng 2 chất acetylcholin và histamin, làm cho da ửng đỏ, vừa buốt vừa ngứa kinh khủng; nếu bị nhiều có thể dị ứng toàn thân.
Các cụ già sống ở một thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh còn nhớ, hồi năm 1945, có lần mấy tên lính phát xít đại tiện bừa bãi xong đã hái lá han để chùi. Ngay sau đó chúng phải chạy về nơi quân, chìa mông ra bắt mấy đứa khác vừa quạt vừa dội nước mãi vẫn không đỡ.
83. Mật gấu
“Xin cho biết tác dụng của mật gấu và cách sử dụng. Có phải mật gấu chữa khỏi bệnh viêm gan mạn không?”.
Theo tài liệu cổ, mật gấu vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, diệt khuẩn. Trong cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, giáo sư dược học Đỗ Tất Lợi viết: “Mật gấu là một vị thuốc rất quý trong nhân dân, dùng chữa đau dạ dày, đau nhức, giúp tiêu hóa, giải độc, chữa hoàng đản. Dùng ngoài, mật gấu có tác dụng làm hết xung huyết, nhỏ mắt chữa đau mắt; xoa bóp chữa sưng đau do ngã hay bị thương”.
Liều dùng: Mỗi ngày có thể uống từ 0,5 g đến 1-2 g.
Để chữa mắt sưng đỏ, dùng mật gấu một lượng bằng hạt gạo mài cho tan vào khoảng 1 ml nước chín, nhỏ mắt. Để xoa bóp chỗ sưng đau, dùng mật gấu 5 g hòa tan trong 100 ml rượu 35 độ.
Đến nay, chưa thấy thông báo nào công bố nào về kết quả chữa khỏi viêm gan mạn của mật gấu, nhưng bệnh nhân có thể dùng thử vì theo kết quả nghiên cứu của Học viện quân y và Viện công nghệ sinh học, nhiều trường hợp xơ gan đã được chữa khỏi bằng mật gấu nuôi.
Ở phương Tây, từ hơn 10 năm nay, người ta đã dùng mật gấu chế thuốc chữa viêm túi mật mạn với biệt dược Ursolvan.
Vài năm gần đây, nhiều người Việt Nam tìm mua mật gấu để chữa bệnh ung thư. Có người nói đỡ, thậm chí khỏi; nhưng chưa thấy có công bố nào về kết quả chữa trị.
84. Phân con quy dùng làm thuốc
“Tôi nghe nói phân con quy có tác dụng chữa cam, sài cho trẻ, không biết có đúng không?”.
Theo giáo sư dược học Đỗ Tất Lợi, con quy (còn gọi là mọt gạo, mọt ngô) là một loại côn trùng nhỏ dài 2-3 mm, rộng 1-2 mm, cánh cứng màu đen, thường thấy ở các kho ngũ cốc hoặc trong thạp gạo để hở lâu. Một đôi vợ chồng con quy sau khoảng một tháng sinh ra chừng 35-50 con quy con.
Một số nơi dùng bỏng ngô nuôi con quy để lấy phân làm thuốc. Rây phân rồi đem sao trên chảo nhỏ lửa cho khô và thơm. Có thể dùng riêng (mỗi ngày từ 2 đến 4 g) hoặc kết hợp với một vài vị thuốc khác để chữa trẻ em gầy còm, biếng ăn, tiêu hóa kém: Bạch chỉ 2 g, sử quan tử 2 g thái mỏng, sao vàng cho thơm, trộn đều với 10 g phân quy đã sao vàng, tán nhỏ. Mỗi ngày dùng 2-3 g bột này, chia làm 2-3 lần uống.
Năm 1978, Đại học y Bắc Thái đã tiến hành phân tích và thấy phân quy có các axit amin cần thiết cho cơ thể như: lysine, arginine, histidine, leucine, isoleucine, valine, threonine, methionine, phenylalanin.
85. Cao dê toàn tính
“Ở quê em, một số người trước đây thỉnh thoảng nấu cao xương hổ, xương khỉ, xương trăn…, chia nhau dùng hoặc đem bán. Nay họ nấu cao dê, không phải chỉ xương mà nấu cả con dê, chỉ cạo lông và vứt bỏ ruột. Xin cho biết loại cao này có tác dụng gì không?”.
Đó là cao dê toàn tính, đặc sản của một số vùng ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh. Trong một công trình của Viện nghiên cứu y học quân sự trước đây, tiến sĩ Đặng Hanh Khôi cho biết: Cao dê toàn tính chứa khoảng 10% nitơ toàn phần, 0,8% nitơ amin, nhiều nguyên tố vi lượng cần thiết như sắt, mangan, đồng, magiê, nhôm, thiếc, canxi, sillic, nicken… Nó có tác dụng kích thích sinh trưởng, giúp cơ thể phát triển nhanh và mau lành vết thương; làm tăng sức dẻo dai của cơ thể (do làm tăng mạnh hô hấp của tế bào cơ bắp). Tác dụng này gần gấp đôi cao xương voi và gần gấp ba cao ban long (gạc hươu).
Theo Đông y, tiết, thịt, gan, tinh hoàn và dạ dày dê đều có tác dụng chữa một số bệnh. Cao dê toàn tính chữa gầy còm, thiếu máu, hay đau bụng, đau mỏi lưng.
Trong điều kiện phải gìn giữ và bảo vệ động vật hoang dã qúy hiếm, chế biến cao dê toàn tính là việc làm đáng khích lệ.
86. Loại đa sinh tố nào tốt hơn
“Cháu thấy có mấy loại đa sinh tố nhập từ nước ngoài như Theravit (Mỹ), Therazym, Cenovis (Australia), giá cả có chênh lệch nhau chút ít. Xin cho biết loại nào tốt hơn?”.
Xin giới thiệu bảng hàm lượng các vitamin và chất khoáng trong ba loại đa sinh tố vừa nêu:
Lượng vitamin và khóang/viên Theravit Therazym Cenovis
Vitamin A 6.000 IU 5.000 IU 1.250 IU
Beta Caroten 1.250 IU 0 0
Vitamin C 90 mg 80 mg 75 mg
Lysine 0 40 mg 0
Vitamin B1 3 mg 1,5 mg 10 mg
Vitamin B2 3,4 mg 1,7 mg 10 mg
Vitamin B3 0 0 25 mg
Niacin 30 mg 20 mg 0
Viatmin B6 3 mg 2 mg 2 mg
Vitamin B12 9 mcg 9 mcg 2 mcg
Vitamin D 400 IU 400 IU 400 IU
Vitamin E 30 IU 0 10 IU
Pantothenic acid 10 mg 10 mg 8 mg
Folic acid 0,4 mg 0,4 mg 0
Biotin 35 mcg 15 mcg 0
Calcium 40 mg 40 mg 10 mg
Phosphorus 31 mg 31 mg 7,5 mg
Iodine 150 mcg 150 mcg 150 mcg
Sắt 27 mg 18 mg 5 mg
Magnesium 100 mg 50 mg 36 mg
Đồng 2 mg 2 mg 1 mg
Kẽm 15 mg 5 mg 1,5 mg
Maganese 5 mg 2 mg 1 mg
Crom 15 mcg 15 mcg 0
Selenium 10 mcg 10 mcg 0
Molipđen 15 mcg 15mcg 0
Kalium 7,5 mg 7,5 mg 5 mg
Chloride 7,7 mg 7,5 mg 0
 
87. Tác dụng của viên Belaf
“Tôi là kỹ sư, hằng ngày phải tiếp xúc với hóa chất, máy vi tính, điện thoại di động… Vừa qua, tôi đọc tờ quảng cáo thuốc Belaf, thấy nói thuốc có thể giúp chống lão hóa, tăng tuổi thọ, đặc biệt hữu ích cho những người tiếp xúc với chất độc hại, ô nhiễm. Thuốc có thành phần: bêta-caroten thiên nhiên 15 mg; vitamin E thiên nhiên 400 IU; selenium thiên nhiên 50 mcg; vitamin C 500 mg. Xin cho biết ý kiến của bác sĩ về vấn đề này”.
