Kẻ tù tội
Charlie tìm thấy cái nút áo đen vào ngày thứ Sáu lúc cuối giừo nghỉ giải lao sau bữa trưa. Gabriel quẳng nó đi xa hơn cả bọn nghĩ, bởi vì nó nằm giữa hai phiến đá lát tường ngay bên trong cổng vòm lớn dẫn vào khu lâu đài hoang.
Khi Charlie đút cái nút áo vào túi quần, một giọng nói cất lên:
“Cái gì đó, Bone?” Asa Pike đang ngó lăm le xung quanh hông cánh cổng vòm.
“Cái gì là cái gì?” Charlie nói tỉnh queo.
“Mày lượm cái gì lên đó?”
“À, cái này,” Charlie học tay vào túi và tìm thấy, hên quá chừng, một vên bi nó vẫn để trong đó.
“Chỉ là một hòn bi thôi mà,” nó lôi viên bi ra và giơ lên chỗ sáng. “Thấy chưa! Hồi hôm qua tụi em chơi bi ở đấy, và nó lăn vô một khe nứt. Em tưởng em không bao giờ lấy nó ra được nữa chứ.”
Asa dòm viên bi vẻ nghi ngờ.
“Ở đâu mày có nó?”
“Không nhớ. Em có nó lâu lắm rồi. Nó như là bùa hên vậy đó.”
“Hừm.”
Asa quay đi. Những bước nhảy dài dị kỳ của thằng lớp trên này luôn khiến Charlie nổi da gà, và nó hình dung ra một hình ảnh ghê ghê là thân hình nửa thú của Asa đang sục sạo trong khu lâu đài hoang. Thằng ấy đã tìm thấy trái tim ở đâu? Charlie tự hỏi. Và họ biết chắc chắn đó là trái tim của Borlath sao?
Charlei bất giác rùng mình và rời khỏi khu lâu đài dổ nát. Khi nó nhét viên bi vào túi, những ngón tay nó chạm phải cái nút áo màu đen và cái nút áo truyền cho nó một niềm hy vọng. Có lẽ, cuối cùng, nó đang tiến đến gần hơn trong cuộc tìm kiếm ba nó.
Trong lúc đang xếp hàng lê xe buýt trường chiều hôm đó, Charlei hẹn Gabriel gặp nó tại quán Cà Phê Thú Kiểng vào thứ Bảy.
“Em tìm thấy cia nút áo rồi,” Chrrlie thì thầm. “Anh thử nó một lần nữa chứ, anh Gabriel?”
Gabriel nhún vai theo kiểu khó hiểu của nó:
“Tôi không chắc tôi có muốn gặp lại con ngựa đó hay không.”
“Cái nút áo không liên quan gì đến con ngựa hết,” Charlie nói. “Tin em đi. Ngày mai em sẽ giải thích.”
“Ờ phải đấy,” Fidelio nói. “Và em vẫn chưa kể cho tụi này biết tại sao tối qua em đi ngủ trễ.”
“Em sẽ kể tất,” Charlie hứa.
Ông cậu Paton dạo gần đây đã nhiễm thói quen gọi đồ ăn cao lương mỹ vị từ một nhà hàng lớn trong thành phố. Món tài sản thừa kế từ một trong những người bà con giàu có của mẹ ông cậu giúp ông có thể tự thết đãi mình hậu hĩ như thế, nhưng ông cũng bảo đảm cho tất cả mọi người trong nhà số Chín cùng đựoc hưởng lây tài sản kếch sù của ông.
