Sáng thứ Bảy, Anne hào hứng đến thăm ngôi nhà xinh đẹp đậm sắc màu cổ điển nằm trên một con phố xiên hẳn sang vùng nông thôn, nơi sinh sống của bà Raymond cùng hai người con sinh đôi trứ danh. Raymond đã sửa soạn sẵn sàng để rời khỏi nhà… trang phục có vẻ hơi quá sặc sỡ để dự đám tang… nhất là nếu xem xét đến cái mũ hoa vắt vẻo trên những sóng tóc màu nâu bóng mượt bồng bềnh quanh đầu bà… nhưng trông rất xinh đẹp. Hai đứa bé sinh đôi tám tuổi, được thừa hưởng vẻ đẹp từ người mẹ, đang ngồi trên cầu thang, khuôn mặt thanh nhã toát lên vẻ dịu dàng hiền lành. Cả hai đứa đều có nước da trắng hồng, đôi mắt màu xanh lam đi kèm mái tóc tơ bồng bềnh bóng mượt màu vàng nhạt.
Hai đứa mỉm cười với vẻ ngọt ngào động lòng người khi mẹ chúng giới thiệu chúng với Anne và cho biết cô Shirley tốt bụng đã đồng ý đến chăm sóc hai anh em trong lúc người mẹ đến dự lễ tang của dì Ella yêu quý, và tất nhiên bọn trẻ rất ngoan ngoãn và sẽ không gây chút xíu rắc rối gì cho cô hết, đúng không hai bé cưng?
Hai bé cưng gật đầu nghiêm trang và cố gắng hết sức để trông thánh thiện hơn bao giờ hết, dẫu rằng chuyện này có vẻ hơi bất khả thi.
Bà Raymond dẫn Anne đi cùng ra tới cổng.
“Chúng là tài sản duy nhất của chị… bây giờ,” bà nói giọng bi thương, “Có lẽ chị hơi nuông chiều chúng quá mức… chị biết mọi người đều nói thế… em có nhận thấy không, Shirley, có vẻ như lúc nào cũng vậy, những người xung quanh luôn biết rõ hơn ta nhiều đâu mới là cách tốt nhất để ta nuôi dạy con cái. Nhưng nói gì thì nói, chị vẫn luôn cho rằng yêu thương sẽ tốt hơn đánh đập, đúng vậy không, Shirley? Chị tin chắc em sẽ chẳng gặp rắc rối gì với chúng đâu. Bọn trẻ con luôn biết rõ người nào chúng có thể lợi dụng, người nào không, em có nghĩ thế không? Bà cô Prouty tội nghiệp ở phố trên ấy… một hôm chị nhờ bà ấy ở trông bọn trẻ, nhưng hai nhóc tội nghiệp không thể chịu nổi bà ấy. Vậy nên tất nhiên chúng trêu chọc bà ấy một chút… em biết thừa bọn trẻ con rồi đấy. Bà ấy đã trả thù bằng cách đi khắp thị trấn rêu rao những câu chuyện kỳ cục không để đâu cho hết về bọn chúng. Nhưng bọn chúng sẽ yêu quý em và chị biết chúng sẽ cư xử như những thiên thần. Tất nhiên, chúng rất sôi động… nhưng trẻ con thì phải thế chứ, em có nghĩ vậy không? Trẻ con mà ngoan ngoãn quá mức thì có thể không được tự nhiên lắm, phải vậy không? Đừng để bọn chúng chơi thả thuyền trong bồn tắm hay lội bì bõm trong ao nhé, được không em? Chị sợ bọn chúng sẽ cảm lạnh mất… cha bọn chúng đã chết vì viêm phổi đấy.”
Đôi mắt to màu xanh của bà Raymond dường như sắp trào lệ đến nơi, nhưng bà vẫn vui vẻ chớp mi xua tan dòng nước mắt.
“Nếu bọn chúng có chí chóe với nhau tí chút thì em cũng không cần lo đâu… bọn trẻ con lúc nào chẳng chí chóe với nhau, em có nghĩ thế không? Nhưng nếu có bất kỳ người ngoài nào tấn công chúng… than ôi!!! Chúng thật lòng tôn thờ lẫn nhau, em biết đấy. Lẽ ra chị có thể đưa một trong hai đứa đến lễ tang, nhưng bọn chúng sẽ chẳng đời nào đồng ý đâu. Từ khi mới chào đời cho tới tận bây giờ, bọn chúng chưa bao giờ xa cách nhau dù chỉ một ngày. Mà chị thì làm sao có thể trông chừng cả hai đứa sinh đôi ở lễ tang được cơ chứ, đúng vậy không nào?”
