Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

“Người ta không thể quay về!”

Qua nửa đêm được năm phút, Billy Raven rời khỏi phòng ngủ chung. Charlie tự hỏi liệu nó có thể mang Gabriel tới phòng của bà bếp trưởng và trở về trước khi Billy quay lại hay không.

“Gabriel!” Nó thì thầm, lay vai Gabriel. “Dậy đi! Tới giờ đi rồi.”

Gabriel ráng chuồi khỏi giường, lóng ngóng trong bộ đồ ngủ.

“Rồi!” Nó ọ ẹ.

Charlie nắm tay Gabriel và kéo ra khỏi phòng ngủ chung. Chỉ khi ấy nó mới bật đèn pin của bà bếp trưởng lên. Ánh đèn dịu tỏa rõ mọi chi tiết của dãy hành lang dài.

“Chao!” Gabriel thốt lên. “Hết sảy!”

“Theo em!” Charlie thì thào.

Nó bắt đầu đi như chạy, ráng nhẹ nhàng hết sức, trong khi đằng sau nó, Gabriel loạng choạng và vấp lên vấp xuống trong đôi dép lê không vừa chân.

Vừa đúng lúc Charlie tìm được đường dẫn tới cánh cửa tủ dẫn vô phòng bà bếp trưởng, thì Gabriel trông như kiệt sức. Những ngón tay trên bàn tay trái lại bắt đầu thốn trở lại, và cơn đau khiến nó nhức nhối khắp mình.

Charlie không thích xông vô phòng của bà bếp trưởng mà không báo trước, vì vậy nó lịch sự gõ lên cánh cửa tủ.

Có tiếng bước chân lệt xệt đằng sau cánh cửa, và rồi cửa mở ra, kẹt một tiếng.

“Nói mau,” bà bếp trưởng gắt, hé mắt nhìn Charlie. “Con làm gì ở đây?”

“Con xin lỗi, bà bếp trưởng,” Charlie nói, “Nhưng… “

Đằng sau nó, Gabriel rên lên một tiếng nho nhỏ.

Bà bếp trưởng mở cửa rộng ra hơn một tí. Bà đang mặc chiếc aó choàng đỏ.

“Khiếp quá,” bà la lên. “Cái quái gì thế này?”

“Gabriel,” Charlie nói với bà. “Anh ấy gặp tai nạn do một cái găng tay.

“Chậc! Chậc! Vô đây thôi.”

Charlie dẫn bạn bước qua cái tủ tường.

Gabriel kinh ngạc nhìn quanh căn phòng bí mật của bà bếp trưởng.

“Chỗ này thích quá đi mất,” nó trầm trồ.

Bà bếp đặt Gabriel ngồi xuống và xem xét chiếc găng tay, trong khi Charlie kể cho bà nghe làm sao mà nó lại có cái găng, rồi làm sao mà Gabriel khốn khổ lại có một phép thuật xui xẻo là cứ phải trải qua cảm xúc của người khác, mỗi khi nó mặc quần áo của họ vô.

“Hừ,” bà bếp trưởng lẩm bẩm. “Đó là chiếc găng tay của Dorothy.”

“Dorothy?” Charlie hỏi.

“Là tên của thiếu phụ bóng tối,” Gabriel nói. “Bà ấy quanh quẩn trên tháp nhạc. Tôi cũng có lần trông thấy bà ấy. Bà ấy bị dập mấy ngón tay vì kẹt vô cửa.”

Bà bếp trưởng gật đầu.

“Hóa ra tụi con kêu bà ấy như vậy hả? Thiếu phụ bóng tối. Thôi được, ta cho tụi con biết luôn, thiếu phụ bóng tối chính là bà Bloor đấy.”

“Cái gì? Mẹ của Manfred?” Charlie kinh ngạc. “Con nghĩ là bà ấy… ừm… chết rồi.”

