Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Trong giá lạnh

Charlie chạy ù một mạch đến cuối đường, rồi tông thẳng vô một cánh cửa ở cuối hành lang, suýt nữa thì húc ngã Fidelio.

“Em quên gõ cửa,” Fidelio cáu kỉnh. “Có người đang theo dõi.”

“Ai vậy?” Charlie trông thấy Billy Raven biến mất vô phòng để áo khoác.

“Ồ không,” nó rên rỉ. “Lại là nó.”

Đúng lúc đó, Manfred và Asa hiện ra ở cuối tiền sảnh. Trông dáng bộ Manfred hằm hằm. Ngay khi thấy hai thằng bé, nó nạt nộ:

“Đi ra! Đi ra! Tại sao chúng mày không ở ngoài kia, hả?”

“Trời… ờ… ờ… ướt,” Charlie lắp bắp.

“Ướt cái gì mà ướt? Tất nhiên là ướt rồi. Chúng mày sợ tuyết à?”

“Tụi em không kiếm ra ủng,” Fidelio nói lẹ.

“Thế thì lấy giày mày ra!” Manfred sủa.

“Nhưng… ,” Charlie bắt đầu.

“Giày chúng mày cũng ướt chứ gì. Hay là sao? Vậy chúng mày mới học được thế nào là mất ủng.”

Manfred đã để mình rơi vô trạng thái mất bình tĩnh cực độ. Gương mặt xanh xao thường nhật của nó giờ đã chuyển thành tím tái.

Charlie và Fidelio líu ríu đi ra vườn, không hó hé một lời.

“Phùu. Anh cá tất cả là tại Olivia,” Fidelio nói.

“Em hy vọng Olivia không bị cấm túc,” Charlie rầu rầu. “À, Henry không có ở tháp. Bây giờ em không biết phải làm gì nữa.”

“Tụi mình sẽ kiếm được cậu ấy,” Fidelio nói một cách tự tin. “Nhưng tụi mình phải kiếm ra trước Manfred. Trong tháp có gì mà em sợ dữ vậy? Trông em cứ như gặp ma ấy.”

“Em nghĩ chắc em gặp ma thật,” Charlie nói. “Kinh khủng. Đen thui mà lại lều bều.”

“A, thiếu phụ bóng tối,” Fidelio bảo. “Gabriel có kể cho anh nghe về bà này. Bà hay luẩn quẩn quanh tháp nhạc. Anh nghĩ bà ấy thích nghe thầy Pilgrim chơi đàn piano.”

Vài phút sau, Olivia nhập bọn với tụi nó trong vườn.

“Chào các đằng ấy, tốt đẹp chớ?” Nó hỏi.

“Quá tuyệt,” Charlie khen. “Chắc bồ cầm chân hai thằng ít nhất cũng được mười phút.”

“Làm sao em làm được vậy?” Fidelio hỏi.

Olivia kể lại tai nạn đánh rơi khay đồ ăn của nó.

“Nhưng giờ tớ bị cấm túc rồi,” nó nói. “Cho nên tớ sẽ không được về nhà cho tới tận tối thứ bảy.”

Mặt Charlie xị xuống.

“Mình xin lỗi. Lẽ ra mình phải tính tới vụ này.”

“Ồ, nhằm gì,” Olivia bảo. “Tớ sẽ đi thám thính đôi chút, miễn là có ai đó cùng bị cấm túc chung với tớ. Tớ không thích ở lại một mình.”

“Ô.” Charlie càng thấy áy náy hơn. Nó nói:

“Ồ, đừng giận nhé, bây giờ mình mắc công chuyện.”

“Dĩ nhiên rồi. Ông anh họ Henry,” Olivia vui vẻ. “Tớ hiểu mà. Tớ cũng biết Fido sắp phải học nhạc hay gì gì đó mà.”

“À, vì em nhắc cho nên… ,” Fidelio ngắc ngứ.

“Có sao đâu nào! Đừng có làm mặt áy náy vậy chớ, cả hai ông. Để tớ thử thuyết phục Emma Tolly coi.”

Olivia nhảy loi choi trong đôi ủng tím và tiến về phía Emma, đang vừa đi dạo, vừa chúi mũi vô một cuốn sách.

Hai thằng bé dành hết giờ giải lao còn lại đi tới lui trên những phiến đá bên ngoài cánh cửa ra vườn. Trời đã ấm hơn khoảng năm, sáu độ, và giờ tuyết đang biến thành một thứ nước bùn loãng. Chiếc giày bên trái của Charlie bị lủng, thấm nước.

