Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ! Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Bánh Mì Thơm, Cà Phê Đắng

Chương 7: Xúc xích nướng , yaourt mật ong và hơn nữa….

Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên

Mới đây, một chị bạn tôi hỏi “Nghe nói ở Anh ăn dở mà khổ lắm phải không em? Bạn chị kể qua đó thấy có mấy đứa sinh viên ngày nào cũng gặm bánh sandwich trên bãi cỏ trường đại học vào giờ trưa, nhìn cô đơn lắm”.

Của đáng tội, món ăn Anh cũng không đến nỗi dở như người ta thường đồn đại, một phần cũng vì vật giá đắt đỏ quá, cũng chừng đó tiền qua Pháp hay Ý tha hồ ăn uống phủ phê còn ở Anh chỉ ăn được lát pizza hay cái sandwich thôi.

Những ngày đi học ở Anh, sáng sáng tôi cho bánh làm sẵn mua ở siêu thị (không chút “khởi sắc” về mặt mùi vị ẩm thực) vào nấu trong lò viba, thêm trái chuối- có khi thay bằng trái cam, mận vàng, chùm dâu hay trái đào- và chai nước, rồi buổi trưa sau giờ học ngồi dựa vào gốc cây trong khuôn viên trường mà ăn chung với đám bạn.

Sau khi hoàn tất bằng cao học căng thẳng, tôi hớn hở tuyên bố “Đã tới giờ của Lọ Lem”, rồi một tuần lễ sau bắt đầu chuyến chu du ẩm thực xuyên Châu Âu để ăn uống cho bõ những ngày cực khổ.

Stockholm

Du khách trước khi đến Thụy Điển đều vẽ ra trong đầu hình ảnh những người cao lớn tóc vàng mắt xanh, ngồi trong nhà hàng trang trí bằng đồ nội thất của IKEA trong tiếng nhạc ABBA, trò chuyện bằng điện thoại Sony Ericsson và chỉ ăn ba món thịt băm viên, cá trích ngâm dấm và khoai tây luộc. Nhưng đó chỉ là những khuôn mẫu người ta thường đồn đại vì quả sai lầm khi nghĩ rằng món ăn của đất nước lớn nhất vùng Scandinavia này đơn điệu và thiếu phong cách riêng.

Tôi được ăn tô súp ngon nhất Châu Âu trong chợ Ostermalmhallen, một khu chợ lớn có mái vòm ở Stockholm, bán đầy những thức ăn địa phương mới nấu.

Hành trình tìm đến chợ này rất “gian truân” vì cả tôi và ông bạn người Anh Alastair đi cùng đều dở xác định phương hướng, đi lòng vòng một hồi bị lạc tới nhà hát thành phố, bên trong có nhà hàng Operakällaren được xem là nơi xa xỉ vào bậc nhất Thụy Điển.

Chúng tôi ngồi nghỉ chân trên ghế bên ngoài, bụng đói meo, và vì đã quyết tâm ăn bằng được món súp hải sản ở chợ mà một tờ báo ở Anh đã giới thiệu nên bây giờ có ăn ngọc ăn vàng, ăn trứng cá caviar hay nem công chả phượng cũng không ngon.

Cuối cùng chúng tôi cũng lò dò đến được khu chợ như mong mỏi. Đến nơi đúng giờ cơm trưa, dân văn phòng túa ra ăn nhiều như nấm, đứng trước chúng tôi là vài chục người mặc đồ vét lịch sự đang kiên nhẫn xếp hàng. Hải sản là món ăn chính ở vùng Scandinavia- nơi cung cấp hải sản lớn nhất Châu Âu- nên tô súp của tôi rất “thịnh soạn”, hơi giống súp bouillabasse của Pháp nhưng ngon hơn nhiều so với món súp ở Paris tôi từng ăn, có lẽ một phần khi chờ tới lượt tôi đã đói gần xỉu. Tô súp đầy những sớ cá biển Baltic được gỡ thịt trắng phau ngon dai, tôm bóc vỏ đỏ au chắc nịch, mực giòn sần sật, thỉnh thoảng lại lẫn vào những con hàu tươi rói núc ních thịt mọng nước. Nước súp được làm toàn bằng hải sản nguyên chất, thêm cà chua bằm nhuyễn đỏ au nên ngon đậm đà, trên lại phủ một lớp kem tươi mỏng làm tăng thêm vị béo ngầy ngậy. Còn bánh mì ở đây làm bằng lúa mạch (nên chắc phải gọi là bánh mạch chăng?) không biết nướng lúc nào mà giòn tan, phết bơ lên trên ăn kèm súp không gì bằng. Xung quanh tôi, dân văn phòng cũng đang xì xụp húp món đặc sản này trên những chiếc bàn trải khăn kẻ carô. Cạnh tôi, Alastair ăn món lutefisk truyền thống Thụy Điển, trên đĩa là khoanh cá tuyết lớn phủ sốt trắng đặc như kem, ăn kèm khoai tây nghiền và thịt băm viên. Trước khi nấu, cá tuyết được ngâm nước lạnh từ năm đến sáu ngày, sau đó nhúng vào dung dịch nước hòa tro từ cây linh sam (đúng là “phú quý sinh lễ nghĩa”) trong vòng hai ngày để miếng cá phồng lên lớn gấp rưỡi ban đầu, sau đó ngâm nước lạnh thêm hai ngày nữa trước khi nấu bằng cách hấp rồi bỏ lò.