“Gần như ai cũng nghĩ thế,” bà bếp trưởng nói. “Tội nghiệp, bà ấy sống nửa đời còn lại trong hãi hùng. Sau khi bị thằng Manfred làm dập hết năm ngón tay, bà ấy buông xuôi tất. Biến mất, nói thế cũng được. Thỉnh thoảng bà ấy có xuống căn phòng nhỏ của ta, và chuyện trò. Nhưng bà ấy là một sinh thể buồn, buồn não ra.”

“Đúng bà ấy rồi,” Gabriel nói. “Cái găng tay này làm con đau kinh khủng, đến nỗi con chỉ muốn chết cho rồi.”

“Thôi nào, sẽ không phải nói như thế nữa,” bà bếp trưởng nghiêm trang. “Chúng ta sẽ rút chiếc găng đó ra ngay thôi. Phiền con thế này, người duy nhất rút được nó ra phải là chủ nhân của nó.”

“Tại sao phải thế?” Charlie hỏi.

“Thì tại vì thế. Bàn tay người chơi nhạc rất đặc biệt. Có rất nhiều cảm xúc trong chiếc găng tay ấy. Và ta thấy chiếc găng tay thật sự thoải mái khi được bao lấy làn da của con đó, Gabriel à.”

“Nhưng con không muốn mất miếng da nào hết,” Gabriel thất kinh. “Bà đừng giận, tự nhiên con thấy mắc ói quá.”

“Ngày xưa, thời của ta, bọn trẻ có phép thuật gan lì hơn nhiều,” bà bếp trưởng bình luận khi chậm rãi băng qua căn phòng. “Để ta đi gọi Dorothy.”

Bà mở một cánh cửa tủ âm tường khác trong góc phòng. Khi bà lách mình qua và khép cửa lại, hai thằng liếc thấy bên trong đó có một cầu thang hẹp.

Chúng nghe tiếng những bước chân nhè nhẹ đằng sau bức tường, sau đó ở phía trên đầu chúng. Bà bếp đẫy đà như vậy, mà dáng đi lại thật nhẹ nhàng.

“Chỗ này hết sảy,” Gabriel thì thầm, dán mắt vô những bức tranh rực rỡ và những tủ bàn ghế cổ xưa bóng lộn.

“Chẳng bao giờ dám nghĩ là tất cả những thứ này lại nằm ngay dưới một tòa nhà u ám nhỉ.”

“Đúng vậy,” Charlie tán thành. “Em nghĩ một phần của nó nằm dưới lòng thành phố. Qua ô cửa sổ kia mình có thể thấy bầu trời. “Nó hất hàm về phía ô cửa trời trên trần nhà.

Gabriel quay đầu nhìn ô cửa trời.

“Thế, cái gì ở trên đó?”

“Ai mà biết? Có thể là vườn của ai đó. Hoặc một con đường.” Charlie nhún vai.

Nó đang nghĩ không biết đã có chuyện gì xảy ra với Henry. Bà bếp trưởng đã gởi anh ấy trở về, xuyên thời gian? Hay là anh ấy đã chạy trốn rồi?

Tiếng những bước chân nhẹ nhàng báo cho chúng biết bà bếp trưởng đang quay lại, cùng với một ai đó có bước đi nhẹ ru thật đặc biệt.

Một thoáng sau, cánh cửa tủ âm tường mở ra, và bà bếp trưởng đi vô, theo sau là một phụ nữ nhỏ nhắn, mặc đầm đen dài, lùm xùm. Chiếc khăn quàng trùm kín đầu, khiến cho gần như không thể thấy được mặt bà. Bà bước vô, đầu cúi xuống như thể đang tìm cái gì đó dưới sàn.

“Nào, Dorothy, chị ngồi đây!” Bà bếp trưởng đẩy một chiếc ghế lại gần ghế của Gabriel.

“Đây là Gabriel, hình như nó tự đưa tay cho kẹt vô cái găng của chị sao ấy.”

Dorothy nhìn bàn tay bị thương của Gabriel, rồi nhìn trân trân vô Charlie, chiếc khăn rũ xuống vai bà, để lộ một mái tóc dài, xám và một gương mặt tái xanh, hai mắt xám lõm sâu.