Trước khi hồi còi rúc lên báo hiệu hết giờ giải lao, Olivia lại chỗ tụi nó, vẻ buồn so.

“Đoán coi cái gì nào,” nó noí. “Emma Tolly không muốn để bà dì lại một mình vào cuối tuần. Tớ hỏi mấy người: tớ đã giúp nó thoát khỏi cái gia đình lạnh lẽo kinh tởm kia, mà giờ nó thậm chí không dành được thêm vài giờ ở cùng với tớ.”

“Vậy thì mình sẽ cố gắng để bị cấm túc,” Charlie nói. “Để Henry đợi thêm một chút cũng được.”

“Không, cậu ấy không đợi được đâu,” Olivia phản đối. “Mấy người phải đưa cậu ấy ra khỏi đây càng nhanh càng tốt. Thôi được. Bindi sẽ ở lại với tớ.”

Rồi nó lắc đầu:

“Tớ không biết cái gì ám Emma. Dạo này nó hay giữ kẽ lắm.”

“Trước đây bạn ấy chưa bao giờ có một gia đình thật sự,” Charlie nói. “Mình nghĩ bạn ấy muốn được ở với gia đình cành nhiều càng tốt.”

“Hừ,” Olivia thong dong bước đi khỏi.

Khi hai đứa đi vô lớp học lịch sử, Fidelio nói:

“Charlie à, anh nghĩ tốt nay em phải thực hiện điệp vụ giải cứu thôi. Hôm nay không còn dịp nào khác đâu.”

Charlie nhất trí. Nhưng nó không biết phải bắt đầu kiếm Henry ở đâu.

“Thử vô mấy nhá bếp coi,” Fidelio đề nghị. “Giờ này chắc cậu ấy cũng đã đói rã rồi.”

Đêm ấy, Charlie nằm trên giường, cố nhớ lại tất cả những cầu thang và hành lang có lối dẫn tới các nhà bếp. Nó biết là có ba nhà bếp, nằm ở phía sau mỗi căn-tin. Chúng thông với nhau bằng những cánh cửa khép hờ, cho nên nó có thể lẻn vô cả ba một khi nó tìm được đường đến nhà bếp đầu tiên.

“Anh có nghĩ là bà bếp trưởng vẫn còn ở trong bếp không?” Nó thì thào hỏi Fidelio.

“Sau nửa đêm thì không,” Fidelio đáp khẽ.

“Im đi, chúng mày,” đó là Damian Smerk.

“Mày im thì có,” Fidelio quạc lại, ném một chiếc giày ướt về phía Damian.

Quả là một cú nhắm thiện xạ. Chiếc giày sượt qua má Damian.

“Tao sẽ thịt mày, Fidelio Gunn, đợi đấy!” Damian rít lên.

“Xin mời,” Fidelio nói. “Hẹn gặp mày bên cánh cửa ra vườn, ngay sau giờ ăn sáng.”

Damian khụt khịt rồi kéo chăn trùm kín đầu. Nó rất sợ bạo lực, nhưng lại hay đưa ra những lời hăm he ngu ngốc đòi làm thịt người này người kia, rồi sau đó giả đò bị thương ở tay hay ở chân để lấy cớ khỏi phải đánh nhau.

Charlie đang định nói thì cánh cửa mở tung và đèn bật sáng.

“Đứa nào nói chuyện?” Bà giám thị đứng ngay ngưỡng cửa.

Không đứa nào trả lời.

“Khai mau!” Bà quát.

“Tụi con,” Charlie nói.

Bà cô của Charlie ngoảy cái mũi dài về hướng nó.

“Hả? Mày thú nhận đó à?”

“Cả hai đứa con,” Fidelio đáp.

Bà giám thị ngó nghiêng khắp căn phòng, vẻ không hài lòng.

“Nếu ta mà phải vô đây lần nữa thì tất cả tụi bay sẽ bị cấm túc,” bà doạ.

“Trừ con,” Billy lên tiếng.

Không thèm đếm xỉa gì tới Billy, bà Lucretia Yeabeam bước ra ngoài, đóng cửa đánh rầm một cái.

“Sắp tới giờ rồi,” Fidelio xì xào để không ai ngoài Charlie có thể nghe được. “Em có muốn anh đi cùng em tối nay không?”