Được ăn ngon, chúng tôi tươi tỉnh trở lại và đi dạo một vòng quanh khu chợ, nơi có nhiều quầy bán rau quả tươi

Bắc Âu: việt quất mọng nước, quả lý chua, dâu tươi đỏ thắm, bắp cải tím xanh xếp thành lớp đẹp như những bông hoa khổng lồ…, và đặc biệt nhất là nấm vàng Scandinavia.

Những tai nấm mỡ màng, hơi giống nấm mối nhưng màu vàng mướt trông mập mạp ngon lành không thể tả, dễ làm ta tưởng tượng tới những khu rừng cổ tích có nấm mọc dưới gốc cây sồi già, nơi những cô bé mặc áo đầm hoa xinh xắn rủ nhau đi hái nấm đựng trong lẵng đan bằng cây liễu.

Ngày cuối cùng, sau một buổi đi bộ mỏi chân quanh khu phố cổ Gamla Stan muôn màu, chúng tôi ghé vào Chokladkoppen (tiếng Thụy Điển nghĩa là “cốc sôcôla”), quán nhỏ trong tòa nhà xưa Stockholm sơn màu vàng cam, những ô cửa sổ vuông vắn và đầu hồi uốn lượn.

Bắc Âu lạnh hơn nhiều so với những nước khác nên chúng tôi không ngồi ngoài quảng trường Stortorget mà vào trong căn phòng nhỏ bé và ấm cúng, sực nức mùi bánh quy bơ mới nướng và hạt cà phê rang. Bên trong có cả một bếp nhỏ bày những tô đựng đầy cam chín cây, trên bàn khách là những đế đựng nến bao bọc lớp sáp nến dày từ những lần thắp trước. Chúng tôi uống sôcôla nóng trong những cốc dày, nhấm nháp semlor, loại bánh có từ thế kỷ 16 tròn múp míp làm bằng bột mì pha hương bạch đậu khấu, chính giữa xẻ ra nhét bơ hạnh nhân và lớp kem tươi dày, mịn màng béo ngậy, trên rắc lớp đường vani li ti. Bánh ăn theo kiểu truyền thống sẽ để trong một đĩa sữa tươi còn âm ấm ăn cùng, nhưng tôi ăn không kèm sữa để thưởng thức được vị ngon rất riêng. Dù bánh rất ngon, tôi cũng không dám ăn nhiều vì vừa mới đọc được câu chuyện về vua Thụy Điển Adolf Fredrik chết năm 1771 sau khi ăn quá nhiều semlor cuối bữa dạ tiệc linh đình.

Tôi chia tay một tuần lễ giá lạnh trên bán đảo Scandinavia để về với nắng Địa Trung Hải bằng chuyến bay Thụy Điển- Hi Lạp trên chuyến bay của hãng hàng không có cái tên khá ngộ: Bông tuyết (Snowflake) *.

Ẩm thực của “quê hương thần thoại, thuở hồng hoang đã thấy, đã xanh ngời liêu trai” cũng khác hẳn Thụy Điển như chính khí hậu hai vùng ở hai đầu Châu Âu này.

Bạn tôi đón tôi từ sân bay và chở thẳng đến trung tâm Athens, vào một hàng bán souvlaki để bếp bên ngoài, thịt nướng xèo xèo tỏa mùi thơm khó cầm lòng được. Souvlaki gồm thịt heo hoặc thịt gà, tuần tự một miếng nạc một miếng mỡ xắt quân cờ, xiên que nướng trên than hồng rực, khi ăn kẹp trong bánh pita (bánh mì ổ dẹp Hi Lạp, nay đã thành món bánh đại chúng trên khắp thế giới) chung với rau ngâm dấm. Hãy tạm quên cholesterol khi bạn đang ăn món này, cứ thưởng thức “đã đời” món thịt nướng ướp cỏ xạ hương và bia, thoảng mùi khói như níu bước chân rồi chịu khó về tập thể dục vậy! Nếu không muốn ăn với bánh pita, có thể xiên thịt xen kẽ với các loại củ quả trước khi nướng, rồi chấm với xốt tzatziki làm từ yaourt, dưa leo xay nhuyễn và nước ép tỏi.