Tuy nhiên, điều này chỉ tổ khiến các bà cô nhà Yewbeam thêm một lý do nữa để căm ghét ông em trai của mình. Nhưng trong khi nội Bone thầm giận sôi sục, bà cũng không ngăn nổi mình thưởng thức những món đặc sản. Bà Grizelda Bone vốn mê đồ ăn ngon, nhất là món pa-tê gan ngỗng và trứng cá đen. Hôm nay, trong khi Ông câu Paton, ngoại Maisie và cô Julia Ingledew ngồi trong nhà bếp xơi bánh táo nhân thịt nai quay, nội Bone ngồi ngả người trong phòng khách với thố trứng cá đen dành riêng cho bà, một dĩa bánh mì nướng mỏng và một ly rượu vang Bồ Đào Nha. Bà không thích ăn chung với khách, nhât là với cô Ingledew, người mà bà tưởng tượng là đang theo đuổi em trai bà, mặc dù bất cứ ai cũng có thể nói với bà rằng mọi chuyện là ngược lại.
“Chao!” Charlei reo lên khi nó bước vào nhà bếp. “Mùi hấp dẫn qua chừng chừng. Cho con một miếng đi, miếng gì cũng được.”
Ông cậu Paton cắt cho nó một lát bánh táo lớn, và ngoại Maisie đẩy một chén nước xốt về phía nó.
“Xơi đi. Ăn đứt thứ bình thường,” ngoại Maisie nói, nháy mắt một cái. “Có rượu rum trong đó đó.”
Charlie nhận thấy Ông cậu nó đang mặc một chiếc áo khoác mới.
“Ông cậu định đi đâu đó đặc biệt phải không?” Nó hỏi.
Ông cậu Paton đặt một ngón tay lên môi:
“Suỵt! Chúng ta không muốn người đó biết về việc này.”
“Thật ra, tụi này đã bàn với nhau, tính đưa con đi cùng,” cô Ingledew nói thầm.
Không ai nói thêm tiếng nào về đề tài đó nữa, và mặc dầu Charlie phát sốt lên vì tò mò, nó vẫn nhận ra rằng tất cả mọi người đều đang chờ cho nội Bone ngủ thiếp đi. Một vài phút sau, cô Amy Bone đi làm về và hòa cùng mọi người trong nhà bếp. Charlei được bảo đem chai rượu vang ra phòng khách.
“Charlie… ngon quá… thêm một ly rượu… rượu vang nữa.”
Charlie thấy thật khó mà không phì cười trước lời nói lè nhè của nội Bone. Bà đã nốc cạn hơn một ly rượu vang rồi. Nó cẩn thận rót đầy ly cho bà và hỏi bà có muốn ăn chút bánh táo thịt nai quay không.
“Bánh tao… ng…ngon.” Nội Bone liếm môi và thu cả hai chân lên chiếc trường kỷ.
Charlie quay vào nhà bếp, xớt một lát bánh lên một chiếc dĩa và rưới thật đẫm rượu rum và nước xốt trái mơ.
“Bà gật đầu rồi,” nó nói khẽ.
Mười phút sau, họ nghe tiếng ngáy vang rền vọng vào từ phòng khách.
“Bà ấy sẽ phê mấy tiếng liền cho coi,” ngoại Maisie bảo. “Tôi mà là anh chị thì tôi đi ngay bây giờ.”
“Ông cậu với cô định đi đâu vậy?” Cô Amy hỏi.
“À, đến một ngôi nhà gần đây,” Ông cậu Paton trả lời. “Và chúng tôi muốn mang Charlie theo.”
“Để làm gì?” Cô Amy hỏi. “Không… không nguy hiểm chứ?”
“Ồ, mẹ, dĩ nhiên là không rồi,” Charlie nói, nó chẳng biết tí ti nào là có nguy hiểm hay không.
“Làm sao con biết?” mẹ nó bắn cho Ông cậu Paton một cái nhìn lo lắng.
Ông cậu Paton gãi đầu:
“Ừm, có lẽ không nguy hiểm.”
Rồi ông nhìn tờ giấy mà ông vừa rút ra từ túi áo trên.
“Nó chỉ cách đây vài dãy phố, và theo như tôi biết thì đó là một khu vực rất yên tĩnh.”