Các chất chứa trong viên Belaf có vai trò chống tác hại của các gốc tự do, chống lão hóa, chống độc rõ rệt.
Chỉ xin nêu hàm lượng các chất này trong 1 viên Theravit loại mới của Mỹ để bạn tiện so sánh (theo khuyến cáo thì mỗi ngày, mỗi người sống trong môi trường bình thường chỉ cần uống 1 viên Theravit):
– Beta-caroten: 1.250 IU (của Belaf tính theo mg nên không thể so sánh; vì tính theo IU là tính theo tác dụng thực sự chứ không theo cân nặng của dược chất).
– Vitamin E: 30 IU (của Belaf gấp 13 lần)
– Selenium 10 mcg (bằng 1/5 Belaf)
– Vitamin C: 90 mg (bằng 1/5 Belaf)
Trong hoàn cảnh công tác của bạn, ngoài việc dùng viên Belaf, nên bổ sung cho cơ thể các vitamin và chất khoáng khác có trong viên đa sinh tố, phòng khi chế độ ăn uống không đủ chất đó. Nên tăng cường uống sữa tươi để giúp cơ thể loại trừ các chất độc hại.
88. Đa sinh tố và ung thư ruột già
“Có người khuyên chúng tôi uống đa sinh tố thường xuyên để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ruột già. Điều này có đúng không, hay chỉ là quảng cáo để bán thuốc?”.
Có nhiều loại đa sinh tố bán trên thị trường, cả nội lẫn ngoại. Loại đa sinh tố mang tên Theravit có nhiều loại vitamin và chất khoáng hơn ả. Mỗi ngày uống 1 viên là có thể bù đắp vào những thiếu hụt bất thường trong dinh dưỡng.
Điều mà hai bạn nghe được là một tin vui có cơ sở. Gần đây, Giáo sư E. Giovannucci thuộc Trường Y Harvard (Mỹ) đã công bố kết quả một nghiên cứu tiến hành trên gần 89.000 nữ y tá Mỹ, cho thấy tác dụng tốt đẹp của viên đa sinh tố ở nữ giới. Ở những chị em uống đều đặn đa sinh tố trong suốt 15 năm, tỷ lệ mắc ung thư ruột già giảm 75% so với những chị em không uống.
Công trình nghiên cứu đã nhắc đến tác dụng to lớn của vitamin B9 (axit folic) trong việc phòng ngừa ung thư ruột già: Ở những chị em không uống viên đa sinh tố nhưng trong khẩu phần hằng ngày có đủ 0,4 mg vitamin B9 (như trong viên đa sinh tố), tỷ lệ mắc ung thư đại tràng cũng giảm được 31%.
Đúng là tin vui, nhưng mới chỉ có chị em phấn khởi thôi. Bởi vì chưa có công trình nghiên cứu tương tự nào được tiến hành trên nam giới. Tác giả công trình nói trên chỉ mới tuyên bố rằng ông hy vọng ở nam giới, kết quả thu được cũng giống như vậy.
89. Thuốc đạn đặt âm đạo
“Cháu là con gái, đi khám phụ khoa được bác sĩ cho đơn thuốc đạn đặt vào âm đạo. Cháu ngại thuốc này sẽ làm rách màng trinh, nên còn ngần ngại chưa mua”.
Có một số thuốc, nhất là thuốc chữa nấm, phải được đặt trực tiếp mới đạt hiệu quả cao. Vì vậy, nhất thiết cháu phải theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.
Thuốc đạn đặt vào hậu môn hay âm đạo đều nhẵn nhụi, có kích thước và độ chắc vừa phải nên không hề làm toạc niêm mạc trực tràng hay làm rách màng trinh. Ngay khi khám cho các cô gái, bác sĩ vẫn kiểm tra được âm đạo bằng cách luồn một mỏ vịt cỡ nhỏ (Cusco) qua lỗ màng trinh mà không hề hấn gì.
Xin hoan nghênh việc cháu chịu đi khám bệnh như vừa qua. Bởi vì có nhiều cháu, phần sợ xấu hổ, phần coi thường bệnh ở cơ quan sinh dục nên để muộn, rất khó chữa.
90. Thuốc diệt khuẩn đường tiết niệu
“Bố tôi 72 tuổi, 3 năm trước được chẩn đoán u xơ tuyến tiền liệt, nhưng chưa có điều kiện mổ nên được uống thuốc viên Mictasol bleu trong 20 ngày, kết quả là đi tiểu được bình thường. Nay thấy cụ đi tiểu khó, tôi lại cho uống mỗi ngày 1 viên thuốc nói trên và thấy đỡ hẳn. Xin cho biết Mictasol bleu là loại thuốc gì, dùng dài ngày có hại hay không?”.
Mictasol bleu là một biệt dược của Pháp, thành phần bao gồm: chất thảo dược lấy từ cây Purpurea malva 250 mg; long não monobrom 20 mg; methylthionin hay xanh methylen 20 mg; cao lanh, tinh bột khoai tây, mage stearat, bột talc, nhựa cây acacia, saccharose, sáp, parafin; chất xanh làm tá dược.
Thuốc có tác dụng diệt khuẩn đường tiết niệu. Nó ngấm qua thành ruột, đi vào máu rồi được thận bài tiết vào nước tiểu; vì hiện diện trong nước tiểu nên nó phát huy tác dụng diệt khuẩn tại chỗ. Bệnh nhân u xơ hoặc phì đại tuyến tiền liệt thường bị viêm nhiễm đường tiết niệu nói chung và bàng quang nói riêng; Mictasol bleu làm hết viêm nhiễm, giúp họ tiểu tiện được dễ dàng.
Không được dùng Mictasol bleu cho người bị suy thận.
Thuốc này không nằm trong bảng độc, liều dùng hằng ngày cho người châu Âu là 6-9 viên (uống vào các bữa ăn, chiêu với nước), cho nên với liều thấp như vậy không có gì đáng ngại.
1. Khi dùng thuốc voltarène
“Mẹ tôi 50 tuổi, 2 năm trước bị đau khớp gối, được chữa trị tại bệnh viện; sau này mỗi ngày đều dùng 1 viên Voltarène. Nếu ngưng thuốc hoặc ăn mướp đắng, cà tím thì bị nhức. Xin cho biết mẹ tôi cần kiêng những thức ăn gì, dùng Voltarène thường xuyên có bị ảnh hưởng không?”.
Voltarène có muối natri diclofenac, một chất không steroid có tác dụng ức chế quá trình sinh tổng hợp prostaglandine (chính chất này đóng vai trò chủ yếu trong việc gây viêm, đau và sốt), cho nên nó có tác dụng chống thấp khớp, giảm đau, chống viêm và hạ nhiệt.
Voltarène không được dùng cho người bị bệnh dạ dày (vì có thể gây chảy máu, thủng dạ dày) hoặc người bị dị ứng với axit acetylsalicylic. Không dùng trong 3 tháng đầu và 3 tháng cuối của thai kỳ.
Bạn không nói rõ dùng viên thuốc có hàm lượng bao nhiêu (25 mg hay 50 mg). Tuy nhiên, với liều duy trì 1 viên mà cho hiệu quả như vậy là tốt, không nên ngưng. Uống thuốc trong các bữa ăn.
Voltarène còn có dạng tiêm bắp, hàm lượng 75 mg và dạng kem bôi ngoài da Voltarène émulgel.
Không chỉ riêng mướp đắng hay cà tím mà bất cứ thức gì bị cơ thể mẹ bạn “từ chối” đều phải kiêng, để tránh xảy ra dị ứng.
92. Tin vui cho cư dân vùng sốt rét
“Ký sinh trùng sốt rét ngày càng kháng thuốc, không biết đã có thứ thuốc chữa sốt rét nào tốt hơn chloroquine?”.