“Không,” Charlie thì thào lại. “Một trong hai đứa mình đi thì tốt hơn, dù sao cũng cám ơn anh.”

“Chúc may mắn!” Fidelio lật mình lại và giây sau đã ngủ say sưa.

Mãi sau, Charlie vẫn nằm, mở mắt thao láo, cố chống lại cơn buồn ngủ. Đến lúc cưỡng không nổi, nó bèn tung chăn ra. Thế là, nó lạnh quá không sao ngủ được nữa.

Nó chờ cho đến khi nghe chuông đổ mười hai tiếng, và sau đó, trong nỗi sờ sợ pha lẫn phấn khích, nó vội vàng khoác áo choàng tắm vô, mang dép lê và lỉnh ra khỏi phòng ngủ chung.

“Phải, rồi trái, rồi đi xuống mấy cầu thang,” Charlie lẩm bẩm một mình.

Luồng sáng từ chiếc đền pin yếu đến nỗi nó không nhìn xa hơn được bàn chân mình. Ngay lúc vừa mò được đường qua khỏi hai cầu thang, nó nhận ra mình đã bị lạc, hay đúng hơn là rơi vào một chốn mà nó không nhận ra. Trong bóng đêm, mọi thứ trông thật khác.

Đánh liều, Charlie tiếp tục nhích thêm vài mét nữa cho đến khi nó tới một dãy cầu thang khác. Nó vừa đi xuống hai bậc, thì một vật gì đó bập vô đầu gối nó, tống nó nhào xuống sàn.

“Ui! Ui da!” Charlie nén tiếng rên rỉ.

Không bị gãy chiếc xương nào cả, nhưng nó cảm thấy ê ẩm.

“Không quay lại được rồi,” nó thều thào.

Ráng cất mình lên, nó quẹo vô một góc và thấy mình đang đứng ở một chiếu nghỉ phía trên tiền sảnh. Đèn tại đây để sáng suốt đêm. Với một tiếng “hự” nhẹ nhõm, Charlie chạy xuống cầu thang và tiếp tục lối đi dài dẫn đến các căn-tin.

Vừa đi vừa té nhào vô đống bàn ghế, Charlie băng qua căn-tin xanh da trời, vô nhà bếp. Ở đây, những cái giá phủ đầy chảo với nồi choán hết đường đi. Những máy móc nhô ra thành những góc quẹo kỳ quái. Những cây lau nhà và xô thùng được giấu bên hông đám tủ để chén dĩa. Bỗng một cái chảo bự rơi đánh xoảng xuống sàn nhà khi Charlie đang mò mẫm dọc theo một hàng kệ. Nó cứng cả người mất một giây, rồi nhận thấy một tia sáng yếu ớt phát ra từ tấm kính đóng băng trên đầu cánh cửa đằng sau. Rất thận trọng, Charlie mở cửa ra.

Nó nhìn vô một căn phòng nhỏ, với bốn bức tường xếp đầy những tủ lạnh với tủ đông. Henry Yewbeam đang đứng trước các tủ cao nhất.

“Henry”, Charlie gọi khẽ. “Anh làm gì ở đây vậy?”

“Chào, Charlie,” Henry reo lên. “Vui quá, gặp lại cậu rồi.”

“Ở đây lạnh khiếp,” Charlie vừa nói vừa đánh hai hàm răng lập bập.

“Tôi biết,” Henry mỉm cười vẻ bí hiểm. “Đúng như tôi muốn.”

“Anh nói cái gì vậy? Ra khỏi đây đi anh. Không tụi mình chết cóng cả hai bây giờ.

“Tôi không muốn chết,” Henry nói rành rọt. “Nhưng tôi nghĩ tôi sẽ chết nếu không được về nhà.”

Nói rồi cậu bước ra khỏi căn phòng đông lạnh và đóng cửa lại.

Charlie nhẹ cả người. Trong bếp ấm hơn, và nó thấy dễ suy nghĩ hơn. Nó nhảy phóc lên ngồi trên bệ bếp, Henry cũng búng lên ngồi cạnh nó.

“Giờ ăn trưa em có đi kiếm anh,” Charlie nói. “Em lén mang thức ăn lên tháp nhạc, lúc đó anh đi đâu?”

“Có một bà nhỏ nhăn, mặc toàn đồ đen. Bà ấy dẫn tôi đến phòng. Ban đầu tôi có hơi sợ, nhưng bà ấy đưa cho tôi một tách trà và ít kẹo.