“Mẹ ơi, làm ơn đi mà,” Charlei nài nỉ.
“Chúng tôi cần phải gặp một người bà con của Billy Raven,” cô Ingledew giải thích. “Một người đàn ông tội nghiệp đang âu sầu. Ông ấy phải gởi thư cho Paton thông qua tôi, đề phòng nó rơi vô tay kẻ xấu.”
Cô Amy mỉm cười gượng gạo:
“Thôi được rồi, Charlie.”
Vẫn chưa đủ tối cho Ông cậu Paton liều xuất hiện ngoài trời, nhưng sau khi đợi thêm nửa giờ nữa, một đám mây đen cuồn cuộn bắt đầu kéo đến che kín bầu trời, và vào lúc đoàn quân nhỏ rời nhà số Chín, mưa nặng hạt đang đổ xuống phố.
Ông cậu Paton giương ra một cây dù lớn màu xanh da trời – cây dù che kín ông và cô Ingledew, nhưng để lòi Charlie ra hứng gần trọn cơn mưa. Không quan tâm, Charlie chạy vượt lên trước. Xuôi theo con đường dẫn tới công viên, nó quẹo trái theo như được chỉ dẫn. tại đây, một đại lộ những cây tiêu huyền cao che chắn cho nó khỏi cơn mưa giờ đã rất nặng hạt. Nó bước đi thêm chừng nửa dặm nữa thì Ông cậu Paton hét lên:
“Quẹo phải, Charlie. Nhà số Mười Lăm.”
Charlie quẹo vô một con đường mà có thể được mô tả như là đường ở thôn quê. Cành lá xum xuê quét xuống vỉa hè, và hầu hết mọi ngôi nhà đều ẩn mình sau những hàng rào cao hoặc những bụi cây rậm rạp.
Cánh cổng nhà số Mười Lăm đúng là cần phải sơn lại gấp, và một bản lề đã bị bung ra. Charlie gần như không trông thấy ngôi nhà đâu – nó chìm ngập trong dây leo và hoa hồng trắng. Hương thơm lan tỏa khắp khu vườn và cô Ingledew tuyên bố đó là mùi hương mê ly nhất trần đời.
“Tôi sẽ phải đóng chai loại hương thơm dó cho em mới được,” Ông cậu Paton nói với vẻ trìu mến.
Họ đẩy cánh cổng xiêu vẹo và bước lên một lối đi dẫn đến mộy cánh cửa màu trắng. Không có chuông hay nắm gõ cửa, nên Charlie kéo sợi xích đồng treo bên hông cửa. Một âm thanh thánh thót vang lên, dội âm âm bên trong ngôi nhà.
Giây sau, cô Alice Angel đứng nơi ngưỡng cửa.
“Charlie, cháu cũng đến nữa,” cô nói. “Ôi, cô rất mừng.”
Charlie nín thinh. Không ai nói cho nó hay là họ sẽ tới nhà cô Alice Angel. Nó hơi lúng túng. Nhưng Ông cậu Paton và cô Ingledew đã bước vào nhà và tự giới thiệu, như thể cô Alice Angel là một người hoàn toàn bình thường, vì vậy Charlie cũng quyết định bước vào theo. Cô Alice Angel đón lấy áo khoác và áo gió ướt của họ,dẫn họ vào một phòng khách rất trang nhã. Do mảng cây xanh lớn phủ kín cửa sổ, nên căn phòng hơi tối và cô Alice Angel lập tức tiến tới chỗ công tắc đèn.
“Đừng…!” Ông cậu Paton hét to.
Tiếng hét của ông quá trễ. Những bóng đèn trong chùm đèn nhỏ treo giữa phòng lần lượt nổ tan và một cơn mưa thủy tinh rớt xuống tấm thảm, suýt nữa thì trúng cô Alice Angel.
