Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Charlie Bone 4: Charlie Bone Và Lâu Đài Gương

Chương 10

Tác giả: Jenny Nimmo

Xuyên thủng lực trường

Billy luôn luôn ăn tối một mình trong phòng. Khi ăn xong, nó sẽ mang khay xuống nhà bếp và ở đó nó sẽ rửa hết chén dĩa của cả nhà, trong khi gia đình de Grey ngồi bên bàn, tính toán tài khoản.

Vào đêm mà Billy hy vọng sẽ trốn thoát, nó để ý thấy mụ Florence có một chồng mẫu đơn ở trước mặt. Mụ lướt nhanh những tờ giấy, liếm ngón tay cái và mỉm cười đầy thoả mãn.

Những xấp giấy ghi lời thề, Billy nghĩ. Nó nhận ra cần phải làm sao để huỷ được những lời thề của chính nó, để có thể thoát khỏi gia đình de Grey mãi mãi, thoát thật sự. Nhưng những lời thề được cất giữ ở đâu? Nó cần phải tìm ra.

Billy lau khô chiếc dĩa cuối cùng và xếp vào tủ đựng đồ sứ.

“Chúc mẹ ngủ ngon! Chúc ba ngủ ngon,” nó nói.

Nó nhận thấy nó không tài nào gọi hai người ấy bằng tên được, như họ yêu cầu.

“Cám ơn vì cho con ăn bữa tối ngon,” nó nói thêm.

“Ăn gì?” Mụ Florence hỏi, không hề ngước lên.

“Một chiếc bánh mì kẹp,” Billy nói.

“Kẹp gì?” Lão Usher hỏi.

Billy cần phải nghĩ thiệt khó khăn về món kẹp.

“Con nghĩ đó là bơ thực vật,” nó nói.

“Hết đau rồi hả…cưng?” Mụ Florence liếc nó một cái qua quýt.

“Dạ rồi, cảm ơn.. mẹ.”

“Chúng ta hy vọng con sẽ không bệnh lần nữa,” mụ Florence nói, đánh dấu kiểm vào một trong những tờ giấy.

“Dạ. Chúc ba mẹ ngủ ngon.”

Chẳng ai trong gia đình de Grey thèm để ý tới Billy khi nó rời nhà bếp. Nó bước qua hành lang lát gạch, bảo hai bàn chân phải hành xử sao cho bình thường, nhưng cái đầu cứ rối tung rối bời, đến nỗi nó không thể nhớ ra trước nay mình vẫn đi như thế nào nữa. Khi đ đi đến cầu thang, nó vọt lên, hai bậc một, nôn nóng chuẩn bị cho một đêm trước mặt.

Gia đình de Grey không bao giờ ghé qua ngó Billy vào ban đêm, nhưng để phòng hờ, nó tròng bộ đồ ngủ ra bên ngoài bộ đồ thường ngày. Thay vì leo lên giường, nó nhón chân ra chiếu nghỉ và chờ mụ Florence rời nhà bếp. Vào đúng bảy giờ, mụ đi ra, mang theo cái giỏ xách màu xám. Billy lủi vào bóng tối khi mụ băng qua hành lang và đi vào một thư phòng nhỏ ở đầu đằng kia. Mụ ra khỏi phòng mà không mang theo giỏ xách.

Billy kiễng chân trở vào phòng nó. Để cửa khép hờ, nó tháo mắt kiếng ra và đặt lên cái bàn bên cạnh giường, rồi leo lên giường. Đó là một đêm dài nhất, chưa từng thấy. Đồng hồ nhà thờ lớn điểm mười hai giờ, rồi một, rồi hai, rồi ba. Mất hết hy vọng được giải cứu, Billy thiếp đi trong giấc ngủ đầy mộng mị.

Trong lúc Billy ngủ, những đám mây đêm cuộn đi, để lộ một bầu trời nhẹ tênh màu xám nhạt. Thành phố vẫn còn bị màn sương bao bọc; từ trên cao, chỉ thấy được những tháp mái của những toà nhà cao nhất, những phiến đá ướt át của chúng lấp lánh trong ánh bình minh.

Từ một đống lá vàng tấp ụ quanh một thân cây xám tro, một con mèo cam hiện ra. Bằng một động tác nhanh đến sững sờ, nó nhảy phóc lên một mái nhà cách đó mấy thước. Tiếp bước nó là một con mèo vàng và rồi một con mèo nữa, màu lửa rực. Ba con mèo phóng ào ào qua những đỉnh nóc nhà cho tới khi chạm một ô cửa trời để mở. Lần lượt, con này tiếp con kia, lũ mèo rớt tòm vào một căn phòng trống ở lầu trên cùng của Ngôi Nhà Bất Chợt.