Henry chìa ra một viên kẹo gói giấy bạc.

“Ăn một cái đi! Bà ấy cho tôi cả nắm”

Charlie cầm viên kẹo. Đó là kẹo sô-cô-la nhân dâu, một trong những món khoái khẩu của nó.

“Ngon quá! Nó nói. “Lúc nãy em có đụng phải bà ấy đó. Bà ấy là một con ma.”

Henry lắc đầu. “Không phải ma đâu. Bà ấy từng chơi vĩ cầm, nhưng bây giờ bàn tay trái của bà không cử động được, làm bà ấy buồn, buồn ghê lắm. Nói là bà ấy than khóc vì mấy ngón tay cũng đúng.”

Henry có cách nhìn nhận sự việc rất lạ lùng. Charlie nổi chí tò mò.

“Bà ấy là ai thế?”

“Tôi không thích hỏi. Mẹ tôi bảo rằng tọc mạch là thô lỗ, là bất lịch sự. Bà áo đen bảo tôi hãy đến nhà bếp vào ban đêm. Cho nên tôi đến đây. Nhưng mà, Charlie này,” gương mặt Henry sáng bừng lên. “Tôi vừa khám phá được một thứ rất tuyệt vời.”

“Cái gì vậy?”

“Ở trong đó đó,” Henry chỉ căn phòng lạnh, “một cái tủ đầy băng.”

“Tủ đông,” Charlie nói.

“Tủ đông?” Henry lặp lại. “Ừm, tôi chưa bao giờ biết. Nó kêu vo vo rất dễ chịu. Charlie, tôi nghĩ nó sẽ đưa tôi về nhà.”

“Tức là sao?” Charlie bồn chồn, hỏi.

“Tôi vừa suy luận ra rằng, tôi đến được thế kỷ mời này chỉ vì thời tiết giống y như lúc trước khi tôi rời khỏi vào năm 1916, đó là ngày lạnh nhất trong rất, rất nhiều năm. Khi tôi đến đây, trời cũng lạnh hệt như thế. Nhưng bây giờ trời đang ấm lên, và nếu tôi dùng Quả Cầu Xoắn Thời Gian thì tôi muốn dừng ở đâu cũng được.”

“Anh có điên mới dùng nó bây giờ,” Charlie nói.

“Nhưng sẽ không sao nếu tôi chui vô chiếc tủ đông kia,” Henry hào hứng.

“Sao? Anh sẽ bị chết cóng trong đó.”

“Cậu sẽ giúp tôi, Charlie. Chỉ cần thỉnh thoảng mở cửa tủ ra để kiểm tra, để chắc là tôi vẫn còn thở. Một khi đạt được nhiệt độ thích hợp, tôi sẽ đi.”

Henry nhoài người ra trước.

“Làm ơn giúp tôi nhé. Tôi muốn về nhà lắm. Tôi muốn trở lại năm 1916 để gặp gia đình mình. Tôi không bao giờ sống nổi trong thế giới mới này. Tôi không thuộc về thế giới này.”

Mới chỉ biết người bà con của mình có một ngày, nhưng Charlie đã bắt đầu mến Henry rồi. Nó nhận ra, rồi nó sẽ nhớ Henry lắm.

“Hơi liều,” Charlie muốn làm Henry nản chí. “Ý em là biết đâu anh lại rơi vào kỷ Băng Hà, sống với voi ma mút hay những thứ kiểu kiểu vậy.”

“Tôi cũng có nghĩ tới chuyện đó, nhưng tôi muốn thử một lần coi sao. Nếu cứ nghĩ nhiều thật nhiều đến ba và mẹ, đến em trai và em gái mình, thì tôi chắc chắn sẽ trở về được.”

Henry cười toe toét để khích lệ Charlie.

“Cậu thấy sao?”

“Thôi được,” Charlie miễn cưỡng. “Để thử coi. Nhưng nếu anh mà tái xanh là em sẽ lôi anh ra ngay đấy.”

“Cảm ơn, Charlie.”