“Còn đây là ai?” Bà hỏi bằng một giọng nhỏ rí.

“Cháu là Charlie Bone.” Charlie đáp. “Rất hân hạnh được gặp bà, thưa bà Bloor.”

“Hả?” Giọng nói nhỏ xíu cất lên. “Hóa ra là Charlie à. Tôi biết… Tôi biết là… “

Chừng như bà Bloor bất chợt quên mất cái điều bà nói bà biết, bởi vì bà lại hướng sự chú ý vô Gabriel và hỏi:

“Thằng nhỏ tội nghiệp. Cậu chơi dương cầm, phải không? Tôi thích nghe lắm. Tôi sẽ làm hết sức cho cậu, nhưng tôi chỉ sử dụng được có một tay thôi. Bàn tay kia của tôi bị ếm rồi, cậu thấy đấy.”

Hai thằng bé ồ lên sợ hãi.

“Ai ếm bà?” Charlie như nín thở.

Bà Bloor chỉ lắc đầu. Rồi với bàn tay phải, bà bắt đầu bóc chiếc găng tay da ra khỏi cổ tay Gabriel. Phải lâu lắm mới được, cho nên sau một hồi, bằng giọng run run, bà Bloor bắt đầu kể cho chúng nghe câu chuyện của bà.

Dorothy de Vere vốn là một nghệ sĩ vĩ cầm có tài. Không lâu sau khi bà được thừa kế một tài sản kếch sù từ bà cô của mình, giáo sư Harold Bloor đã tán tỉnh bà. Trong vòng một năm thì họ cưới nhau, và Dorothy đem trao cho chồng một nửa tài sản của mình. Nhưng rồi, những rắc rối của bà bắt đầu. Con trai bà, Manfred, ghét tất cả mọi hình thức âm nhạc. Nó gào thét mỗi khi bà cầm lấy cây vĩ cầm. Bà chỉ dám chơi đàn trong một căn phòng mà không ai có thể nghe thấy. Khi lãi Ezekiel Bloor đòi bà phải trao nốt số tài sản còn lại, bà từ chối. Theo lời khuyên của cha mình, bà đã gởi nó vô trong một ngân hàng bí mật ở Thụy Sĩ. Không cái gì có thể bắt bà giao nộp nó. Vì hết sức không hạnh phúc trong Học việc tối tăm này, bà lên kế hoạch bỏ đi.

“Họ đã làm những chuyện khủng khiếp với mọi người,” bà thầm thì, “và tôi không thể nào chịu nổi. Một ngày kia, một ngày mưa gió bão bùng… “

Đến đây giọng mà yếu hẳn đi, đến nỗi hai thằng không thể nghe được nữa, và rồi bà ngừng đột ngột. Bà bếp trưởng phải kế tiếp cho chúng nghe phần còn lại của câu chuyện.

Hôm ấy, có một cơn bão kinh hoàng. Hy vọng tiếng ồn sẽ át tiếng chân mình ra đi, Dorothy đã đóng gói hành lý.

“Chị ấy vừa định rời khỏi phòng riêng, thì Manfred ngó vô. Nó quát: Mẹ không đi được đâu. Chúng tôi sẽ không để cho mẹ đi đâu. Không, cho đến khi mẹ ký tên trao lại hết tiền.”

“Một lần nữa, Dorothy từ chối. Manfred bảo nó sẽ nhốt bà trong phòng. Dorothy liền đặt tay lên cửa để ngăn nó, và nó sập cửa lại… ầm… cho dập hết mấy ngón tay.”

Đầu bà Bloor rũ xuống. Bà rùng mình:

“Kể cho chúng, kể cho chúng nghe đi,” bà thều thào. “Kể cho Charlie Bone nghe đi.”