Điều bạn quan tâm cũng làm các nhà dược học trên thế giới đau đầu, vì vị thuốc chủ bài chống sốt rét là chloroquine ngày càng bị ký sinh trùng của bệnh này coi khinh.
Vào quý 1 năm 2001, giáo sư Surolla thuộc Đại học Bangglore (Ấn Độ) khi nghiên cứu một chất tổng hợp chống vi khuẩn là tri-closan (vẫn dùng làm chất khử mùi trong nhà tắm) đã nhận thấy, chất này kìm hãm sự phát triển của ký sinh trùng sốt rét, kể cả Plasmodium falciparum đã kháng cloroquine. Triclosan sẽ sớm có mặt trên thị trường.
93. Thuốc mới chống ung thư
“Chúng tôi nghe nói đã có thuốc chữa khỏi hẳn bệnh ung thư, xin cho biết đó là thuốc gì?”.
Cho đến nay, việc điều trị ung thư về căn bản dựa trên ba biện pháp kết hợp: cắt bỏ khối u, xạ trị (chiếu tia X. vào khối u hoặc khu vực đã mổ cắt khối u), hóa trị liệu (dùng hóa chất đưa vào người) để tiêu diệt các tế bào ung thư.
Kết quả đạt được phụ thuộc vào việc phát hiện và xử trí sớm hay muộn cũng như vào mức độ “ác” của từng loại ung thư và vào sức đề kháng của từng người.
Việc chiếu tia X. liều cao và việc dùng hóa chất đều có mặt trái là ảnh hưởng không tốt lên sức khỏe.
Từ lâu, người ta nhận thấy rằng: Khối ung thư phát triển là nhờ nó kích thích cho hệ thống mạch máu của chúng ta phát triển để “nuôi” nó. Do đó, một số phẫu thuật viên đã đề xuất việc thắt các động mạch đi tới khối u (trong trường hợp không thể cắt bỏ) để cho ung thư “chết đói”! Tiếc thay, việc làm này không thành công vì còn biết bao nhiêu mạch nối khác sẽ bù cho chỗ bị thắt, và khối u vẫn không hề gì.
Gần đây, người ta tìm được hai chất có tác dụng ức chế sự hình thành mạch máu mới của ung thư, đó là angiostatin và endostatin. Trên cơ sở này, các biệt dược mới mang tên Anti-VEGF, TNP-470 đã ra đời, được sử dụng cho một số trường hợ ung thư muộn, bước đầu cho kết quả đáng mừng.
Tuy nhiên, mặc dù phấn khởi là đã đi đúng hướng, các nhà nghiên cứu thấy vẫn cần phải chờ một thời gian nữa, sau khi các loại thuốc mới này đã được dùng trên diện rộng, mới có thể khẳng định được.
Ngoài ra, người ta còn phát hiện rằng chất telomerase (hiện diện trong 85% tế bào ung thư) có tác dụng làm cho các tế bào này “sống lâu muôn tuổi” (các tế bào lành vì không có chất này nên không thể “trường sinh bất lão”). Nếu có cách gì vô hiệu hóa telomerase thì sẽ giết chết được tế bào ung thư. Mới đây, các nhà khoa học Canada lại tìm thấy một protein mang tên *hnRNP A1 cũng có tác dụng làm cho tế bào ung thư “vạn thọ vô cương”, lợi hại hơn telomerase ở chỗ nó hiện hữu trong 100% các khối u. Nếu vô hiệu hóa được *hnRNP A1, ta cũng sẽ làm cho các tế bào khối u già đi và chết.
Những phát hiện nói trên rất quan trọng, mở đường cho việc sáng tạo các thuốc chống ung thư hữu hiệu hơn và không độc hại đối với cơ thể.
94. Triển vọng của thuốc vacxin chống ung thư
“Nghe nói đã có thuốc tiêm phòng chống bệnh ung thư. Xin cho biết thực hư”.
Chuyện có thật đấy. Có 2 thành tựu, một trên người và một trên chuột thí nghiệm.
1. Cuối năm 1997, một phụ nữ Đức 65 tuổi được chẩn đoán qua lâm sàng và ảnh scanner là bị ung thư thận đã di căn, cầm chắc cái chết. Bà xin làm người đầu tiên thử nghiệm một vacxin loại mới (do nhóm nghiên cứu của giáo sư G. Muller thuộc Bệnh viện Gottingen của Đức sáng tạo) và bà đã khỏi bệnh hoàn toàn, các di căn ung thư ở hai phổi cũng biến mất, sau hai năm rưỡi không xuất hiện lại. Như vậy là vacxin đó có tác dụng chữa ung thư rõ rệt.
Vacxin chống ung thư của Đức được chế tạo theo các bước sau: Lấy một số tế bào ung thư đem nghiền nát. Lấy các bạch cầu đơn nhân trong máu người bình thường đem nuôi cấy ở 37 độ C trong môi trường có cytokin. Sau 7 ngày đêm, các bạch cầu này biệt hóa và trở thành tế bào sợi nhánh chưa thành thục. Đem các tế bào ung thư trộn với các tế bào sợi nhánh này rồi đặt vào một thiết bị, để chúng hợp nhất thành các tế bào lai dưới tác động của một cú sốc điện.
Sau khi tế bào lai này được tiêm cho bệnh nhân ung thư, chúng kích thích bạch cầu lympho T (LT) tiết cytokin để kích hoạt nhiều tác nhân của hệ miễn dịch, đồng thời thúc đẩy bạch cầu lympho B (LB) sản xuất kháng thể hướng vào kháng nguyên của khối ung thư.
Nhờ đó, hệ miễn dịch tấn công thắng lợi vào tế bào ác tính và di căn. Các LT nhận diện ra ngay và phá hủy chúng. Các bạch cầu đơn thuần, các đại thực bào hay các bạch cầu lympho khác cũng nhận diện ra các kháng thể dính trên bề mặt của tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.
2. Viện Pasteur của Pháp đã hiệu chỉnh được một vacxin tổng hợp mang tên MAG (Multiple Antigenic Glycopeptide) giúp 70% chuột khỏi bệnh nhờ loại trừ được khối ung thư.
MAG gồm một trung tâm lysine và 4 peptide mô phỏng kháng nguyên của virus sốt bại liệt, có gắn thêm đường Tn (kháng nguyên đặc hiệu của tế bào ung thư). Khi tiêm MAG cho chuột bị ung thư, kháng nguyên của virus sốt bại liệt bị tế bào sợi nhánh của chuột thu lấy và đưa tới LT; bạch cầu này bèn kích thích LB bằng cách phóng thích cytokin. LBiện ra kháng nguyên Tn trong vacxin, bèn tự tăng cường số lượng và sản xuất các kháng thể để gắn lên các đường Tn của tế bào ung thư. Nhờ việc “đánh dấu” này, các tác nhân của hệ miễn dịch nhận rõ mục tiêu tấn công và phá hủy tế bào ung thư.
Hai thành tựu nói trên mở ra triển vọng tốt đẹp trong việc chữa trị các bệnh nan y, kể cả HIV/AIDS.
95. Coi chừng dị ứng thuốc
“Cháu 17 tuổi, từ khi lên 10 tới giờ, mỗi lần dùng thuốc tây (uống hoặc tiêm) là da nổi mẩn đỏ, rất ngứa, sau phồng lên như bị bỏng, cả tuần mới khỏi. Cháu đã điều trị nhiều cách nhưng không hết”.
Cháu không cho biết trong những lần bị dị ứng, cháu đã dùng thuốc gì, nhưng theo cách nói thì có thể đoán cháu bị dị ứng với một vài loại kháng sinh nào đó. Cháu hãy tìm lại các đơn thuốc đã dùng và tuyệt đối tránh sử dụng các kháng sinh đó.