Hai thằng bé cùng phóng khỏi bệ bếp và đi vô phòng lạnh. Henry đứng nhìn cái tủ đông màu trắng, cao ngất nghểu một hồi, rồi rút Quả Cầu Xoắn Thời Gian ra khỏi túi. Charlie vừa thoáng thấy luồng sáng lấp lánh trong tay Henry liền vội nhìn đi chỗ khác. Nhưng luồng sáng đó lại phản chiếu lên trần nhà thấp, và qua một màn sương những màu sắc lung linh, Charilie thấy lờ mờ một thành phố với những mái vòm chao nghiêng, rồi một dãy núi tuyết phủ. Tuyết biến thành rừng. Rồi cây cối biến thành những đợt sóng xanh cuồn cuộn của đại dương. Tiếp theo, một dòng sông thuỷ tinh trôi dưới bầu trời xanh trong nhất mà trước nay Charlie chưa từng thấy.

Bị mê hoặc trước thế giới diệu ảo trên đầu, Charlie cảm thấy như bị hút về phía trần nhà. Lúc hai bàn chân bắt đầu lướt đi, nó vội bứt ánh nhìn ra khỏi trần nhà; nhưng đã trễ: nó không kịp thấy thằng anh họ bước vô tủ đông lúc nào. Henry đã biến mất.

Charlie nhìn trân trân vô cửa cái tủ đứng. Giờ nó phải đợi bao nhiêu lâu? Nó không muốn phá hỏng cơ hội của Henry, nhưng rủi đâu anh ấy bị đông lạnh mà chết trước khi Quả Cầu Xoắn Thời Gian hoạt động thì sao? Nó nhắm mắt lại và từ từ đếm đến mười. Xong, chộp lấy cửa tủ, nó kéo ra.

Cánh cửa không nhúc nhích. Charlie kéo lần nữa. Nó đặt cả hai tay cô tay cầm, vận toàn lực, và giật mạnh hết sức. Cánh cửa tủ đông đã kẹt cứng. Có thể là do đóng băng, hoặc do một lực thật mạnh bên trong tủ đang giữ cánh cửa đóng lại.

Charlie thử một lần nữa. Nó rung cánh cửa rầm rầm, rồi vặn, lôi, nghỉ một chút, và rồi lại ráng tiếp.

“Henry! Henry!” Nó vừa gọi vừa đấm thùm thụp vô cánh cửa tủ đông.

“Con đang làm gì thế, Charlie Bone?”

Charlie quay ngoắt lại và thấy bà bếp trưởng đang đứng ở ngưỡng cửa.

“Con… con..,” Charlie ấp úng. “Thưa bà bếp trưởng, có một người ở trong tủ đông. Con không biết anh ấy đã chết hay là đã… đã đi rồi. Bà biết đấy, anh ấy có thể đi rồi, nhưng con muốn biết… “

“Ối, quỷ thần thiên địa ơi,” bà bếp trưởng la bài hải, suýt nữa thì tông Charlie đổ chồng kềnh khi bà xông tới cửa.

Henry đang nằm ép dưới đáy tủ, bên dưới một tảng thịt sống khổng lồ. Mặt cậu xanh lè, tóc và chiếc áo chùng phủ đầy tuyết.

“Thánh thần trên cao ơi,” bà bếp trưởng thét lên khi lôi Henry ra khỏi tủ đông.

Henry lạnh cứng, nhưng Charlie thở phào khi nghe riếng rên rỉ phát ra lúc bà bếp trưởng bế xốc Henry lên.

“Theo ta, Charlie Bone,” bà ra lệnh. “Tốt hơn con phải nói cho ta biết và sao mà nên nông nỗi này.”

Bà bếp trưởng lách lẹ qua cửa, băng qua nhà bếp, và vô một nơi trông như tủ âm tường để cất chổi, nhưng lại đi ra một hành lang dài, ánh sáng lù mù. Mặc dù đang xốc Henry, bà bếp trưởng vẫn bước phăm phăm, Charlie phải cắm đầu cắm cổ chạy theo bà.

Đến cuối hành lang hẹp, thêm vài bậc thang xuống một cái tủ tường nhỏ khác, và mở cửa tủ ra là bước vô phòng treo đầy tranh, hầu như treo từ mí trần xuống tận sàn nhà. Những chiếc ghế trông cổ xưa và mềm mại, và một chiếc tủ ngăn kéo cổ, bóng láng chứa đầy chén dĩa hoa văn và viền vàng. Thụt vô trong góc phòng là cái lò sưởi màu đen; bên trên có một ấm nước đang sôi, trong khi những cục than hồng bập bùng bên dưới của lò. Chúng vừa sưởi ấm vừa thắp sáng cho căn phòng.