“Chị ấy ngất đi, tội nghiệp,” bà bếp trưởng kể tiếp. “Khi tỉnh dậ, chị ấy thấy mình đang nằm trên giường. Lão già Ezekiel Bloor ngồi kế bên. Lão nhúng tay chị ấy vô thứ nước độc kinh tởm của lão. Lão bảo với chị ấy rằng chị ấy sẽ không bao giờ chơi vĩ cầm được nữa. Sẽ không bao giờ rời khỏi đây được nữa. Họ nghĩ rằng, một khi không còn tồn tại nữa, thể nào rồi chị ấy cũng sẽ đưa tiền cho họ.”

“Nhưng tôi không đưa,” Dorothy thì thầm. “Tôi sẽ không bao giờ đưa.”

Bà đã tuột dần được chiếc găng tay ra. Giờ thì đã thấy những ngón tay của Gabriel rồi. Rồi, bằng một cứ giật nhẹ, bà rút luôn nó ra.

“Phuù!” Gabriel thở phào, vẩy vẩy bàn tay. “Đỡ rồi. Đỡ hẳn. Cảm ơn bà.”

“Tôi rất vui, vui lắm,” bà Bloor nói.

Charlie cũng nhẹ cả người, nhưng liền đó lại lo lắng về việc phải mau trở về phòng ngủ chung trước Billy.

“Tụi con phải đi đây.” Nó hấp tấp. “Nhưng bà bếp ơi, người… đó đó, ở đâu rồi?”

“Ngủ say tít,” bà bếp trường đáp.

Charlie nhìn quanh phòng. Chẳng thấy dấu hiệu nào của một cái giường cả.

Bà bếp trường bật cười phá lên.

“Ta còn những phòng khác nữa,” bà nói, “và ta còn có một phòng ngủ xinh xắn với toa-lét, nhưng ta sẽ không chỉ cho con biết tối nay đâu. Thôi, hai đứa đi đi.”

“Nhưng ngày mai con về nhà rồi,” Charlie nói. “Lúc ấy làm sao con đưa Henry ra ngoài được?”

“Ta sợ là không còn dịp nào mà đưa nó ra đâu,” bà bếp trưởng bảo. “Mà có lẽ tốt hơn là đừng để mấy mụ Yewbeam đó thấy mặt nó. Chúng ta tính cho kỹ tương lai của Henry.”

Xem ra bà biết khá rõ về gia đình của Charlie.

Charlie và Gabriel chào hai người phụ nữ, và trước khi chúng rời khỏi, Gabriel làm một cử chỉ thật ngạc nhiên. Nó chột lấy bàn tay bị thương của bà Bloor và hôn. Vào tối hôm đó, lần đầu tiên, bà Bloor mỉm cười. Nụ cười làm thay đổi hoàn toàn gương mặt bà.

Charlie quay đi, bối rối, Gabriel đúng là người kỳ lạ nhất.

“À, nhân tiện,” Charlie nói với bà bếp trưởng, “Chiếc đèn pin bà cho con… rất là nhiệm màu. Nó soi cho con thấy những thứ trước kia con chưa từng thấy bao giờ.”

“Đó vừa là do con, Charlie, vừa là do chiếc đèn pin. Sẽ còn nhiều thứ hơn nữa.”

Trên đường lần về lại phòng ngủ chung, Gabriel hỏi:

“Henry bí hiểm đó là ai vậy?”

Bằng giọng cực kỳ bí mật, Charlie kể cho Gabriel đang rất sửng rốt nghe về Henry cùng Quả Cầu Xoắn Thời Gian. Nó biết nó có thể tin cậy Gabriel.

Chúng về tới phòng ngủ chung mà không gặp rầy rà gì, và may thay, chỉ trước lúc Billy Raven trở về từ chuyến công cán đêm khuya của nó có vài phút.

Buổi sáng hôm sau, Gabriel đưa cho Charlie một mảnh giấy.

“Đây là địa chỉ của tôi,” nó nói. “Đừng quên là tụi mình sẽ tới Nhà Sấm gặp Tancred đấy.”