Do không nắm được vấn đề nên bảy năm qua cháu đùa với lửa mà không biết. Hiện tượng dị ứng thuốc rất khó lường về mức độ nguy hiểm, có người chỉ tiêm trong da một nốt nhỏ để thử phản ứng mà cũng xây xẩm mặt mày, mạch nhanh, run tay chân. Trường hợp dị ứng mạnh sẽ dẫn đến sốc phản vệ, nguy hiểm đến tính mạng.
96. Máu nhân tạo
“Tôi nghe nói vài ba năm nữa sẽ có máu nhân tạo sử dụng rộng rãi. Máu nhân tạo có giống hệt máu người và thay được máu người không?”.
Hiện chưa có chất gì bắt chước được y hệt máu người. “Máu nhân tạo” như bạn nghe nói chỉ là chất thay thế máu tạm thời trong một giai đoạn nào đó, chẳng hạn như khi bị chảy máu nhiều hoặc trong phẫu thuật; lúc bấy giờ điều quan trọng hàng đầu là đảm bảo ôxy cho cơ thể để duy trì sự sống. Nhiệm vụ này do huyết cầu tố (hemoglobin) của hồng cầu đảm nhiệm; vấn đề đặt ra là nghiên cứu một chất nào đó có khả năng vận chuyển ôxy giống như huyết cầu tố.
Hướng thứ nhất là chế tạo huyết cầu tố từ những chai máu người đã quá hạn dùng, hoặc từ máu bò, máu lợn; hay bắt các vi khuẩn đã qua tác động gene sản xuất. Nếu tạo ra được huyết cầu tố nguyên chất thì không cần phải quan tâm đến nhóm máu nữa, việc sử dụng sẽ an toàn và tiện lợi.
Tuy nhiên, việc sản xuất huyết cầu tố các chai máu người đã quá hạn như vậy vẫn phải phụ thuộc vào nguồn cho và không thể cung cấp kịp thời với một lượng lớn, chẳng hạn khi có thiên tai, xung đột vũ trang…
Hướng thứ hai là sử dụng các fluorocarbure – những chất hữu cơ trơ nhất, đậm đặc nhất, dễ nén nhất và kỵ nước nhất – có khả năng thu ôxy từ phổi, sau đó đem phân phối cho các cơ quan qua hệ thống mao mạch.
Hãng Alliance Pharmaceutical (California) của Mỹ đã chế tạo được một chất lỏng trong suốt không màu mang tên Oxygent. Đó là một nhũ tương gồm perfluoro-carbure, nước và các chất nhũ hóa. Hạn sử dụng Oxygent (bảo quản ở nhiệt độ 5 độ C) là một năm rưỡi. Oxygent còn “cao thủ” hơn hồng cầu vì nó luồn được sâu vào các mao mạch.
Nhờ có “máu nhân tạo”, loài người sẽ giảm thiểu, thậm chí tránh được những điều phiền phức hoặc nguy hiểm của việc truyền máu như hiện nay, đến mức mà người Mỹ coi truyền máu là một động tác nguy hiểm càng tránh được càng tốt.
97. Có insulin đường uống không
“Mẹ cháu bị tiểu đường, lâu lâu phải đến bác sĩ tư tiêm insulin. Mẹ cháu sợ đau và có những lần để trễ nhiều hôm mới đi tiêm. Xin hỏi có loại insulin dạng uống không?”.
Insulin hiện chưa có loại uống, bởi vì nếu uống theo cách thông thường thì nó không thể chui qua màng ruột để vào máu như một số lớn chất khác.
Tuy nhiên, có hai tin mới có thể làm cho người tiểu đường như mẹ cháu hy vọng có dịp được uống insulin thay tiêm:
1. Nhóm nghiên cứu của Giáo sư Fasano, Đại học Maryland (Mỹ) đã phát hiện ra một độc tố mới của vi khuẩn bệnh tả, được đặt tên là độc tố ZOT. Chính độc tố ZOT này làm cho những người bị bệnh tả liên tục bị tiêu chảy, mất nhiều nước và các chất điện giải, có thể chết rất nhanh nếu không được cứu chữa kịp thời. Sở dĩ như vậy là do ZOT làm tăng khoảng cách giữa các tế bào màng ruột (từ chỗ áp sát nhau nay hé rộng ra). Các nhà khoa học bèn trộn ZOT vào insulin rồi cho chuột bị tiểu đường uống; kết quả không kém insulin tiêm. Hiện thuốc đã được chuyển sang thí nghiệm trên khỉ (họ hàng gần của con người về di truyền cũng như sinh lý) và thu được kết quả y hệt như ở chuột, không có phản ứng phụ.
Một nhóm nghiên cứu khác của Mỹ đã hiệu chỉnh được, trên các chuột thí nghiệm, một phương pháp mới cho phép sử dụng insulin uống: Để bảo vệ insulin không bị chất axit của dạ dày phá hủy, các nhà nghiên cứu bọc nó trong một mạng lưới polymer. Khi gặp môi trường acid, mạng lưới “thông minh” này sẽ co khít lại, chỉ khi xuống đến ruột non nó mới lơi ra, giải phóng insulin cho màng ruột hấp thu. Phương pháp mới này đang được thử nghiệm trên người.
2. Gần đây, tại Liên hoan khoa học năm 2001 tại Edimbourg (Anh), các nhà nghiên cứu cho biết đã hiệu chỉnh được một kỹ thuật mới chế tạo các chất thuốc dưới dạng cực nhỏ, có thể vào máu dễ dàng qua việc trao đổi khí ở phổi. Do đó, mẹ cháu chắc sẽ có dịp được dùng insulin dưới dạng xông hơi, không cần tiêm mà cũng chẳng cần uống.
98. Để có thể phổ biến một phương thuốc hay
“Tôi là giáo viên, nhưng vì yêu thích nghề thuốc nên từ 20 năm nay, tôi mày mò tìm ra và ứng dụng có kết qủa một phương thuốc chữa bệnh thấp khớp. Tôi muốn được giúp đỡ để có thể phổ biến nó”.
Xin hoan nghênh nhiệt tình của bác trong việc này. Thật vậy, bệnh thấp khớp gây tai hoạ cho biết bao nhiêu nam nữ thanh niên nước ta do những tổn thương ở tim. Tuy y học hiện đại đã có thuốc chữa bệnh này nhưng nó còn khá đắt, đông đảo người nghèo còn khó với tới lắm! Vả chăng, thuốc Tây y vẫn có những phản ứng phụ phải dè chừng. Bác đã chữa được một số trường hợp, nay muốn phổ biến rộng phương thuốc ấy, đó là một thiện ý đáng hoan nghênh.
Xin gợi ý với bác một số điểm như sau:
– Tuy phương thuốc đã được ứng dụng nhiều mà không gây nguy hiểm, bác vẫn nên rà lại dược tính, độc tính cũng như tính tương kỵ của từng vị (đã ghi trong cuốn Cây thuốc Việt Nam), rồi chép thành một tài liệu riêng. Những vị nào chưa có trong danh mục hoặc chưa có tên Latin, bác nên nhờ các nhà dược học xác định giúp.
– Liên hệ với một vài cơ sở Đông y ở gần để họ chấp thuận cho sử dụng trên bệnh nhân. ốn được thuận lợi, có lẽ bước đầu bác chưa nên thu tiền, tuy có khó khăn về tài chính nhưng công chuyện sẽ trôi chảy hơn. Dựa vào kết qủa trên từng bệnh nhân, các bác sĩ sẽ có nhận xét về phương thuốc đó.
99. Ghép khác với nối
“Chúng em đang học lớp 11. Sau khi đọc được bài báo về ca mổ ghép bàn tay thành công lần đầu tiên trên thế giới, chúng em đã tranh cãi. Đứa thì bảo đúng đây là lần đầu, đứa thì bảo trước đây đã mổ thành công nhiều trường hợp tương tự. Xin cho biết ai đúng ai sai?”.