Bà bếp trường đặt Henry vô một chiếc ghế bành to tướng bên cạnh lò sưởi và hối hả chà hai bàn tay cho cậu. Khi bà làm vậy, những ngón tay cứng đơ của Henry mềm lỏng ra và Quả Cầu Xoắn Thời Gian rớt xuống sàn.

“Cái gì thế?” Bà bếp trưởng hỏi.

“Nó là… ơ… Quả Cầu Xoắn Thời Gian.” Charlie đáp.

“Hừ!” Bà bếp trưởng gục gặc, không một chút ngạc nhiên, “Ta biết ngay mà. Nó luôn gây rầy rà. Để nó vô trong cái ca đỏ trên tủ kia đi, nhưng cấm nhìn vô nó đấy.”

“Dạ,” Charlie nói. Nó lượm quả cầu pha lê lên và thả vô ca. Những màu sắc sống động quay tròn và uốn éo bên trong chiếc ca. Và Charlie nôn nao muốn chờ xem nó sẽ hiện ra hình gì.

“Đừng nhìn nó, Charlie!” Bà bếp trưởng cảnh báo lần nữa.

“Ồ không, cháu không nhìn!” Charlie bước xa khỏi cái tủ.

Bà bếp trưởng vẫn tiếp tục chà chà những ngón tay của Henry, nhưng cậu vẫn không động đậy hay ọ ẹ gì. Bà bếp trưởng quay lại nhìn Charlie và nói.

“Thằng ngốc kia. Charlie Bone, trong cả đám chỉ được có mỗi con. Con nghĩ gì mà làm vậy hả?”

“Con chỉ ráng giúp thôi.” Charlie lí nhí.

“Giúp? Giúp cái gì? Giết người thì có,” bà bếp trưởng lạnh lùng.

“Không, không, con không… “

“Thằng bé này là ai?”

Charlie phải mất hết mấy giây mới định được mối quan hệ của nó với Henry. Rất chậm rãi, nó trả lời.

“Con nghĩ anh ấy là ông cậu-cố của con. Nhưng con chỉ kêu anh ấy là anh họ. Anh ấy tới đây vào năm 1916.”

“Và ta chắc chắn là Quả Cầu Xoắn Thời Gian gây ra việc đó.”

“Dạ phải, Henry tội nghiệp đi một chặng đường dài. Ý con là anh ấy đến từ xưa lắc.”

“Đúng vậy,” bà bếp trưởng đồng ý. “Lấy cái áo choàng tắm kia lại đây.” Bà hất hàm về phía một chiếc áo đỏ rộng thùng thình đang vắt trên ghế.

Charlie mang áo đến cho bà.

“Giờ thì, cởi áo chùng của thằng bé này ra.”

Bà bếp trưởng nhẹ nhàng nâng Henry lên khỏi ghế, trong khi Charlie cởi chiếc áo chùng đóng băng ra. Theo sự hướng dẫn của bà bếp trưởng, nó quấn anh họ nó vô chiếc áo choàng màu đỏ, nhưng Henry vẫn không có một dấu hiệu nào của sự sống.

Bà bếp trưởng bắt mạch cho cậu bé đông cứng, lắc đầu, rồi áp tai vô tim cậu.

“Có cái gì,” bà lầm bầm. “Có cái gì đó.”

Charlie hoảng vía. Nó ngã phịch xuống một chiếc ghế, hai tay ôm lấy mặt.

“Chưa mất hết đâu,” bà bếp trưởng nói. “Chúng kia!”

Charlie nghe một tiếng meo yếu ớt phía trên đầu. Nó nhìn lên cửa trời – những tấm kính nhỏ xanh lá cây trên trần nhà. Đang ghé mắt dòm qua tấm kính là ba con mèo, với những cặp mắt vàng sọc.

“Những con mèo lửa,” Charlie kinh ngạc.

“Phải đấy, những con mèo lửa. Coi chừng, Charlie.”

Charlie nhảy khỏi ghế khi bà bếp trưởng bước về phía nó. Bà leo lên ghế và mở cửa trời ra. Một luồng khí lạnh buốt và mưa tuyết đem theo một con mèo trượt xuống, đậu trên thành ghế. Đó là một sinh vật đẹp đẽ, với bộ lông sáng rực màu đồng.

“Dương Cưu!” Charlie gọi.

Con mèo meo lên một tiếng dài, mừng rỡ.

“Thì ra con biết tụi mèo này?” Bà bếp trưởng hỏi, trong lúc một con mèo cam, rồi một con mèo màu vàng tiếp bước Dương Cưu. Mỗi con đáp xuống một bên Charlie và chào đón bằng những tiếng rừ rừ ầm ĩ.