Charlie đưa mảnh giấy cho Fidelio coi.

“Anh có muốn đi không?” Nó hỏi.

“Đường Mưa Đá, Khu Đồi Cao,” Fidelio đọc địa chỉ. “Làm sao tụi mình tới đó được?”

“Để em nghĩ đã,” Charlie nói.

Charlie dành hết thời gian còn lại trong ngày để tìm cách nhắn tin cho người anh họ trước khi nó về nghỉ cuối tuần. Hai lần Manfred bắt gặp Charlie lảng vảng bên ngoài mấy cái căn-tin. Lần thứ hai nó dọa sẽ cấm túc Charlie, và mặc dù Charlie rất muốn liều một cái, nhưng nó biết vụ đi gặp Tancred còn cấp bách hơn. Sự vắng mặt của chàng giông bão này có một tác động thật lạ lùng, nhất là ở trong phòng Nhà Vua. Tại đấy, chỗ ngồi trống lốc kế bên Lysander tựa như một cái lỗ không đáy, lạnh lẽo. Nó ăn trộm năng lượng của tụi trẻ có phép thuật, khiến cho vài đứa run lên cầm cập. Chúng ăn không còn ngon miệng và không thể suy nghĩ cho rành rẽ được chuyện gì. Điều này xảy ra với Charlie, Gabriel và Lysander. Thậm chí cả Emma Tolly cũng phàn nàn là nó thấy muốn bệnh.

Riêng Manfred, Asa, Zelda, và kể cả Billy Raven vẫn làm bài tập thật suôn sẻ. Chúng tung tăng trên đường đến nhà ăn hay đến lớp học, đầy năng lượng và hăng hái.

Cần phải làm một cái gì đó.

° ° °

Vào cuối ngày, tất cả mọi người ào ra khỏi hai cánh cổng chính, Charlie chợt trông thấy Olivia và Bindi ở trên cầu thang. Nó vẫy tay chảo hai cô bé với vẻ tội lỗi, nhưng trông bộ Olivia rất hồ hởi. Nó hy vọng Olivia sẽ không làm gì quá nguy hiểm.

Chiếc xe buýt xanh da trời thả Charlie xuống đầu đường Filbert. Và khi nó đang rảo bước về nhà số 9, thì Benjamin và Hạt Đậu xồ ra mừng đón nó.

“Thật là một tuần chán phèo,” Benjamin than thở. “Bồ làm được những gì?”

Vừa cùng nhau bước về nhà, Charlie vừa kể cho Benjamin nghe tất cả mọi việc đã xảy ra.

“Cuộc sống của bồ khoái thật, Charlie à,” Benjamin nhận xét. “Nhưng mình vẫn thích là mình hơn.”

“Mình chẳng có cách nào khác,” Charlie nói. “Mình chỉ ráng hết sức để có thể vượt qua tất cả thôi.”

Nó chưa kịp nhấn chuông thì cửa trước đã bật mở, rồi ngoại Maisie lôi tuột nó vô nhà và ôm ghì lấy nó.

“Bữa trà đã sẵn sàng,” ngoại reo mừng, kéo nó vô nhà bếp. “Toàn những thứ con thích nhá. Cả những món con thích nữa, Benjamin. Ăn đi nào. Và bà có một cục xương hết ý cho con Hạt Đậu đây.”

Hai thằng bé vừa ngồi vô bàn, định chén bữa tiệc tuyệt vời của ngoại Maisie thì nội Bone bước vô. Có thể nói ngay rằng nội Bone đã tước mất sự ngon miệng của Charlie.

“Cái này là cái gì?” Bà gầm gừ, đập tấm hình gia đình Henry xuống sát cái dĩa của Charlie.

“Một tấm hình cũ,” Charlie đáp. Chắc hẳn là nôi Bone đã lục lọi phòng Ông cậu Paton.

“Sao nó lại thế này?” Bà hạch hỏi.

“Nó rớt khỏi phòng lúc nội đóng sầm cửa.”