Hẳn là các em tranh luận về sự kiện ngày 24/9/1998: Lần đầu tiên trên thế giới, một ca ghép bàn tay được thực hiện thành công. Bệnh nhân là một người đàn ông 48 tuổi đã phải cắt cụt bàn tay trước đó 9 năm.
Nguyên nhân gây tranh luận có lẽ là do cả “hai phe” của các em đều chưa nắm chắc hai thuật ngữ “ghép” và “nối”.
Đúng là người ta đã nhiều lần nối thành công bàn tay bị cắt đứt do rủi ro. Ngay sau tai nạn, bàn tay bị cắt rời được kịp thời chuyển theo người tới bệnh viện, và kíp mổ đã thực hiện cùng một lúc các phẫu thuật kết xương, nối mạch máu, nối dây thần kinh, nối cân cơ… Về căn bản, đó là bàn tay của bản thân cho nên hễ nó “còn sống” là được, chỉ cần luyện tập cho tốt.
Còn “ghép” là đem bàn tay của người khác (thường là người vừa mới chết) ghép lên mỏm cụt bàn tay của bệnh nhân. Đây không phải bàn tay của bản thân nên rất dễ bị đảo thải; bệnh nhân sẽ phải liên tục dùng thuốc để chống lại hiện tượng đó. Ngoài ra, do bàn tay bị cụt đã khá lâu nên có thể trên vỏ não không còn vị trí đại diện của nó; điều này sẽ làm hạn chế chức năng của bàn tay ghép.
Xin biểu dương cuộc tranh luận của các em. Bởi vì chỉ qua tranh luận, ta mới phân định được chân lý. Chỉ xin nhắc là trước khi tranh luận, “hai phe” phải thống nhất về định nghĩa thuật ngữ. Ví dụ: ghép xương (đặt các mảnh xương, đoạn xương vào ổ gãy, giúp cho xương liền lại) khác với kết xương (dùng đinh, vít, nẹp… bằng kim loại để cố định nó); giải phẫu (mô tả hình dạng, vị trí, chức năng của các bộ phận cơ thể) khác với phẫu thuật (dùng dao kéo để mổ xẻ cơ thể)…
100. Nhìn gà đẻ sẽ bị lang ben?
“Cháu sợ quá, xin cứu cháu với! Hôm qua, cháu kể với bạn là nhìn thấy gà mái đẻ trứng; bạn nói rằng ai nhìn gà đẻ sẽ bị bệnh lang ben. Cháu rất sợ sau này sẽ bị như vậy, vì như bạn cháu nói, lang ben làm cho khuôn mặt trở nên dễ sợ”.
Gà mái đẻ trứng hay lợn nái sinh con là động tác sinh sản của loài vật. Lang ben là bệnh ngoài da ở con người. Hai hiện tượng này không liên quan gì đến nhau.
Có lẽ bạn cháu còn nhầm lẫn giữa bệnh lang ben và bệnh bạch tạng. Lang ben là một bệnh ngoài da thuộc loại nhẹ nhất; có một số trường hợp tự nhiên khỏi khi lớn lên. Còn bạch tạng là một bệnh bẩm sinh: một số tế bào bị mất hắc tố, trở nên trắng bệch. Tổn thương cứ thế lan rộng dần; nếu chẳng may bị ở mặt thì trông cũng dễ sợ, nhưng bệnh này không lây.
101. Vết chàm trên người
“Từ lúc lọt lòng, cháu đã có một vết chàm trên người. Khi lớn lên, cháu hỏi mẹ thì bà bảo “bị đổ chàm vào người vì tội ngang bướng cứ muốn đầu th. Lâu nay cháu cứ trăn trở về điều này mà không tài nào hiểu được. Khoa học có cách gì giúp cháu xóa nó đi không, để khỏi có mặc cảm tội lỗi?”.
Theo thuyết luân hồi, mỗi con người có nhiều kiếp sống nối tiếp nhau: sinh ra – lớn lên – chết đi – đầu thai làm con của hai bố mẹ khác để được sinh ra lần nữa… Cứ thế cho đến khi nào trở nên “hoàn thiện hoàn mỹ” thì được thoát khỏi cảnh luân hồi, hưởng hạnh phúc vĩnh cửu… Trước đây, khi gặp cảnh trẻ sơ sinh bị chết yểu liên tiếp, người ta cho là “tại một kẻ đầu thai rồi chết ngay, lặp đi lặp lại nhiều lần”. Do vậy, một số người đổ chàm, đổ mực tàu lên thi hài đứa con chết yểu đó để đánh dấu, phòng khi nó đầu thai lại thì nhận ra!
Còn theo giải thích của khoa học, vết chàm, vết bớt bẩm sinh xuất hiện do hiện tượng đổi màu của sắc tố da tại vùng đó trong quá trình bào thai. Nguyên nhân của nó chưa được xác định rõ. Không có chất gì làm cho nó mất đi được. Một số anh chị em ruột có vết chàm gần giống nhau, có thể do gene.
Như vậy, cháu chẳng tội gì mà phải trăn trở nghĩ ngợi về lời nói không đâu.
102: Phải đề phòng ra sao?
“Ở thôn cháu, vào khoảng nửa đêm đến 2-3 giờ sáng, thường có một người đàn ông chuyên đi lấy cắp đồ lót của phụ nữ, có khi chỉ lấy áo hoặc quần thôi. Mọi người khuyên nên vứt cái quần hay cái áo mà hắn để lại, nói là để tránh bệnh lậu. Như vậy tên kia bị bệnh gì, và chúng cháu phải đề phòng ra sao?”.
Người hay ăn cắp đồ mặc trong của phụ nữ để hôn hít, ôm ấp… nhằm tạo khoái cảm tình dục (thực hiện ngay tại chỗ hoặc mang vào chỗ kín) là người mắc chứng loạn dâm đồ vật (danh từ chuyên môn là fetishism). Không có gì đảm bảo là họ không cưỡng bức phụ nữ khi có điều kiện. Vì vậy, các cháu nên cùng gia đình kín đáo xác định người đó là ai để đề phòng. Trong khi ngủ, bất kể ngày hay đêm, phải chú ý cài then cửa để phòng nguy cơ bị đột nhập. Ngoài ra, nên phơi quần áo ở chỗ không ai với tới được.
Có lẽ lời khuyên của bà cháu là đúng, bởi vì người kia có thể đã “sử dụng” tại chỗ cái áo hay cái quần kia rồi bỏ lại, và không có gì đảm bảo là anh ta không mắc bệnh ở cơ quan sinh dục.
103. Chuyện người đẻ ra chuột
“Cháu nghe đồn là việc dùng băng vệ sinh Tàu sẽ ảnh hưởng không tốt cho sự sinh sản sau này, thậm chí có người đẻ ra toàn chuột, chuyện đó có đúng không ạ?”.
Khi đặt câu hỏi về chuyện người đẻ ra chuột, chắc cháu đã quên mất các kiến thức sơ đẳng về sinh học.
Cách đây chừng chục năm, có nhà khoa học đã cho lai được một trường hợp cừu – dê và có thể sau này, nhờ kỹ thuật gene, người ta có thể tạo ra các giao loài khác (giao loài là con lai giữa hai loài khác nhau, ví dụ như bò – lợn).
Tuy nhiên, chuyện tinh trùng của chuột thụ tinh được cho noãn (trứng chưa thụ tinh) của chị em là điều quá phi lý. Đó là chưa nói đến chuyện tinh trùng chuột (nằm trong băng vệ sinh) không thể “thượng thọ” đến thế (tinh trùng của người, nằm trong cơ quan sinh dục nữ, cũng chỉ sống được có 12-16 giờ).
Còn về chất lượng băng vệ sinh thì, qua điều tra sơ bộ, người ta thấy loại có nhãn chữ Trung Quốc (thường được gọi là băng vệ sinh Tàu) mỏng hơn nên độ thấm kém hơn các loại băng khác; một số trường hợp gây ngứa nếu không được thay kịp thời; ngoài ra không có gì khác biệt.