“Tôi xin lỗi, vô cùng xin lỗi,” Ông cậu Paton nói. “Đáng lý ra tôi phải thông bái cho cô trước. Thiệt vô ý. Thiệt tắc trách. Trời đất ơi!”
“Hoàn toàn là lỗi của tôi,” cô Alice Angel nói. “Ở đây tối quá. Để tôi đi lấy đồ hốt rác trong khi quý vị nói chuyện với Christopher.”
Charlie dòm lo lom vào khoảng tối, cố xác định coi Christopher ở đâu, trong khi Ông cậu Paton và cô Ingledew giằng co với cô Alice xem ai sẽ hốt đống thủy tinh bể. Cô Alice Angel một mực bảo những vị khách của mình cứ thoải mái trong khi cô đi lấy đồ hốt rác.
Khi họ ngồi vào chỗ, một tiếng cười nhẹ phát ra từ góc phòng và một giọng cất lên:
“Ra là ông Yewbeam, người kích điện. Tôi luôn muốn diện kiến mọt người như vậy.”
Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn vào góc phòng, và cuối cùng nhận ra một người đàn ông gầy gò, nhỏ thó, tóc thưa, mặc quần áo may vụng. Người lạ đứng lên và đi về phía họ, chìa bàn tay ra:
“Christopher Crowquill,” ông nói. “Tôi biết các vị là ai.”
Trong khi tất cả bắt tay nhau, cô Alice Angel trở lại với chổi và đồ hốt rác, những thứ mà Ông cậu Paton giằng ngay lấy. Ông bắt đầu quét sàn nhà trong khi cô Alice Angel quay trở vào nhà bếp để lấy bánh và đèn cầy. Khi tất cả đã yên vị trong căn phòng thắp nến, bánh được chuyền vòng quanh và ông Christopher Crowquill hỏi thăm Charlie về Billy.
“Billy bị bệnh, thưa chú Crowquill,” Charlie nói.
“Bệnh?” Ông christopher hốt hoảng.
“Nó vừa mới đưa tụi cháu coi một cái nút áo nó kiếm được thì tự nhiên nó lăn đùng ra đau quằn quại. Nó cứ lẩm bẩm về cái lời thề gì đó, nó nói nó đâu có vi phạm. Người ta đưa nó tới bệnh thất và từ hoom đó tới giờ cháu chưa gặp được nó.”
“Mấy lời thề chết chóc đó!” Ông Christopher tuyên cáo. “Mụ Florence luôn giữ môt giỏ đầy những lời tờ giấy ghi lời thề. Những người phải ký vô đó đa số là những người vay tiền. Rủi cái là, một khi đã ký lời thề thì Florence sẽ không bao giờ hồi trả lại, kể cả đã trả xong tiền. Nếu ai vi phạm lời thề, người đó sẽ bị đau đớn hành hạ. Có khi cơn đau khủng khiếp tới nỗi nạn nhân có thể bị tàn phế suốt đời. Thứ giấy đó tẩm thuốc độc và nhiễm đậm một thứ mà tôi tin là tâm địa ác ôn. Chúng đã bắt Billy ký một lời thề rồi, tôi dám lấy mạng tôi ra cá đó.”
“Vây, chính vì vậy mà nó sợ đến nỗi không dám nói cho cháu bất cứ điều gì,” Charlie tư lự nói. “Nhưng cháu nghĩ cháu biết tên nhà mới của Billy. Nó tên là Ngôi Nhà Bất Chợt.”
“Ngôi Nhà Bất Chợt!” Ông Christopher vỗ một tay lên trán. “Trời đất. Ngôi nhà Bất Chợt không bao giừo có thể được coi là nhà. Gia đình Bloor dùng nó cho khách vãng lai: hoặc là kẻ cần có chỗ để lẩn trốn, hoặc kẻ mà gia đình Bloor muốn giấu. Nếu có Usher de Grey dính líu vô, thì Billy sẽ không thể nào rời khỏi được nơi ấy tới chừng nào Usherr muốn cho nó đi. Ôi, đứa trẻ tội nghiệp. Tôi phải cứu nó.”