Đó là một sai lầm khi nói với nội Bone như thế.

“Tao mà đóng sầm cửa hả? Tao ấy hả? Mày làm bể tấm kiếng thì có, Charlie Bone, và mày không chịu nhận tội.”

“Lúc đó nó mang tấm hình thẳng vô đây mà,” ngoại Maisie gay gắt. “Đó không phaỉ là lỗi của nó.”

“Đó là khung hình của tao, tấm kiếng của tao,” nội Bone bù lu bù loa. “Đáng lý phải nói cho tao biết chớ. Nhưng thôi, bỏ qua vụ đó. Chính là tao đang quan tâm thằng bé này này.”

Bà trỏ một ngón tay xương xẩu lên mặt Henry.

“Mày gặp nó rồi, đúng không?”

“Dĩ nhiên là chưa ạ,” Charlie nói. “Tấm hình đó xưa rồi mà. Ông ấy giờ cũng phải cả trăm tuổi.”

Benjamin cắm mặt vô dĩa bánh mì kẹp dăm bông. Đầu nó cứ cúi gục xuống, không dám nhìn Charlie.

“Tao được một nguồn đáng tin cậy báo cho hay Henry Yeabeam đã tái xuất,” nội Bone nói với giọng chát chúa, “và mày đã gặp ông ấy.”

Vậy là con chó đã nói cho Billy biết, Charlie nghĩ. Và Billy đã lan truyền tin tức tới tai bà giám thị em ruột nội Bone, hoặc tới tai Manfred.

“Bà nói chuyện ngớ ngẩn quá đi, Grizelda à,” ngoại Maisie xen vô. “Charlie bị nhốt kín mít trong cái Học việc cũ kỹ kinh khủng đó suốt tuần. Làm thế nào mà nó gặp được ông ấy, trừ khi ông ấy là ma.”

“Đừng có chõ mũi vô,” nội Bone vặc lại.

“Còn bà, đừng có chõ mũi vô bữa trà của Charlie,” ngoại Maisie quát lại, xăn tay áo lên.

Những cuộc cãi cọ ở trong nhà số 9 hầu như luôn luôn tiến triển theo cách đó. Khuôn mẫu này đã quá quen thuộc với Charlie. Nó chỉ nghĩ phải chi mấy bà đừng cãi cọ quá sớm thế này, nó vừa mới về tới nhà mà. Noi gương Benjamin, nó vớ lấy một miếng bánh mì kẹp. Benjamin ngồi đối diện, cười toe với nó, và Charlie cười toét lại. Chúng cố ních thật căng trong khi hai bà vẫn đứng sỉ vả nhau, ngay trên đầu chúng. Con Hạt Đậu góp thêm tiếng ồn bằng những tràng tru dài đầy lo lắng. Nó ghét nghe cãi nhau.

Khi trận khẩu chiến kết thúc, nội Bone run lên vì giận, dọa dẫm:

“Đừng nghĩ là tao sẽ để yên chuyện này.”

Rồi nội hầm hầm ra khỏi nhà bếo, đóng cửa đánh rầm sau lưng.

“Hừm,” ngoại Maisie nói, “vui quá hả?”

“Con chẳng thấy vui tí nào,” Charlie nói. “Cả tuần đã mệt lắm rồi.”

“Nội Bone sẽ khùng lên cho coi,” ngoại Maisie lẩm bẩm. “Như là con đã gặp cậu bé một trăm tuổi đó không bằng.”

“Chưa tới một trăm,” Charlie nói mà không suy nghĩ.

“Hả?” Sự thật vỡ òa ra trước ngoại Maisie. “Ra là thế. Con lại gặp chuyện kỳ quặc gì rồi phải không?”

“Henry gặp chuyện kỳ quặc, chớ không phải con gặp,” Charlie vừa nói vừa với tay nhón một lát bánh nướng.

“Một bữa tiệc ngon tuyệt vời, bà ạ,” Benjamin nói lẹ.