“Đừng lo, chị Raymond,” Anne thân mật nói. “Em dám chắc Gerald, Geraldine và em sẽ có một ngày vui vẻ bên nhau cho mà xem. Em yêu trẻ con mà.”
“Chị biết chứ. Ngay khi nhìn thấy em chị đã cảm thấy chắc chắn rằng em yêu trẻ con. Lúc nào người ta cũng có thể nói thế được, em có nghĩ vậy không? Có một điều gì đó toát ra từ một người yêu trẻ con. Bà cô Prouty tội nghiệp căm ghét chúng. Bà ấy tìm kiếm những điều xấu xa nhất ở bọn trẻ con và tất nhiên bà ấy tìm thấy rồi. Em không tưởng tượng được chị nhẹ nhõm đến mức nào khi nghĩ rằng các cục cưng của chị được ở dưới sự chăm sóc của một người yêu thương và thấy hiểu bọn trẻ con. Chị tin chắc hôm nay mình sẽ rất vui cho mà xem.”
“Mẹ có thể đưa chúng con đến đám tang mà,” Gerald kêu ré lên, đột nhiên thò đầu ra khỏi một ô cửa sổ trên tầng. “Bọn con chẳng bao giờ được gặp chuyện gì vui vẻ như thế.”
“ÔI, bọn trẻ đang ở phòng tắm kìa!” Bà Raymond hét lên đầy bi thương. “Shirley yêu dấu, xin em hãy lên đưa bọn chúng ra khỏi đó đi. Gerald yêu dấu, con biết rõ mẹ không thể đưa cả hai con tới đám tang được mà. Ôi, cô Shirley, nó lại lấy bộ da chó sói từ sàn phòng khách rồi quấn bộ móng quanh cổ rồi. Thằng bé sẽ làm hỏng nó cho mà xem. Xin em lôi thằng bé ra khỏi bộ da đó ngay lập tức đi. Chị phải ráo cẳng lên thôi không sẽ trễ tàu mất.”
Bà Raymond, duyên dáng lướt đi, còn Anne vội vã chạy lên tầng, chứng kiến cảnh thiên thần Geraldine đã túm lấy chân của đứa anh sinh đôi và có vẻ như đang tìm cách ném cậu bé ra ngoài cửa sổ.
“Cô Shirley, cô làm sao để Gerald đừng có lè lưỡi ra với cháu đi,” cô bé giận dữ yêu cầu.
“Như thế làm cháu đau à?” Anne mỉm cười hỏi.
“Ôi dào, anh ấy đừng hòng lè lưỡi ra với cháu nữa,” Geraldine trả miếng, ném một cái nhìn hiểm ác về phía Gerald, nhưng cậu nhóc đáp trả bằng vẻ thích thú.
“Lưỡi tao thuộc quyền sở hữu của tao và mày không thể ngăn tao thích lè lưỡi ra lúc nào thì lè… nó làm được thế không, cô Shirley?”
Anne phớt lờ câu hỏi.
“Hai nhóc sinh đôi thân mến, chỉ còn một tiếng nữa là đến giờ ăn trưa rồi. Ba cô cháu ta ra vườn ngồi chơi và kể chuyện được không nhỉ? Mà Gerald này, cháu trả bộ da sói đó lên sàn được không?”
“Nhưng cháu muốn đóng giả làm chó sói,” Gerald nói.
“Anh ấy muốn đóng giả làm chó sói,” Geraldine gào lên, đột nhiên đứng về phía thằng anh.
“Chúng cháu muốn đóng giả làm chó sói,” cả hai đứa trẻ đồng thanh kêu lên.
Một hồi chuông vang lên từ cửa trước giải thoát Anne khỏi thế tiến thoái lưỡng nan.
“Ra xem là ai đi,” Geraldine kêu to. Hai đứa trẻ phóng như bay ra đến bên cầu thang và, bằng cách trượt xuống bằng hai bên lan can cầu thang, tới được cửa ra vào trước cả Anne, trên đường đi đã khiến bộ da chó sói lỏng ra rơi xuống.
“Nhà chúng cháu không mua gì của người bán hàng rong đâu ạ,” Gerald nói với người phụ nữ đang đứng trên bậc thềm đá trước cửa ra vào.
“Cô gặp mẹ cháu được không?” vị khách hỏi.
“Không, không được đâu ạ. Mẹ cháu đến đám tang của dì Ella rồi ạ. Cô Shirley đang trông bọn cháu. Cô ấy đang ở trên tầng xuống đấy ạ. Cô ấy sẽ tống khứ cô đi cho xem.”