Trên khắp Hi Lạp đâu đâu cũng thấy những quầy bán souvlaki thơm phưng phức kiểu này,

chả trách người Hi Lạp phần đông “tròn trịa” hơn những người láng giềng Châu Âu khác.

Hi Lạp

Tôi ở Hi Lạp hai tuần với gia đình bạn trên đảo Evia, một kỳ nghỉ mát “chân chính” sau những giờ làm luận văn căng thẳng. Ở đây, tôi học cách làm món rau trộn kiểu Hi Lạp, với dưa leo và hành tây tím xắt khoanh trộn dầu ôliu extra virgin địa phương, rưới vài trái ôliu đúng nghĩa nhà trồng được, hái từ khoảng sân sau nhà, thêm những miếng vuông phô mai feta nhìn hơi giống miếng đậu phụ nhưng mùi thơm nồng.

Tôi cũng học cách làm món ăn truyền thống moussaka (đặc trưng như phở với người Việt vậy) gồm những lớp cà tím thái lát, thịt bò bằm nhuyễn, hành, bơ, trứng, sữa, phô mai và gia vị đem bỏ lò, khi ăn mềm và dai khá giống món lasagna thịt bằm của Ý.

Ẩm thực Hi Lạp không thanh cảnh, tinh tế như những nước khác mà rất thịnh soạn, thường những bữa ăn tối luôn kèm theo pilafi, món gạo nấu bông lên ninh nhỏ lửa với bơ, gia vị và nước luộc gà; và không thể thiếu chai bia tươi Mythos (nghĩa là “thần thoại” trong tiếng địa phương, tiếng Anh myth cũng bắt nguồn từ tiếng Hi lạp) làm ta chếnh choáng trong khi chén đẫy những món ngon lành. yaourt mật ong Hi Lạp

Còn món tráng miệng, ôi tôi chết mê chết mệt món tráng miệng “quốc túy” Hi Lạp với yaourt ăn kèm mật ong. Yaourt ở đây không ngọt, được làm từ sữa cừu nguyên chất không qua chế biến, đặc và dẻo quánh như kem trong miệng, rưới mật ong mới mua ở chợ về trong hũ còn nguyên tổ ong sáp. Tôi sáng chế thêm cách cho miếng nhỏ tổ ong vào ăn kèm, ngon lịm người. Sau này về Việt Nam, tôi cũng có dịp ăn lại món yaourt mật ong kiểu này trong một quán ăn ở Sa Pa sương mù cũng ngon không kém, có điều tổ ong kiếm đỏ mắt không ra nên đành rưới mật ăn tạm vậy.

Mật ong là đặc sản Hi Lạp từ những cánh rừng Địa Trung Hải ấm áp nên ở đây có nhiều món tráng miệng khác từ mật ong. Trong đó phải kể tới món loukoumades có từ thời Hi Lạp cổ đại- được trao tặng cho những vận động viên giành chiến thắng tại các cuộc thi đấu cách đây vài ngàn năm- món bánh nhẹ như lông hồng theo đúng nghĩa đen được chiên ngập trong dầu ô liu cho tới khi ngả màu vàng nâu rồi vớt ra nhúng vào mật ong sôi lục bục.

Đức

Tôi rời Hi Lạp nặng thêm ít nhất 2kg so với lúc đến, nhưng thở dài nghĩ bụng chắc không tài nào ăn kiêng nổi khi qua Đức, lại đúng Munich, vốn ăn uống linh đình hơn những vùng khác ở đất nước xứ Alps này.

Quả vậy, bữa ăn tối đầu tiên của tôi là một thiên đường protein với thịt heo quay da giòn tan vàng ruộm, ăn kèm bắp cải bào sợi muối chua đặc trưng Đức và bánh knodel làm từ khoai tây và vỏ bánh mì nghiền, khá giống dim sum của Hong Kong nhưng lớn hơn nhiều, tròn quay và vàng nhạt, kèm vại bia tươi mát lạnh nổi tiếng thế giới.

Tôi có đọc đâu đó câu nói dân Munich bào chữa cho việc ăn nhiều và uống bia như hũ chìm của mình: Ăn nhiều khát nước phải uống, uống xong rồi… đói bụng phải ăn.