“Ừ ừ,” ngoại Maisie bảo. “Ngoại sẽ không để lộ ra đâu, nếu đó là điều nội con quan tâm.”

Hai thằng bé cố hoàn tất bữa tiệc trà trong yên tĩnh, và rồi kéo nhau lên phòng Charlie. Nội Bone đã điên tiết đến nỗi quên nhắc Charlie rằng chó không được phép lên phòng ngủ.

Sau khi Benjamin giúp Charlie tháo dỡ đồ đạc ra khỏi túi xách xong, hai đứa ngồi lên giường, với con Hạt Đậu chen vô giữa. Charlie kể cho Benjamin nghe kế hoạch tới Ngôi Nhà Sấm. Nó hỏi xem mẹ Benjamin có thể chở chúng tới đó được không.

Benjamin lắc đầu.

“Má đang điều tra một vụ án rất quan trọng. Một vụ giết người dã man. Má phải đi tới tận chủ nhật. Cả ba cũng đi luôn.”

Ba má Benjamin là những thám tử tư. Họ làm việc vào những giờ trái khuấy và Benjamin thường phải tự nấu ăn lấy.

“Mình tưởng ba má bồ đã hứa là sẽ ở nhà thường xuyên rồi mà,” Charlie chưng hửng.

“Thì má vẫn giữ lời đấy thôi,” Benjamin bảo. “Má ở nhà suốt tuần, nhưng hôm qua, người ta báo tin có vụ án đó, hấp dẫn tới nổi má không thể từ chối.”

“Hừm. Mình phải nghĩ tới người khác vậy,” Charlie nói. “Lúc nào cũng còn Ông cậu Paton.”

“Nhưng phải đợi tới khi trời tối may ra ông mới chở tụi mình đi được mà?” Benjamin nhắc. “Mình không leo lên Khu Đồi Cao trong đêm tối.Nhất là tới một nơi có thể bị sét đánh hay đại loại như vậy.”

Charlie đồng ý. Nhưng dù sao cũng nên thử một lần. Khi Benjamin về rồi, nó gõ cửa phòng Ông cậu Paton.

Không có tiếng trả lời. Charlie tự hỏi hay là Ông cậu nó đã ra ngoài. Bây giờ trời cũng tối rồi.

Ngay lúc đó, mẹ nó về. Charlie chạy xuống đón mẹ. Bà mang về mấy trái cà chua nhũn.

Ngoại Maisie rất hài lòng.

“Mới thối có một nửa thôi,” bà nói, trải mấy trái cà lên bàn nhà bếp. “Chúng ta sẽ làm một nồi xúp rau mê ly.”

“Dạo này mẹ có hay thấy Ông cậu Paton không?”. Charlie hỏi mẹ.

“Rất ít,” mẹ nó đáp. “Tội nghiệp Ông cậu Paton. Ông rất mến cô Julia Ingledew. Nhưng bây giờ cô ấy không có thời gian nào dành cho Ông cậu đâu. Suốt tuần cô ấy chỉ lo chuẩn bị để đón Emma về nhà, và rồi lại dành trọn ngày cuối tuần để quấn quít bên cô cháu gái. Họ đi thăm viện bảo tàng, thăm các lâu đài cổ, bàn luận say sưa về sách vở. Hình như cô ấy không cho Ông cậu Paton tội nghiệp vô nhà.”

“Thế thì tệ quá,” Charlie bất mãn. “Vậy giờ Ông cậu đang ở trong phòng.”

Charlie lên lầu và lại gõ cửa phòng Ông cậu.

“Gì đó?” Một giọng giận dữ vọng ra.

Charlie mở cửa và nhìn vô. Cảnh hỗn độn trong phòng Ông cậu chưa bao giờ tệ hại đến như vậy. Cộng thêm có mùi dễ sợ nữa. Có lẽ Ông cậu Paton để quên mấy bữa ăn ở dưới gầm giường.

“Con nói chuyện với Ông cậu được không?” Charlie nói, vẻ nhu mì.