104. Đừng nhổ nước bọt
“Tại sao khi em ăn hạt dưa, kẹo…, nước bọt của em tiết ra nhiều, phải nhổ ra liên tục?”.
Việc tiết nhiều nước bọt khi ăn hạt dưa, kẹo… chứng tỏ cơ thể em “mê” các thứ đó lắm, không sao cả. Nước bọt là một chất dịch quý báu gồm nước, men tiêu hóa, chất làm tan vi khuẩn…, không ai dại gì đem nhổ đi. Ngoài ra, động tác nhổ nước bọt là một thói quen không hay ho gì, khiến những người có văn hóa không thích, thậm chí khó chịu ra mặt. Vì vậy, về phần em, nếu không cố gắng nuốt được hết nước bọt thì hãy thôi, đừng ăn vặt các thứ kia làm gì.
105. Hãy cho mồ hôi ra nhiều hơn
“Chừng vài năm nay tôi hay đi tiểu nhiều, nhất là vào những ngày mát mẻ và sau khi uống nhiều nước. Bác sĩ khám và cho chụp X quang rồi kết luận là thận không việc gì, nhưng tôi vẫn lo. Xin nói thêm là tôi không hề tập thể dục hay chơi thể thao, hễ uống trà là đêm không ngủ được và càng đi tiểu nhiều lần”.
Nếu chắn chắn không có vấn đề gì ở thận, không phải bệnh tiểu đường hay tiểu nhạt (do rắc rối ở tuyến yên và nếu vậy phải có hiện tượng thèm uống và lượng nước tiểu thường xuyên phải rất lớn) thì nguyên nhân rất có thể là do bạn không hoạt động thể lực. Các tuyến mồ hôi không hoạt động mấy, chỉ ỷ lại vào hai quả thận nên bạn mới đi tiểu nhiều như vậy (nhớ rằng khi đi bộ bình thường, mỗi giờ cơ thể thải ra ít nhất 0,5 lít mồ hôi).
Bạn hãy bắt đầu tập thể dục với mức tăng dần. Về sau, khi thấy quen hơn, bạn nên tham gia một vài môn thể thao thích hợp. Mồ hôi ra đúng mức thì nước tiểu sẽ ít đi, và thận của bạn nhẹ gánh biết mấy! Lúc bấy giờ, có khi bạn phải uống nhiều hơn mới đủ để có nước tiểu đấy. Còn hiện giờ, bạn hãy hạn chế việc ăn canh, nhất là canh có rau (cải, cải bắp…), đồ chua (trái cây, yaourt…), giảm bớt lượng nước uống vào (có theo dõi chặt chẽ) để… phấn khởi bước đầu đã, sau này sẽ điều chỉnh lại. Và dĩ nhiên bạn không nên dùng trà hay cà phê vì cơ thể bạn thuộc dạng dễ bị kích thích.
106. Chú ý khi tiếp xúc với chó mèo
“Các con tôi rất yêu súc vật, đặc biệt là chó, mèo. Bọn trẻ hay hôn hít chúng, cho ăn cùng mâm, ngủ cùng giường. Tôi thấy ở phương Tây, vật nuôi cũng được yêu quý và chăm nom như vậy. Gần đây, tình cờ thấy trong phân mèo có mấy đốt sán ngọ nguậy, tôi mới hoảng hồn. Vậy sán chó, mèo có lây sang người không?”.
Con người (nhất là trẻ em, người cô đơn, bệnh tật, tàn phế) đã quen với sự có mặt của các vật nuôi. Ngoài chó mèo, cho tới nay danh sách vật nuôi đã có thêm nhiều loài thú hoang dã.
Tại các nước phát triển, người ta luôn theo dõi để phát hiện những ký sinh trùng trên “vật cưng” (giun sán, bọ chét, chấy rận…) để chúng không thể gây hại cho người. Thậm chí người ta còn phát hiện những mầm bệnh tiềm tàng trong cơ thể “vật cưng” để kịp thời chữa trị. Ngoài ra, do thói quen sử dụng hố xí tự hoại (bệt) từ tuổi ấu thơ, họ giữ cho môi trường đất không bị các mầmvật ký sinh từ phân xâm nhập.
Ở Việt Nam, tình hình có những khác biệt:
– Đất ở nước ta hầu hết bị nhiễm phân do nạn phóng uế bừa bãi và do việc sử dụng phân người một cách tùy tiện (thời gian ủ phân không đủ diệt hết trứng giun và một số mầm bệnh khác; điều này có thể khắc phục dễ dàng bằng cách dùng hố xí bệt). Chó mèo giẫm vào đất bẩn nhiều khi vẫn được leo lên giường ngủ chung với người.
– Do bị đói, chó mèo thường tìm xơi mọi thứ ở mọi nơi, nên miệng chúng không thể là “miệng người yêu dấu” để có thể hôn hít.
– Chó mèo có thể mắc một số bệnh như cúm, dại, thậm chí có con chó bị lao hang ở phổi do thường xuyên ăn đờm của bà chủ bị lao nặng.
Bạn cũng cần biết rằng, trong các con bọ chét của chuột có ấu trùng Toxoplasma gondii (một loại ký sinh trùng đơn bào). Nếu chó mèo ăn thịt chuột, ấu trùng sẽ trưởng thành trong ruột non chó mèo, đẻ trứng. Trứng theo phân ra ngoài, có khả năng gây bệnh trong vòng mấy tháng. Người bị nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii sẽ có nhiều nguy cơ bị các chứng sau:
– Sẩy thai, đẻ non, thai nhi bị dị tật bẩm sinh, chết yểu. Trẻ sơ sinh có mẹ nhiễm ký sinh trùng này thường có đầu rất bé, vàng da, lách to, viêm phế quản, động kinh, khiếm thị, khiếm thính, chậm phát triển trí tuệ… Ở nhiều đứa trẻ, những triệu chứng trên chỉ xuất hiện sau mấy năm chào đời.
– Đau mình mẩy, sốt nhẹ, nổi hạch ở cổ hay nách. Các triệu chứng này thường hết sau một thời gian ngắn; nhưng cũng có trường hợp biến chứng viêm phổi, viêm não, màng não, tim…(thường gặp ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch).
– Bị một số tổn thương ở mắt.
Con mèo nhà bạn bị sán, vậy con bạn rất có thể đã nhiễm loại sán này.
107. Chống mốc quần áo
“Quần áo cháu mặc hay bị mốc, mặc dù cháu đã cho muối vào nước lúc giặt giũ. Xin cho biết cách xử trí”.
Cháu phải luộc kỹ quần áo để diệt các bào tử nấm (nước muối không ăn thua đâu); không để quần áo bị mốc lẫn với đồ mới (để nấm mốc không lan sang). Quần áo thay ra phải giặt ngay và phơi chỗ thoáng, không phơi sương. Cần tắm giặt hằng ngày.
108. Nghề uốn tóc có nguy hiểm không?
“Cháu làm nghề uốn tóc được 5 năm nay. Cháu nghe nói việc ăn huyết bò giúp thải được bụi tóc ra ngoài theo đường phân, có đúng vậy không? Nếu hay hít mùi thuốc uốn tóc thì có bị nhiễm hóa chất không?”.
Nếu không phải là hàng giả thì thuốc uốn tóc không gây hại cho cả thợ uốn tóc và khách hàng, vì các sản phẩm này đã được kiểm tra chặt chẽ trước khi tung ra thị trường. Thuốc nhuộm tóc cũng vậy, hàng giả gây rụng tóc dần, còn hàng thật thì không.
Khi cắt tỉa tóc, tuyệt đối cháu phải đeo khẩu trang để tránh hít phải tóc vụn và những chất bẩn từ đầu người khác. Còn chuyện huyết bò thì cháu hãy quên đi, vì làm sao mà tóc đang nằm ở đường hô hấp lại chui vào ruột được.