Usher de Grey quá tự tin về lực trường của mình đến nỗi không thèm đóng bất cứ cánh cửa nào. Những con mèo lửa tìm được đường xuống ngôi nhà không mấy khó khăn, nhưng chúng nhận thấy rằng nơi này giăng đầy những ma thuật hiểm độc. Tuy nhiên, với chúng, phá vỡ lực trường cũng dễ như là bước xuyên qua giấy.

Con mèo đen nhỏ đang chờ các bạn nó trên chiếu nghỉ.

“Để tôi đi gọi cậu bé,” nó nói.

Billy giật mình tỉnh giấc khi Vuốt Sắc nhảy lên giường.

“Tới lúc đi rồi, Billy!” Con mèo thì thầm.

Billy dụi mắt, đeo kiếng lên, rồi tuột khỏi giường, nó cởi bộ đồ ngủ ra. Bất giác, nghĩ tới việc sắp làm mới to lớn làm sao, nó rùng mình khiếp mãi. Nó nhìn quanh căn phòng, nhìn cái T.V, cái máy tính, những cuốn sách, những trò chơi – tất cả sẽ là của nó nếu nó ở lại đây mãi mãi. Nó sắp quăng mình vào thế giới của một con mèo đen nhỏ. Liệu nó có thể tin được con mèo không?

Nhưng khi trông thấy những con mèo lửa, thần kinh Billy dịu hẳn đi, nhờ tiếng rù trấn an và những màu sắc ấm áp ở chúng. Giờ nó cảm thấy nó có thể làm bất cứ điều gì.

Florence và Usher de Grey đang ngủ say như chết, chứng tỏ câu tục ngữ cổ “kẻ xấu xa không bao giờ ngủ” dường như sai bét. Khi Billy và bọn mèo đi ngang qua phòng, họ vẫn ngủ say sưa, sung sướng tận hưởng thứ giấc mơ mà hầu hết mọi người đều coi là ác mộng.

Trong ánh sáng kỳ lạ của lũ mèo, Billy có thể thấy rõ mồn một lực trường của Usher. Những sợi chỉ xanh da trời sáng quắc giăng ngang hành lang giống như những sợi tơ của một mạng nhện khổng lồ. Những sợi chỉ xanh da trời ấy đặc biệt dày đặc ở trước những cánh cửa mà chúng bao phủ, và trái tim Billy chùng xuống khi nó thấy cánh cửa văn phòng mà mụ Florence cất túi đựng những lời thề.

Lũ mèo nhảy gọn gàng xuống cầu thang, và khi tới dải xanh da trời đầu tiên, chúng phóng xuyên qua, bỏ lại những sợi tơ đứt treo phất phơ trong không trung.

“Đi, Billy. An toàn mà!” Con Dương Cưu nói.

Billy chạy xuống hành lang và cẩn thận đi theo lộ trình của lũ mèo, chui qua lực trường.

“Trước khi rời đây tôi phải vô căn phòng đó đã,” nó chỉ thư phòng.

Ba con mèo quay ánh mắt sáng rực của chúng về cánh cửa. Nhân Mã, con mèo vàng, đi trước. Dựng đứng trên hai chân sau, nó xé toang màng chỉ bao quanh cánh cửa căn phòng. Billy lần tìm vặn nắm đấm và cửa mở ra. Chiếc giỏ xám dựng tơ hơ trên sàn nhà, ngay bên trong. Khi Billy cầm giỏ lên, nó thấy khoá gài bật mỏ ra ngay khi nhấn vào. Mụ Florence rõ ràng đã quá tin tưởng rằng sức mạnh của chồng có thể canh giữ bộ sưu tập lời thề của mụ.

Billy lẹ làng lục tìm khắp những xấp giấy trong giỏ, và khi tìm thấy những tờ giấy có ký tên mình, nó lôi ra. Đang đút mớ giấy vào áo len, thì nó cảm thấy mắt của bọn mèo chĩa xoáy vào nó. Nó ngước lên và hiểu ra bọn chúng muốn nó làm gì.

“Tôi nên lấy tất cả đi, phải không?” Nó nói. “Để tất cả được sự tự do.”

“Phải, Billy,” lũ mèo đồng thanh trả lời. “Tất cả.”

“Lẹ lên,” Sư Tử thêm. “Họ thức dậy bây giờ.”