Anne quả thật phần nào mong muốn được “tống khứ” vị khách đi ngay khi cô nhìn ra đó là ai. Cô Pamela Drake không phải một vị khách được người dân Summerside hào hứng chào đón. Lần nào cô ta cũng “chào hàng” một thứ gì đó và thông thường chẳng ai tống khứ cô ta đi đâu được trừ phi mua thứ đó cho xong, vì cô ta miễn nhiễm tuyệt đối trước mọi sự sỉ nhục, mọi lời bóng gió và có vẻ như hết thảy thời gian trên thế giới này để muốn làm gì tùy ý.
Lần này cô ta “chào hàng” một cuốn bách khoa toàn thư… một thứ mà không giáo viên nào có thể từ bỏ cơ hội sở hữu. Anne yếu ớt phản đối rằng cô không muốn một cuốn bách khoa toàn thư… trường trung học đã có sẵn một cuốn rất hữu ích rồi.
“Lạc hậu tận mười năm rồi,” Pamela khẳng định chắc như đinh đóng cột. “Chúng ta cứ ngồi xuống băng ghế mộc này đã, cô Shirley, để tôi chỉ cho cô xem tờ quảng cáo của tôi nhé.”
“Chỉ e là tôi không có thời gian, cô Drake ạ. Tôi còn phải trông nom bọn trẻ nữa.”
“Sẽ chỉ mất vài phút thôi mà. Tôi đang tính qua thăm cô đấy, cô Shirley, và gặp được cô ở đây đúng là may mắn đích thực cho tôi. Chạy ra chỗ khác chơi đi, mấy nhóc, trong khi cô Shirley và cô liếc mắt qua tờ quảng cáo đẹp đẽ này nhé.”
“Mẹ thuê cô Shirley đến trông chúng cháu đấy chứ,” Geraldine nói, hất những lọn tóc mềm như tơ. Nhưng Gerald đã lôi tuột cô bé về phía sau và đóng sầm cửa lại.
“Cô xem này, cô Shirley, xem cuốn bách khoa toàn thư này có ý nghĩa như thế nào này. Nhìn tờ giấy đẹp đẽ này xem… sờ nó mà xem… những hình in khắc đẹp long lanh này… không cuốn bách khoa thư nào khác trên thị trường có được phân nửa số bản in khắc như vậy – một người mù cũng có thể đọc được – và toàn bộ chỉ có tám mươi đô la thôi… giảm giá tám đô la và trả góp tám đô mỗi tháng cho đến khi thanh toán xong xuôi. Cô sẽ chẳng bao giờ có thêm một cơ hội như thế này nữa đâu… chúng tôi làm thế này cốt để giới thiệu nó với mọi người thôi… sang năm tới giá sẽ là một trăm hai mươi đô la đấy.”
“Nhưng tôi không muốn một cuốn bách khoa toàn thư, cô Drake ạ,” Anne vô vọng đáp.
“Tất nhiên là cô muốn có một cuốn bách khoa toàn thư rồi… ai mà lại chẳng muốn có nó chứ… một cuốn bách khoa quốc gia đấy. Tôi không biết mình đã sống như thế nào trước khi trở nên quen thuộc với cuốn từ điển Quốc gia nữa. Sống ấy! Tôi đã không sống… tôi chỉ đơn thuần tồn tại thế thôi. Nhìn bức hình con đà điểu đầu mào của Úc này xem, cô Shirley. Cô đã bao giờ thực sự nhìn thấy một con đà điểu đầu mào chưa?”
“Nhưng, cô Drake ạ, tôi…”
“Nếu cô cảm thấy các điều khoản hơi quá khó khăn thì tôi tin chắc có thể thu xếp cho cô một thỏa thuận đặc biệt, xét trên việc cô là một giáo viên trung học… không phải tám đô mỗi tháng nữa mà chỉ sáu đô thôi. Cô không thể từ chối một đề nghị như thế này được, cô Shirley ạ.”
Anne phần nào cảm thấy mình không thể từ chối được thật. Có khi cũng đáng bỏ ra sáu đô la mỗi tháng để loại bỏ người phụ nữ kinh khủng rõ ràng đã hạ quyết tâm sẽ không bỏ đi chừng nào còn chưa bán được hàng này đấy nhỉ? Bên cạnh đó, hai đứa trẻ sinh đôi đang làm gì không biết? Chúng đang im ắng một cách quá đáng báo động. Dễ chừng bọn chúng đang thả thuyền trong bồn tắm lắm đấy. Hay chuồn ra ngoài qua lối cửa sau và lội bị bõm trong ao rồi cũng không chừng.
Anne khổ sở cố gắng thoát thêm lần nữa.