“Sư Tử và Nhân Mã,” Charlie nói. “Dạ. Con biết mấy con mèo lửa này. Và con cũng biết chúng sẽ làm gì.”

Ba con mèo nhảy xuống khỏi ghế và chạy lại chỗ Henry. Charlie nghe thấy tiếng những ngọn lửa lép bép khi bọn mèo dụi đầu vô chiếc áo choàng màu đỏ. Chúng bắt đầu đi vòng quanh chiếc ghế, nơi gương mặt xanh mét của Henry tựa lên một chiếc gối đã bạc màu. Bà bếp trưởng đóng cửa trời lại và nhảy xuống khỏi ghế.

“Chúng đã cứu sống con chó của bạn con,” Charlie kể với bà bếp trưởng. “Con nghĩ chúng đã cứu rất nhiều người rồi. Nhưng con không hiểu làm sao mà chúng biết được khi nào người ta cần mà đến.”

“Giác quan thứ sáu,” bà bếp trưởng nói. “Giờ thì im lặng nào. Để chúng làm việc.”

Charlie ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế đối diện Henry. Nó đã cảm thấy hơi nóng của lũ mèo khi chúng chạy quanh thằng bé bị đông cứng. Chẳng mấy chốc, tất cả những gì Charlie thấy chỉ là một vệt đỏ vàng sáng rực bao quanh ghế của Henry.

Charlie ngáp. Đầu nó gục xuống, mắt díu lại. Vài phút sau, nó ngủ mê đi.

Khi nó tỉnh giấc, Henry đang ngồi, mỉm cười với nó, người vẫn choàng chiếc áo choàng màu đỏ. Tay cậu đang cầm một cái ca đựng thứ gì đó bốc khói và tỏa mùi thơm ngọt.

“Chào lần nữa, Charlie!” Henry nói.

Charlie hấp háy, dụi dụi mắt.

“Em xin lỗi, Henry,” nó ngơ ngác. “Không xong, phải không anh? Em cố kéo anh ra nhưng không biết có cái gì đó cứ níu em lại.”

Henry gật đầu.

“Tôi sẽ ở lại đây với bà bếp trưởng,” cậu bảo. “Không ai biết căn phòng này, cho nên tôi sẽ an toàn cho tới khi tụi mình quyết định được phải làm gì tiếp.”

Bà bếp trưởng lạch bạch bước quanh lò sưởi. Bà lấy một khay bánh nhỏ ra khỏi lò nướng và xóc bánh lên dĩa.

“Lấy một chiếc đi,” bà nói, chìa cái dĩa ra cho Charlie. “Xong rồi ta nghĩ con nên mò lại giường đi thôi.”

“Cảm ơn bà!” Charlie cầm chiếc bánh và cắn một miếng. Ngon tuyệt.

“Ngon lắm,” nó nói nhanh.

“Không phải lỗi của con, Charlie à!” bà bếp trường nói, như đoán được ý nghĩ của Charlie. “Đáng ra ta không nên vội vã đổ lỗi cho con. Trong cả đám chỉ được mỗi con thôi.”

“Sao bà cứ nói câu đó hoài vậy ạ?” Charlie hỏi. “Trong cả đám chỉ được mỗi con thôi. Nghĩa là sao ạ?”

“Để khi khác ta sẽ nói.”

Charlie ngước nhìn bà bếp trưởng. Trong tích tắc, nó thoáng thấy một gương mặt khác đằng sau những đường nét già nua, sương gió của bà – một gương mặt trẻ trung và xinh đẹp. Nó muốn giây phút đó đứng lại mãi mãi. Chưa bao giờ nó cảm thấy ấm áp và an toàn như bây giờ, khi nó ngồi trong căn phòng tranh tối tranh sáng của bà bếp trưởng; đằng sau bà, tiếng lò sưởi lách tách, và tiếng những con mèo lửa gừ gừ mãn nguyện, khi chúng liếm láp tô sữa đặt trước lò sưởi.

“Bà là ai hả bà?” Charlie hỏi.

“Ta à?” Bà mỉm cười. “Ta là thanh đá nam châm của tòa nhà này. Ta canh chừng cho tất cả bọn con khỏi bay mất vô bóng đêm.”

“Nhưng tên bà là gì?”

“Để khi khác.”