Vì vậy, hôm sau lúc đang rảo bước trên một đoạn đường nhỏ gần nhà ga trung tâm, bắt gặp một nhà hàng Thái nhỏ xinh có cô gái da ngăm đen đứng đảo mì trong chảo, tôi quyết định “phá lệ” vào ăn món Thái. (Trước đây tôi luôn tâm niệm đi tới đâu phải ăn món đặc sản địa phương nước đó nhưng lúc này tôi đang cần những thứ thanh đạm để bù lại bữa tối béo ngậy hôm qua). Trong khi húp tom yam, tôi giật mình nghe tiếng hát Quang Linh vang lên trong chiếc loa gần chỗ tôi ngồi. Nhìn quanh quất, tôi nhận ra trên tường treo bức tranh Việt Nam hình mẹ đang nằm võng cho con bú, còn sau lưng tôi, anh chàng phục vụ và cô gái da ngăm đen đứng đảo mì lúc nãy đang trò chuyện bằng tiếng Sài Gòn chính hiệu mà nãy giờ tôi không để ý.

Tôi hỏi bằng tiếng Việt “Ủa, quán này của người Việt hả?”, cả hai quay lại nhìn tôi, mắt tròn mắt dẹt. Thì ra nãy giờ họ tưởng tôi là người Thái.

Cả hai lại bàn bắt chuyện với tôi, rồi hỏi “Có phải bạn ở Anh qua du lịch?”, tôi phục sát đất, hỏi lại “Sao biết hay vậy?”. Anh chàng nọ chỉ vào những chiếc túi đựng xúc xích và thịt xông khói nặng trĩu tôi mới đi mua sắm từ chợ Virtualienmarkt về đặt cạnh bên: “Chỉ có dân ở Anh qua mới xài sang vậy thôi. Munchen là mắc nhất Đức rồi đó, đồ ở chợ này toàn là đồ tươi, “chất lượng”, bình thường tụi này toàn ăn đồ siêu thị cho rẻ không hà”.

A, một khám phá khá ngộ đó chứ! Hai người bạn mới quen đãi đồng hương là tôi một ly bia vàng óng đặc sản Munich to “vật vã” ăn kèm với đồ ăn Thái của…Việt kiều Đức, vậy là đi tong dự định ăn uống thanh đạm.

Xúc xích Munich

Tôi còn quay lại ủng hộ nhà hàng Thái này một lần nữa, trước khi bắt đầu hành trình khám phá các loại xúc xích Đức nổi tiếng thế giới. Có vẻ như đó là một dự định khá “tham vọng”, vì Đức có hơn 1.500 chủng loại xúc xích khác nhau, mỗi loại một vẻ. Do đó tôi dừng chân lại với lựa chọn kinh điển- xúc xích trắng Weiswurste, được mệnh danh là “nữ hoàng xúc xích xứ Bavaria”, bọc một lớp ruột non mỏng bên ngoài, nướng lửa than chấm tương mustard cay nồng ăn kèm bánh xoắn Pretzel to gần bằng đầu người.

Cầm lòng không được, dù no tôi vẫn gọi thêm một góc lớn đặc sản Blackforest gateau: bánh sôcôla xốp phủ kem dày, trên rải những trái anh đào tươi chín mọng, làm món tráng miệng.

Sau bữa tối ăn tối cuối cùng ở Đức ấy, tôi đi dạo một vòng quanh thành phố hít thở không khí mát dịu, chợt nghe tiếng hát Chris Martin của ban nhạc Coldplay vang lên từ ngôi nhà trong một con phố nhỏ khuất nẻo:

In my place, in my place

Were lines that I couldn”t change

I was lost, oh yeah

I was lost, I was lost

Crossed lines I shouldn”t have crossed

I was lost, oh yeah

Tôi đứng tựa vào bức tường đá bên ngoài ngôi nhà nọ, tự nhiên muốn ứa nước mắt. Lạy trời, lúc đó tôi mới nhận ra “Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt, nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà”. Đất nước xa xôi vùng núi xứ Alps này không có tiếng cơm sôi, nhưng bài “In my place” (Ở nơi chốn của tôi) vẳng ra từ căn nhà nhỏ có lò sưởi ấm áp kia làm tôi chợt nhận ra tôi muốn về nhà quá. Đã khá lâu tôi không được ăn đồ mẹ nấu, bảy tháng gần đây lại không ăn hột cơm nào…

Tôi ra tiệm Inte et gửi mail cho mẹ: “Ngày mai con về Anh lại để chuẩn bị đồ đạc. Tuần sau con về Việt Nam với mẹ luôn”…

Bình luận