“Nhưng làm thế nào Usher có tể cầm tù một thằng bé?” Cô Ingledew hỏi một cáchphẫn nộ.
“Cô thân mến, hắn có thể tạo ra một lực trường,” ông Christophẻ nhìn chằm chằm đôi bàn tay sần sùi, nổi mấu của mình và lắc đầu. “Tay đó hẳn có phép thuật rất mạnh và đáng ghét nhất. Khổ thân, Billy sẽ không bao giờ có thể thoát ra được. Bức tường vô hình của Usher manh hơn cả sắt.”
Thông tin nnày khiến tất cả mọi ngừoi ưu phiền đến nỗi sự im lặng ủ chụp xuống căn phòng, cho đến khi Ông cậu Paton đột ngột hỏi:
“Này Charlie, cái nút áo đó có gì quan trong?’
Charlei giải thích rằng Billy lthấy cái nút áo đó trong Ngôi Nhà Bất Chợt và cu cậu tò mò muốn xem cái nút có thể cho biết đềiu gì không.
“Chúng cháu có một người bạn, tên là Gabriel,” Charlie nói với ông Chrrítophẻ và cô Alice Angel, cả hai đang ngớ người ra.
“Gabriel có thể cảm nhận là có chuyện gì – có khi còn thấy nữa – nếu mặc đồ của ai đó vô. Chuyện nàu làm anh ấy khổ ghê lắm, cho nên anh ấy lúc nào cũng phải tránh xa đồ cũ. Mới đầu tụi cháu không nghĩ là tài phép của anh ấy có tác dụng với cái nút áo, vì mình đâu mặc được một cái nút, đúng không ạ? Nhưng sau đó cái nút có tác dụng.”
Một sự im lặng chờ đợi, cuối cùng Ông cậu Paton phá vỡ, ông nói:
“Và?”
“Và…” Charlie tự dưng bối rối. “Anh ấy thấy một người đàn ông, tóc đen, bị lẹt giữa những bức tường thủy tinh – là những tấm gương – tồi anh ấy nghe tiếng đàn dương cầm, nhưng không thể thấy cây đàn. Và rồi… và rồi…”
Charlie mô tả sự xuất hiện ghê rợn của con ngựa ma, và cuộc thí nghiệm chết khiếp trong phòng thí nghiệm của lão Ezekiel.
Căn phòng lập tức xao động bởi những tiếng thốt lên khiếp đảm và tiếng kêu rụng rời. Chính xác, những âm thanh phẫn nộ đó gay gắt và lớn đến độ Charlie cảm thấy u uẩn, và nó phải xin phép đi ra ngoài hít thở không khí.
“Phùù! Và mình không bao giờ nói với họ là con ngựa đã đi theo mình,” Charlie lẩm bẩm.
Nhing thấy một chiếc xe mooc đúng kiểu Di-gan, Charlie chia trí ngay lập tức, và nó lội băng băng qua thảm hoa cho tới khi tới một dãy bậc cấp bằng gỗ dẫn lên cửa xe mooc. Vừa đặt chân tính leo lên thì một chuyển động ở cuối khu vừon đập vào mắt nó. Thiệt lạ hết sức, Olivia đang trố mắt nhìn nó từ đỉnh một vách tương cao.
“Liv!” Nó gọi. “Olivia! Bồ làm gì ở đây?”
Olivia rớt toạch xuống pía bên kia bức từong.
“Cứ sở đó!” Charlei gọi.
Dẫm bừa lên đám cây nhỏ đẫm nước mưa, nó đến bên bức tường và gọi:
“Liv, bồ có ở đó không? Bồ dang làm gì vậy?”