“Tôi sẽ suy nghĩ cặn kẽ về chuyện này, cô Drake ạ, và sẽ cho cô biết…”
“Chẳng lúc nào hơn lúc này đâu,” cô Drake vừa nói vừa nhanh nhẹn lôi cây bút máy ra. “Cô biết thừa rồi cô cũng sẽ mua cuốn Bách khoa thư Quốc gia thôi, vậy nên ký lúc này hay lúc khác thì cũng như nhau cả thôi mà. Trì hoãn mọi việc cũng nào có ích lợi gì đâu chứ. Giá cả còn có thể tăng lên bất cứ lúc nào và đến khi đó, có khi cô phải trả một trăm hai mươi đô la đấy. Ký vào đây này, cô Shirley.”
Anne cảm thấy cây bút máy đang được ấn vào tay mình… chần chừ thêm một lúc… và rồi cô Drake ré lên một tiếng thất kinh bát đảm khiến Anne đánh rơi cây bút máy xuống khóm mộc lan vàng bên hông ghế mộc và ngạc nhiên choáng váng đến độ cứ trừng trừng nhìn người đang ở cạnh mình.
Kia có phải cô Drake không vậy… cái sinh vật chẳng biết dùng lời lẽ nào diễn tả kia, không mũ, không kính và gần như tóc trụi thùi lùi? Chiếc mũ, cặp kính và phần mái tóc giả đang trôi bồng bềnh trong không trung, cách đều đỉnh đầu cô ta và cửa sổ phòng tắm, nơi hai mái đầu tóc vàng óng đang thò hẳn ra ngoài. Gerald đang túm chặt một cái cần câu buộc hai sợi dây thừng, cuối mỗi sợi dây lúc lỉu một cái móc câu. Nhưng chỉ cậu mới nói được cậu đã dùng trò ảo thuật nào để có thể một mũi tên trúng cả ba con chim như thế. Có lẽ là một may mắn độc nhất vô nhị.
Anne phóng như bay vào nhà và lao lên tâng trên. Đến lúc cô tới được phòng tắm thì hai nhóc sinh đôi đã trốn biệt đi mất. Gerald đã ném sợi dây câu đi, và chỉ cần liếc qua của sổ là có thể nhìn thấy cô Drake đang tức giận đùng đùng thu nhặt đồ đạc của mình, kể cả cây bút máy, và hùng dũng tiến về phía cổng. Lần đầu tiên trong đời, cô Pamela Drake đã không thể chào hàng thành công.
Anne phát hiện ra hai đứa nhóc sinh đôi đang nhồm nhoàm ăn táo nơi hiên sau. Thật chẳng biết nên làm gì bây giờ nữa. Rõ ràng không thể nhắm mắt làm ngơ trước cách cư xử như thế… nhưng hiển nhiên Gerald đã giải thoát cô khỏi tình thế khó xử, còn cô Drake đúng là một kẻ đáng ghét cần phải được dạy cho một bài học. Dẫu vậy…
“Em vừa xơi phải một con sâu bự chảng kìa!” Gerald kêu ré lên. “Anh vừa nhìn thấy nó trôi mất tiêu xuống dưới cổ họng em.”
Geraldine bỏ quả táo xuống và ngay lập tức trở nên muốn nôn mửa… rất muốn nôn mửa. Anne mất một lúc bận rộn chẳng ngơi tay. Đến khi Geraldine thấy khỏe hơn thì đã tới giờ ăn trưa, và Anne đột ngột quyết định sẽ bỏ qua cho Gerald, chỉ khiển trách một cách nhẹ nhàng. Có lẽ vì chính lợi ích của bản thân mà cô Drake sẽ cẩn thận giữ mồm giữ miệng về tai nạn này, nên xét cho cùng, sẽ chẳng có tổn hại lâu dài nào.
“Gerald này, cháu có cho rằng hành động của cháu là hành động của một quý ông không đấy?” cô nhẹ nhàng hỏi.
“Không ạ,” Gerald nói, “nhưng vui mà cô. Trời, cháu câu cá hết sảy phải không cô?”
Bữa trưa thật tuyệt vời. Bà Raymond đã chuẩn bị bữa trưa xong xuôi trước khi đi và cho dù bà có thiếu ý thức thi hành kỷ luật trên bất kỳ phương diện nào đi chăng nữa thì bà vẫn là một đầu bếp giỏi. Mải mê chén hết món này đến món kia, Gerald và Geraldine chẳng buồn chành chọe gì với nhau, và ngay cả thái độ bên bàn ăn của hai cô cậu cũng chẳng đáng chê trách hơn những trò bình thường của đám trẻ con. Sau bữa trưa, Anne rửa bát, kéo cả Geraldine hỗ trợ lau khô còn Gerald thì cẩn thận cất bát đĩa vào trong chạn. Cả hai anh em đều xử lý công việc khá khéo léo, khiến Anne không khỏi hài lòng ngẫm ngợi rằng hai nhóc sinh đôi chẳng cần gì ngoài sự dạy dỗ khôn ngoan và một chút kiên quyết.