Cháu cứ yên tâm làm ăn, nhớ đừng bao giờ dùng chung khăn cho khách để tránh lây bệnh từ người nọ sang người kia.
109. Bao dương vật có từ bao giờ
Thời tiền sử, để dương vật khỏi bị gai đâm hoặc côn trùng cắn, đàn ông bảo vệ nó bằng cách lấy các mảnh vỏ cây dài quấn lại, hoặc dùng một cái vỏ cứng lên, hay đút nó vào một vật hình trụ (tập quán này hiện vẫn tồn tại ở một số bộ tộc ít người).
Từ thời xưa, đàn ông đã biết phòng lây bệnh hoa liễu bằng cách dùng các dụng cụ bảo vệ với những tên gọi khác nhau tùy theo địa phương. Ở Paris (Pháp), người ta gọi nó là “áo đuôi tôm Anh Quốc”. Đối lại, người London (Anh) gọi nó là “màng ruột già Pháp”. Người châu Phi đặt tên cho nó là “mũ đi rừng”; người Brazin gọi nó là “áo sơ mi nhí”…
Suốt ba nghìn năm nay, người ta đã dùng bàng quang lợn, ruột cừu, ruột thỏ, bong bóng cá (đặc biệt của cá tầm và cá heo)… làm bao dương vật để tránh lây “các bệnh của thần Vệ Nữ”.
Từ thế kỷ 10, người Nhật Bản đã sản xuất được những dụng cụ bảo vệ cơ quan sinh dục nam giới bằng da thuộc hoặc vảy rùa.
Năm 1564, trong cuốn sách nhan đề De morbo gallico, chuyên gia tình dục học nổi tiếng Gabriel de Fallope đã gợi ý nên dùng một dụng cụ hình mũ chụp có phết một thứ nước lá cây sắc đặc, đặt lên bộ phận sinh dục nam ngay sau khi giao hợp để tránh mắc bệnh.
Mãi tới thế kỷ 17, người ta mới dùng bao dương vật vào việc tránh thai. Vua Charles của Anh và vua Louis của Pháp là những người đầu tiên sử dụng nó với mục đích này. Từ đó, bao dương vật được phổ biến nhanh chóng. Trong thời gian này, nó mang một cái tên mỹ miều là “găng tay của quý bà”, được chế tạo bằng ruột hay bàng quang súc vật, đôi khi lót bằng lụa hoặc nhung (người Trung Quốc thường dùng lụa mỏng thấm dầu). Trong khi giao hợp, nam giới luôn phải giữ chặt trong tay một dải băng được dính vào dụng cụ. Mất thoải mái đã đành, dụng cụ này lại không thật đảm bảo, đến nỗi nữ văn sĩ Pháp Mme de Sévigné phải thốt lên: “Đó là tấm áo giáp chống lạc thú và là mảnh mạng nhện chống hiểm nguy”.
Vào những năm 70 của thế kỷ 20, triết gia Pháp Condorcet và nhà kinh tế học Anh Malthus đã rất nhiệt thành bảo vệ chủ trương dùng bao dương vật để hạn chế sinh đẻ. Từ đó, dụng cụ này trở nên thực sự phổ biến.
Bao dương vật cũng có những bước thăng trầm, được cải tiến dần về hình dạng và chất liệu, nhất là từ khi có kỹ thuật lưu hóa cao su. Hiện đã có những loại cực mỏng và bền chắc, bảo hành 5 năm. Tuy nhiên, người ta còn muốn yên trí và tiết kiệm hơn nên đã tạo ra một thiết bị nhỏ mang tên Vérifior kèm theo bao cao su để “kiểm tra, hong khô và quấn lại”
110. Thụ tinh nhân tạo và thụ thai trong ống nhiệm nhằm sử dụng được nhiều lần.
“Bạn em nói thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm là 2 kỹ thuật khác nhau, còn em thì cho rằng đó chỉ là 2 tên gọi của một kỹ thuật. Xin bác sĩ làm trọng tài giùm”.
Em thì chắc chắn sai rồi, còn bạn em cũng không đúng nốt, bởi vì trong đầu bạn có thể nghĩ đúng nhưng lại lẫn lộn về thuật ngữ. Đã gọi là nhà khoa học thì không nên dùng sai thuật ngữ khoa học, bởi lẽ thiên hạ sẽ hiểu nhầm điều mình định giải thích, nguyên nhân do dịch sai thuật ngữ của nước ngoài.
Thụ tinh nhân tạo (inséminatinon artificielle) là bơm tinh dịch vào âm đạo đúng giữa ngày rụng trứng, với hy vọng tinh trùng có thể gặp được noãn tại ống dẫn trứng và thụ thai; trứng được thụ tinh sẽ đi xuống tử cung để làm tổ và phát triển ở đnghĩa là tuy tiến hành thụ tinh nhưng chưa chắc đã thụ thai. Tinh dịch có thể tươi (lấy xong đem bơm ngay) hoặc đông lạnh, có thể là của người khác (vì của người chồng yếu hoặc không có) hay của chính người chồng (vẫn tốt, nhưng vì độ axit âm đạo người vợ qúa cao, làm chết tinh trùng, phải bơm “nhân tạo” mới thoát hiểm được).
Thụ thai trong ống nghiệm (fécondation in vitro) là lấy noãn cho tiếp xúc với tinh trùng để thụ thai thành trứng; phôi được giữ trong ống nghiệm chừng 2-3 hôm, khi phát triển thành 4 tế bào thì được đem cấy vào tử cung (của người mang thai hộ hoặc mẹ ruột). Có thể tiến hành tạo cùng lúc với nhiều phôi để có 2-3 con, thậm chí đông lạnh phôi để dùng dần.
111. Lợi ích và nhược điểm của nhân bản vô tính
“Kỹ thuật nhân bản vô tính trên động vật mang lại lợi ích thiết thực gì? Nếu nhân bản người thì điều gì sẽ xảy ra?”.
Kỹ thuật nhân bản vô tính (NBVT) được hiểu một cách khái qúat là: Lấy 1 tế bào thông thường trên cơ thể của con đực hay con cái, rút nhân. Lấy 1 noãn của con vật khác cùng loài, bỏ hết nhân rồi cho nhân kia vào; khi nó phát triển thành phôi 4 tế bào thì đem cấy vào dạ con. Như vậy, vật liệu di truyền của cá thể mới sẽ chỉ có nguồn gốc từ một người, bố hoặc của mẹ; cái noãn này chỉ “nuôi giùm” mà thôi.
Trên động vật, NBVT mở ra triển vọng phục hồi một số giống loài đã tuyệt chủng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng; đem lại tính đa dạng cho quần thể động vật trên hành tinh, qua đó nghiên cứu sâu hơn các quy luật tiến hóa. Kỹ thuật NBVT động vật gặp một trở ngại lớn chưa khắc phục được: Các con vật được nhân bản đều chết sớm sau khi chào đời.
Trên con người, việc NBVT các phủ tạng sẽ tạo thuận lợi cho việc thay thế các cơ quan hư hỏng trong cơ thể mà không phải sử dụng thêm thuốc chống thải loại như hiện nay (vì là “của chính mình” nên được dung nạp dễ dàng). Qua đó, có thể tiến hành thử nghiệm các phương thức điều trị và ngăn ngừa bệnh tật, khắc phục các khuyết tật.
Và dường như nhân loại buộc phải dừng lại ở đó. Bởi lẽ:
– Những cá thể sinh ra do NBVT là bản sao nguyên xi của bố hoặc mẹ, không có cá tính riêng; không tiến hóa, mà đã không tiến hóa thì phải chịu đào thải theo quy luật.
– Người con thu được bằng NBVT chỉ sống được phần còn lại của cuộc đời bố hay đời mẹ mình, như đã nói ở trên.
– Việc NBVT trên người bị các nhà đạo đức học và các tổ chức tôn giáo phản đối quyết liệt.