“Ngày mai con trở lại đây được không?” Charlie hỏi. Nó muốn biết nhiều hơn nữa.

“Tốt hơn là không,” bà bếp trưởng gạt phắt. “Hãy đợi ít lâu nữa. Sẽ có vài người nào đó theo dõi con. Và có cả thứ không hẳn là người.”

Bà hất đầu về phía một hình thù mập ù, xuất hiện trong bóng tối phía sau căn phòng.

May Phúc bước lạch bà lạch bạch vô vùng sáng. Rõ ràng là nó muốn ngồi trước lò sưởi, nhưng lũ mèo gầm gừ và con chó già đành phải thụt lùi lại.

“Con đã thấy nó trước đây rồi,” Henry nói to. “Nó già lắm bà nhỉ.”

“Nó là gián điệp đấy,” bà bếp trưởng bảo. “Cho nên, nếu con gặp nó thì thể nào nó cũng đã kể cho ai đó biết rồi. Charlie Bone, con phải về ngay. Ai đó có thể đã phát hiện ra giường của con trống trơn.”

Charlie nuốt chửng miếng bánh cuối cùng và chúc anh họ nó ngủ ngon. Rồi nó theo bà bếp trưởng qua mê cung những tủ âm tường và hành lang dẫn ra tiền sảnh. Ở đây, bà bếp trưởng lấy một chiếc đèn pin từ trong túi ra, trao cho Charlie.

“Ánh sáng tốt lắm đấy,” bà thì thầm. “Đi ngay đi, và đừng nói với ai về những gì xảy ra tối nay đấy. Ta nhấn mạnh là “bất cứ ai” cũng không nói.”

“Bạn thân nhất của con đã biết về Henry rồi.”

Bà bếp trưởng lắc đầu.

“Không sao. Nhưng càng ít người biết về Henry càng tốt.”

“Vâng. Con hứa sẽ không nói cho bất kỳ ai biết anh ấy ở đâu.”

Bà bếp trưởng nhìn Charlie đi qua tiền sảnh và bắt đầu lên cầu thang. Bà vẫy nó một cái thật nhanh rồi lững thững quay lại phòng.

Bà bếp hài lòng khi thấy Henry Yewbeam đã chìm vô giấc ngủ không mộng mị. Lấy cái ca không ra khỏi tay cậu, bà đặt nó lên tủ chén. Ba con mèo đã uống xong phần sữa của mình và đang nhìn bà chờ đợi. Bà liền bước lên cái ghế dưới ô cửa trời và mở cửa ra lần nữa.

Những con mèo lửa chạy lại ghế, nhảy lên lưng ghế và từ đó nhún mình phóng qua ô cửa trời.

“Cám ơn, các con yêu,” bà bếp trưởng nói. Bà đóng ô cửa trời lại và bước xuống khỏi ghế.

“Giờ đến lượt mày,” bà nói với con chó mập ú, lúc nãy đã lê được tới chỗ ưa thích nhất của nó trước lò sưởi.

“Ta thừa biết mày là cái gì,” bà bếp trưởng nói với May Phúc, “nhưng cho tới giờ mày vẫn là một thằng bé ngoan và không khai ra căn phòng này, ngay cả với thằng bạn Billy Raven của mày.”

May Phúc nhìn bà bếp trưởng và rừ nhè nhẹ.

“Giờ, nghe đây. Đố mày dám nói với bạn mày về thằng bé đó đấy,” bà chỉ Henry đang ngủ trong chiếc ghế bành bự.

Con May Phúc nhìn bà bếp chằm chằm với đôi mắt nâu buồn thảm. Dù bà không nói bằng ngôn ngữ của nó, nhưng nó biết bà đủ rõ để mà có thể hiểu chính xác điều bà đang nói.

“Nếu mày để lộ bí mật thì sẽ không còn quà cáp của bà bếp trưởng này nữa nghe chưa. Không có giường bên lò sưởi, hay đi dạo công viên gì nữa. Khi đó mày phải cút khỏi đây, vì tao đâu có cần mày làm gì, cục mỡ lười chảy thây à vì mày vô dụng đối với ta, đồ chảy mỡ à. Lâu nay tao chăm mày chỉ vì tao tử tế với mày thôi.”

Rồi bà vẩy ngón tay trỏ trước mặt nó.

“Rõ rồi chứ?”

May Phúc gừ gừ và vùi mình vô cái ổ. Nó rất hiểu rằng mình đang được phong lưu.

Bình luận