Vừa chạy ra khỏi căn phòng, Billy vừa cất lời thề của nó vào chỗ cũ và kẹp chiếc giỏ xách xám dưới nách. Những con mèo lửa đang xuyên qua mảng chỉ bao quanh cửa trước. Khi chúng đã phá vỡ màn bao, Billy giật nắm cửa. Một tiếng rít thốn óc vang khắp ngôi nhà khi nó mở cánh cửa ra, và con mèo đen gọi:

“Chạy đi, các bạn. Hắn thức kìa.”

Billy nhào qua cánh cửa cùng với tiếng rống cuồng điên của Usher văng vẳng bên tai:

“Thằng oắt chuồn! Dậy! Dậy!”

Phóng thục mạng trên con đường khúc khuỷu của Ngõ Quanh Co, Billy mừng húm vì có ánh sáng loang loáng của những con mèo lửa, nhưng nó vẫn khiếp hãi. Giờ nó sẽ đi đâu? Và làm sao nó tới được nơi đó?

“Can đảm lên,” Sư Tử khích lệ, chạy bên cạnh nó.

Nhân Mã, con sáng nhất, phóng lên trước, trong khi Dương Cưu đi bọc hậu, thỉnh thoảng lại ngó nghiêng quan sát con hẻm tối mù đằng sau chúng.

Giờ cả nhóm đã ra đến đường cái, và chạy về phía nhà thờ lớn. Khi chúng phóng băng qua quảng trường rải sỏi, đồng hồ điểm năm giờ đúng và một bầy quạ gáy xám xồ lên, kêu quang quác trên bầu trời bình minh. Billy nhìn hau háu vào tiệm sách cô Ingledew. Nó biết Emma Tolly sống ở đó, nhưng Sư Tử cảnh báo:

“Không dừng lại, Billy. Chỗ đó không an toàn!”

Xuôi theo Đường Chính và xuyên qua thành phố. Tim Billy đập như điên. Nó bắt đầu nghĩ rằng nếu như những lời thề không giết nó thì cuộc hành trình này chắc chắn cũng giết nó. Nó nghe thấy tiếng rồ của động cơ đang tiến đến gần, từng giây, từng giây một. Không giảm nhịp bước, Billy ngoái lại và thấy một chiếc xe hơi xám lú ra khỏi màn sương đằng sau. Gia đình de Grey.

“Đường này!” Nhân Mã ra lệnh, vù vào ngõ hẻm.

Làm thế nào chúng tới được Khu Đồi Cao, Billy không bao giờ biết. Nó chưa bao giờ phải chạy nhiều như vậy, tuy thế, nó đã chạy không hề ngơi nghỉ tính từ lúc rời khỏi Ngôi Nhà Bất Chợt. Phải chăng bọn mèo đã cho nó mượn sức mạnh khi chúng dẫn nó chạy băng qua những con phố mù sương?

Sư Tử trả lời cho câu hỏi mà Billy không nói ra:

“Sức mạnh của Nhà Vua, Billy.”

Khi đến đầu đoạn dốc lên Khu Đồi Cao, chúng vượt qua một ngôi nhà gạch đỏ có một bức tường cao và một cái cổng lớn gài then chắc chắn. BIỆT THỰ LOOM – tấm biển ngoài cổng ghi. Billy chạy qua khỏi ngôi nhà vài thước thì đột nhiên cánh cổng bật bung và bốn con chó đen vọt ra đường. Thay vì dấn nhanh hơn, Billy đứng sựng lại, kinh hãi đến nỗi không nhúc nhích nổi. Những con mắt hung tợn, đen thui của bọn chó săn xỉa thẳng vào nó và những quai hàm vuông chành của chúng bạnh ra, để lộ những hàm răng dài sọc, giết chóc.

Những con mèo lửa vây quanh Billy, gừ lên đe doạ. Bọn chó cụp đầu xuống và gầm gử.

“Chạy tiếp, Billy,” Dương Cưu hô.

Billy lệt bệt tụt lại, hai đầu gối run rẩy gần như không đỡ nổi nó nữa. Ngay khi nó nghĩ chân cẳng mình chắc sẽ sụm hoàn toàn, thì một tiếng sấm dựng tóc gáy rền lên, chặn bọn nó lại giữa đường. Một giây sau, một ánh chớp rạch toang bầu trời và bọn chó đen chạy bán sống bán chết vào nhà, tru lên khiếp đảm.

“Nào, Billy. Chuồn thôi!” Sư Tử nói.