Charlei hích người lên thành tường và ngó sang một khu vườn khác. Khu vườn này có vẻ ít khióa hơn. Một thảm cỏ xanh mượt bò toqứi sát tận một ngôi nhà lớn màu trắng mà Charlie nhận ra ngay lập tức. Ngôi nhà đó là nhà của gia đình Vertigo. Cô Alice Angel và Olivia là háng xóm của nhau. Thế quái nào mà Olivia lại không biết cô ấy nhỉ.
Không thấy bóng dáng Olivia đâu cả, vậy nên Charlei nhảy xuống khgỏi tường, lượm lên một trái táo đỏ au và trở vào nhà.
“À, cháu tìm thấy một trái táo,” cô Alice Angel rảng ỡ nhìn Chảlrie khi nó bước vào. “Táo đó ngon lắm.”
Tình hình đã dịu đi đôi chút, mặc dù Ông cậu Paton và chú Christopher Crowqiull giừo đang bàn luận cái gì đó, tuy thì thầm nhưng bức xúc.
“Cháu trông thấy bạn cháu, Olivia,” Charlie bảo cô Alcie Angel. “Cháu không biết là bạn ấy sống ở phía bên kia tưonừg nàh cô. Bạn ấy không nói chuyện với cháu.”
“Cô bé đang gặp khủng hoảng,” cô Alice Angel nói nghiêm trang. “Chuyện ấy thỉnh thoảng vẫn xảy ra khi người ra cố đấu tranh chống lại bản chất thật của mình. Cô hy vọng bạ ấy sẽ mau chấp nhận sự việc. Điều đó sẽ đưa đến thay đôi lớn lắm – cho tất cảc các cháu.
“Vậy sao?” Charlei băn khoăn. “Làm sao mà cô… Ý cháu là, cô có được ban phép thuật không, cô Angel?”
“Cứ gọi cô là Alice.” Đôi mắt màu xanh lá cây của cô lấp lánh. “Có. Cô có phép thuật.”
Charlie nôn nao muốn hỏi cô thêm nữa, nhưng đúng lúc đó Ông cạu Paton đứng lên, và phủi vụn bánh khỏi quần, ông nói:
“Chúng tôi phải về đây!”
Lúc tiễn khách ra về, ông christopher Crowquill cảm ơn những vị khách và nồng nhiệt bắt tay mọi ngườui:
“Tôi không thể diễn tả hết được việc viếng thăm của quý vị có ý nghiã như thế nào đối với tôi. Tôi có rất ít bạn trong cái thnàh phố tăm tối nay. Việc tù tội đã dạy cho tôi biết họ là ai. Alice Angel là tên thật của cô ấy. cô ấy đúng là một thiên thần. Không tuần nào trong suốt quãng thời gian dài dằng dặc tôi bị tống giam mà cô ấy không tới thăm tôi. Cô ấy mang cho tôi niềm hy vọng, và giừo cô ấy cho tôi chỗ nương thân. Nhưng tôi tha thiết mong anh chị hãy giữ bí mật nơi ở của tôi, kẻo không, thì cô ấy cũng sẽ gặp nguy hiểm không kém gì tôi.:”
Cac bvị kahchs thề sẽ khoong bao giờ nói cho một sinh linh nào về chuyến thăm của họ. Ông cậu Paton sốt sắng hơn bất kỳ ai:
“Chúng tôi sẽ liên lạc,” ông nói với ông Christopher. “Đừng mất hy vọng.”
Đèn đừong đã lêm. Và mặc dù trời đã tạnh mưa, Ông cậu Paton vẫn cẩn thận giấu mặt dưới tán ô, phòng khi lại gây ra một tai nạn khác. Cây dù cũng che luôn cả cô Julia, vì vậy không ai trong số họ trông thấy một hình thù màu xám dị hợm phóng vù vào bụi rậm ở bên kia hàng rào công viên. Charlie không chắc nó có thấy hay không, nhưng nó càng lúc càng tin là nó đã trông thấy, và đó không phải là một con cáo hay con chó, mà là một quái thú màu xám. Gián điệp là nghề ưa thích nhất của Asa Pike, vì vậy, nếu nó đã bám hộ, thì nhà số 15 Đại Lộ Công Viên ắt đã bị đánh dấu.