“Nếu mày bắt buộc phải nói,” Ông cậu Paton làu bào. Ông đang nghiên cứu một cuốn sách và không ngẩng đầu lên.

Khi đã len lỏi vô được tới bàn của Ông cậu mà không hất đổ thứ gì rồi, Charlie nói:

“Con đã gặp cậu nhỏ trong tấm hình. Đúng là anh trai của ông nội.”

“Cái gì?” Ông cậu Paton ngẩng phắt lên. “Kể ta nghe kỹ coi.”

Charlie kể cho Ông cậu Paton nghe về Quả Cầu Xoắn Thời Gian và sự xuất hiện kỳ lạ của Henry. Nhưng đến khi nó kể tới phần của nó trong vụ cái tủ đông, thì Ông cậu Paton liền gầm lên:

“Mày làm cái trò gì hả?”

“Tại anh ấy muốn trở về nhà,” Charlie vội nói. “Và con phải giúp anh ấy.”

“Đồ ngu, mấy thằng ngu,” Ông cậu Paton nổi tam bành. “Con người không thể quay về được. Người ta không thay đổi được lịch sử. Hãy nghĩ kỹ đi! Khi cha ta được năm tuổi, ông ấy mất anh trai. Việc đó đã thay đổi cả cuộc đời ông. Ông ấy trở thành con một, được nuôi như con một. Tất cả ký ức của ông chỉ là một đứa con một. Mày không thể thay đổi việc đó, đúng không?”

“Đúng ạ,” Charlie luýnh quýnh. “Con xin lỗi.”

Ông cậu nó vẫn chưa nguôi.

“Cha mẹ của Henry đã phải than khóc đứa con trai, ngay khi vừa mới than khóc cho đứa con gái Daphne xấu số. James trở thành con một, và hậu quả là ông ấy có thể hỏng người. Cha ông ấy mất đi, mẹ ông ấy để loại tất cả mọi thứ cho ông ấy, kể cả ngôi nhà tranh yêu quý của bà bên bờ biển. Mày không thể thay đổi được chiều đó, đúng không?”

Charlie thở dài. “Đúng ạ.”

Và rồi nó nảy ra một ý:

“Thế ông có có muốn gặp lại Henry không?”

Cơn giận của Ông cậu Paton đang dần dần thay đổi. Charlie như thấy được những dòng suy tư chạy chằng chịt khắp gương mặt Ông cậu.

“Bây giờ ta nghĩ thế này,” Ông cậu Paton nói, như thể vừa đột ngột tìm ra được một giải pháp.

“Ông cậu nghĩ sao?” Charlie hấp háy hỏi.

“Ta chưa nghĩ ra cái gì cả,” Ông cậu Paton nói. “Mày hãy để yên cho ta tập trung suy nghĩ.”

Charlie xét thấy lúc này là thời điểm hợp lý để nhờ Ông cậu giúp nó một việc. Nhưng khi vừa đả động chuyện tới Khu Đồi Cao, đến Ngôi Nhà Sấm, nó đã chẳng nhận được một câu trả lời mà nó mong đợi.

“Ha!” Ông cậu Paton sẵng giọng. “Ta sẽ chẳng đi bất cứ nơi nào có bọn bão tố đó. Khi họ đang phừng phừng giận dữ thì có can thiệp vô cũng vô ích thôi. Ta thành tâm khuyên mày đừng có léo hánh tới đó.”

Charlie giải thích vì sao mà phải khẩn cấp thuyết phục Tancred trở lại học viện, nhưng Ông cậu nó không thèm nghe. Rõ ràng là sẽ phải mất thêm một thời gian nữa mới có thể biến Ông cậu Paton trở thành một Ông cậu có ích và dũng cảm như ông đã có lúc như thế.

“Dù sao thì con cũng phải tới đó,” Charlie cương quyết.

“Ta không được ra ngoài vào ban ngày,” Ông cậu gắt. “Mày đi mà kiếm người khác đi.”

Bình luận