112. Hươu cao cổ và cơ quan NASA
“Chúng em nghe nói người Mỹ đang nghiên cứu hươu cao cổ để chuẩn bị đưa nó lên vũ trụ, có đúng không?”.
Chắc các em nghe nhầm. Trong điều kiện hiện tại, việc đưa các sinh vật bậc thấp (tảo, vi khuẩn, côn trùng…) vào vũ trụ để nghiên cứu cũng phải tính toán cẩn thận, nói gì đến chuyện đưa những động vật bậc cao cùng đi với con người. Hươu cao cổ mới lọt lòng đã có chiều cao 2 m, cân nặng trung bình 60 kg, cồng kềnh hơn cả nhà du hành.
Tuy nhiên, chuyện nghiên cứu hươu cao cổ nhằm phục vụ cho công cuộc chinh phục vũ trụ ở Mỹ lại là điều có thật. Từ năm 1985, các nhà khoa học tại Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đã chú ý đến những đặc tính qu báu của hươu cao cổ: Chúng cao từ 5 đến 6 m, có áp lực cột máu rất lớn; quả tim cực khỏe, nặng tới 11 kg, mỗi phút bơm được ít nhất 60 lít máu. Hệ cơ vòng dọc theo động mạch cổ của con vật cho phép nó đưa máu lên tận cái đầu ở tít trên cao. Tĩnh mạch của hươu cao cổ có những van đặc biệt giúp cho áp lực máu không thay đổi quá đột ngột mỗi khi con vật cúi đầu, vì những thay đổi này nếu xảy ra sẽ làm nó ngất xỉu. Chân của hươu cao cổ, nơi áp lực máu rất lớn, có một hệ thống mao mạch rất chắc giúp tránh được hiện tượng phù thũng.
Đó là những đặc tính mà các nhà du hành vũ trụ ước ao có được, bởi lẽ họ phải chịu đựng hiện tượng gia tốc trọng trường khi xuất phát và tình trạng vô trọng lực khi sống trên quỹ đạo.
Các nhà khoa học của NASA đã cho bắt 8 hươu cao cổ để nghiên cứu. Hai con được phẫu tích để xem xét cấu trúc cơ thể, đặc biệt là bộ máy tuần hoàn. Sáu con được cài đặt các ống thông vào mạch máu và đeo một máy phát tín hiệu ở cổ rồi được thả ra để theo dõi. Kết quả thu được đã giúp họ cải tiến bộ quần áo bảo vệ cho các nhà du hành vũ trụ.
113. Bệnh thấp tim
“Bệnh thấp tim nên chữa bằng Đông y hay Tây y, sau khi chữa khỏi có bị di chứng gì không?”.
Hiện nay, Tây y đã có thuốc hữu hiệu chữa bệnh thấp khớp và ngăn ngừa thấp khớp tái phát. Người bệnh cần nghiêm túc thực hiện phác đồ điều trị và trở lại tái khám đúng hẹn. Bên cạnh đó, nếu có những bài thuốc gia truyền đã qua ứng dụng nhiều đời, không gây nguy hiểm thì dùng phối hợp thêm cũng tốt.
Người bệnh thấp khớp dù đã được chữa trị vẫn phải luôn cảnh giác với nguy cơ tái phát. Nên nhớ rằng bệnh càng tái phát nhiều lần, nguy cơ đối với tim càng cao.
114. Đeo đá quý sẽ bị ung thư?
“Nhân dịp kỷ niệm đám cưới vàng, tôi định mua tặng bà xã một sợi dây chuyền mặt kim cương rất đẹp mà giá rẻ; nhưng lại nghe nói đeo đá quý sẽ có ngày bị ung thư nên tôi vẫn chưa quyết. Có thật thế không, hay đây là tin đồn thất thiệt trước việc nước ta bắt đầu khai thác đá quý?”.
Không phải tin đồn nhảm để phá hoại kinh tế đâu, nhận định “đeo đá quý có ngày bị ung thư” xuất phát từ một sự thật khoa học.
Đá quý để nguyên thì không phóng xạ, nhưng màu sắc thường không đẹp lắm. Nếu đem đá quý vào máy gia tốc hay lò phản ứng hạt nhân để bắn phá bằng hạt neutron, màu sắc của nó sẽ đẹp hơn, đa dạng hơn, bán được nhiều tiền hơn, nhưng chúng lại trở thành nguồn phóng xạ ở mức rất cao. Do vậy, người ta phải lưu giữ trong kho an toàn trên dưới 24 tháng để chúng giảm nồng độ phóng xạ, lúc bấy giờ mới đem ra bán.
Mức phóng xạ cho phép đối với đá quý lưu hành ở Mỹ là 1 nanocurie/g, ở Việt Nam và các nước khác 2 nanocurie/g.
Nếu không lưu kho (do sợ hàng tồn đọng lâu sẽ lãi ít), những viên đá quý này có mức phóng xạ tới 52 nanocurie/g, nghĩa là cao gấp 26 lần quy định của Việt Nam và gấp 52 lần quy định của Mỹ. Khi đeo liên tục hoặc tiếp xúc nhiều với những “của quý giết người” này, người ta sẽ có nguy cơ bị ung thư da, xương, máu.
Tiếc rằng vì thiếu kiến thức và ham rẻ, nhiều người đã mua dùng chúng và mang họa vào thân; và vì thiếu kiểm tra ngăn chặn, Việt Nam đã để cho bọn gian thương tuồn những của nợ này vào nội địa.
Về phần bác, nếu giàu có thì nên mua đá quý đắt tiền tại một hiệu kim hoàn đáng tin cậy. Nếu chưa giàu, bác hãy mua một tặng vật khác, đừng giây vào thứ “đá quý sát nhân” kia.
115. Nhân điện cũng là một phương pháp chữa bệnh
“Gần nhà chúng em có một điểm chữa bệnh bằng “nhân điện” khá nhộn nhịp. Thầy thuốc chữa bằng cách đặt tay lên đầu, lưng và một số điểm ở tay chân bệnh nhân. Thoạt đầu, chúng em không tin, về sau thấy không nhất thiết phải trả tiền nên đã thay nhau vào “thử” (đứa bị đau răng, đứa sưng khớp cổ tay hoặc nhức đầu…). Ngay lần đầu tiên, mấy đứa đã thấy đỡ, và sau bảy lần thì tất cả đều hết bệnh! Xin cho biết về phương pháp chữa bệnh lạ lùng này”.
Phương pháp chữa bệnh mà các em cho là lạ lùng đó đã trở nên khá quen thuộc tại một số nước. Ở Mỹ, có nhiều trường về phương pháp nhân điện. Ở nước này, nhân điện (chữa trị bằng năng lượng sinh học, Bioenergotherapy) được coi như một phương pháp bổ sung cho y học hiện đại, được pháp luật cho phép.
Nguyên tắc của phương pháp nhân điện rất đơn giản và dễ hiểu: Con người tồn tại không chỉ nhờ đồ ăn, nước uống, không khí mà còn nhờ nguồn năng lượng vô tận của vũ trụ. Năng lượng này ra vào cơ thể qua một hệ thống luân xa (Chakra, tiếng Phạn có nghĩa là “bánh xe quay”). Nếu chúng lưu thông tốt, con người sẽ khỏe mạnh, chống lại được mọi tác động; nếu việc vận hành của năng lượng bị rối loạn thì bệnh tật xảy ra. Hệ thống luân xa có tận cùng là bằng các huyệt châm cứu, cũng vô hình như bản thân nó.
Con người có thể luyện tập để năng lượng được vận hành mạnh mẽ qua cơ thể mình, chẳng những làm cho bản thân tráng kiện, không ốm đau, tự chữa được bệnh của mình và của người khác mà còn truyền được khả năng này sang một số người.
Điều đã xảy ra với các em là hệ quả của sự vận hành nói trên, chẳng phải thần bí gì hết; bước vào tuổi trưởng thành, các em có thể có sức mạnh ấy nếu biết luyện tập đúng phương pháp.

Bình luận