Charlie tự nhủ rằng Asa chắc chẳng thể đoán ra tại sao nó và Ông cậu của nó lại đến thăm cô Alice Angel. Lúc về tới đường Filbert thì nó cảm thấy đa an tâm, nhưng vẫn có một cái gì đó nó cần hải biết, và nó hỏi Ông cậu tại sao ông Christopher Crowquill lại gọi thành phố này là tăm tối.
“Ta nghĩ rằng, với ông ấy, nơi này tăm tối là vì ông ấy bị tống vô ngục,” Ông cậu Paton nói. “Đó là một điều kinh khủng khi mà người ta vô tội.”
“Không, còn hơn thê nữa,” cô Julia nói lặng lẽ. “Hãy nghĩ đến tất cả nhữung bi kịch đã ảy ra trên mảnh đất này, kể từ khi những đứa con của Vua Đỏ bắt đầu giết chóc lẫn nhau. Cô có trên một trăm quển sách cổ mô tả những trận chiến bất tận diễn ra tại nơi đây, kéo dài hàng bao thế kỷ. Người tốt thì bị vùi đạp, kẻ ác thì thắng thế.”
Rồi cô mỉm cười:
“Nhưng cô vẫn yêu thành phố này. Bởi vì cô nghĩ, muốn sóng sót qua tất cả nữung biến động đen tối, thì cái thiện đã phải khôn hone và mạnh hơn cái ác rất nhiều.”
Charlie nghĩ đến ba nó, bọ hãm hại, bị mất tích vì đã cố đấu tranh chống lại gia đình Bloor.
“Cô đã tìm ra cuốn sách về ngài Amadis,” Charlie nói. “Cô có nghĩ rằng chính ba con là ngươi fmà anh Gabriel thấy bị lẹt trong lâu Đài Gương không? Con biết ba con có tóc đen, và con biết ông bịl ẹt ở đâu đó, và lại có cả tiếng đàn dương cầm nữa.”
“Cô không nói chắc được, Charlie,” cô Julia nói khẽ khàng. “Nhưng cũng có thể.”
Họ về đến nhà số Chín, và Ông cậu Paton gập dù lại trong khi Charliechạy lên trước để tắt đèn hành lang, cũng như bất cứ bóng đèn nào có thể gặp rủi ro.
Nôi Bone đã tỉnh rượu.
“Cả đám mấy người nãy giừo ở đâu vậy?” bà gióng giả từ phòng khách.
“Đi dạo,” Ông cậu Paton đáp.
“Đi dao? Cái cô đó lại ở đấy nữa à?”
“Nếu chị định ám chỉ Julia thì, phải đấy, cô ấy ở đây,” Ông cậu paton giận dữ nói. “Chúng tôi sẽ uống một tách trà, và rồi tôi sẽ đưa cô ấy về nhà.”
“Mi nên chú ý đến đèn đóm thì hơn,” bà chị của ông phọt ra một tiếng cười thiệt quỷ quái.
“Tôi nghĩ tôi sẽ không uống trà gì đâu.” Cô Julia nói nhanh. “Emma tới nhà một người bạn, nhưng nó sẽ trở về ngay thôi.”
Khi Ông cậu paton hộ tống cô Ingledew xuông lại những bậc cấp, cô quay lại nói:
“Emma có một con thú cưng mới, Charlie à.”
“Con gì ạ?” Charlie hỏi.
“Ngày mai con sẽ thấy nó,” cô Julia nói, khoác tay Ông cậu Paton,”khi Emma mang nó tới quán Cà Phê Thú Kiểng.”