Billy trông thấy những bóng đèn trước của xe hơi đang chọc qua màn sương mù, và túm chặt lấy giỏ lời thề, nó cắm đầu chạy. Con đường mòn càng lúc càng dốc hơn, nhưng nó vẫn không lơi bước. Tim nó dộng bình bịch, đầu nó quay cuồng, và chân nó run lẩy bẩy, nhưng nó vẫn chạy trối chết và lần này nó không thể dừng lại nữa. Chiếc xe vẫn lừ lừ tiến tới, gần hơn và gân hơn qua làn sương. Chẳng bao lâu nữa chiếc xe sẽ đuổi kịp chúng.

Mưa tuôn xối xả xuống con đường. Sấm ì ầm trên đầu và nước mắt Billy hoà trộn với nước mưa chảy ròng ròng xuống mặt.

“Em không thể chạy nhanh hơn xe hơi được,” nó nức nở. “Không chạy được. Không chạy được. Họ sẽ bắt em mất.”

“Không,” Sư Tử gầm gừ. Billy ngước lên đúng lúc một quả cầu lửa từ trên bầu trời sấm chớp ầm ầm lao xuống. Quả cầu đâm mạnh, trúng nắp đậy máy của chiếc xe xám cùng với một tiếng rầm xé tai. Động cơ xe bùng cháy.

Gần như không tin vào những gì mắt mình trông thấy, Billy quay lại và chạy tiếp lên đồi.

“Phải đó là Tancred không?” Nó thở hồng hộc. “Tancred và bão tố của anh ấy.”

“Rất giống,” Sư Tử đồng ý.

Con đường quẹo gắt, và Billy, người còng cả xuống vì giỏ đựng lời thề, thấy nó giống như một cái vòi rồng cuốn lên trời. Mưa đổ như trút nước, và hoà cùng một cơn gió mạnh thình lình, một tiếng thét hung tàn, ghê rợn rống lên:

“Billy Raven! Đừng hòng, đừng hòng, đừng hòng!”

Mụ Florence de Grey vẫn cố đuổi theo. Nhưng không còn chiếc xe, cuộc đua trở nên cân sức.

Hự lên một tiếng bất chấp, Billy chồm tiếp, lên đồi, và khi cơn gió thổi rít tợn hơn, nó mở cái giỏ xám và rút ra một nắm tờ lời thề. Chìa chúng ra trước gió, Billy để cho chúng bay đi. Chưa bao giờ nó cảm thấy khoan khoái như khi làm như vậy. Nó thọc tay vào giỏ và thả ra một nắm giấy khác. Thêm một nắm nữa, nắm nữa, cho tới khi chiếc giỏ trống trơn và không trung xoắn đặc những tờ giấy bị gió cuốn bay chấp chới. Và Billy tin chắc mình đã nghe thấy tiếng thì thầm hy vọng của những kẻ cùng quẫn bị mụ Florence triệt tiêu, phỉnh lừa – tên của họ giờ được cơn mưa tẩy sạch.

“Tốt! Tốt!” Lũ mèo hoan hô.

Toét miệng cười, Billy thảy chiếc giỏ xám vào lòng cơn bão, và một giọng từ xa hú lên:

“Thằng ngu! Mày sẽ bị trừng phạt. Hãy đợi đấy!”

Charlie thường không bao giờ dậy sớm lúc sáu giờ bảnh mắt vào sáng Chủ nhật như thế này. Thực ra nó không thể nhớ được mấy giờ là mấy giờ, nên nó phải dí sát chiếc đồng hồ đeo tay lên đôi mắt ngái ngủ. Cây dẻ bên ngoài cửa sổ phòng nó đang lắc lư rào rạo trong gió và sấm đùng đoàng đằng xa. Và rồi chuông cửa reng.

Quăng đôi chân xuống sàn. Charlie lết mình tới cửa sổ và ngó ra. Nó vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc xe Land Rover quen thuộc bên ngoài nhà số Chín. Đứng ở ngưỡng cửa là một người trông bộ nhấp nhỏm, ướt rượt. Đó là ông Silk, cha của Gabriel.

“Chào bác Silk!” Charlie gọi.

“A, Charlie,” ông Silk gãi gãi gáy, như thể ông không chắc mình có muốn làm điều mình đang làm hay không.

“Bác đến để chở cháu đi,” ông nói.

“Chở cháu đi?” Charlie càng ngạc nhiên tợn.

“Hình như là…” ông Silk bắt đầu.

Ông không nói được thêm bởi vì cánh cửa thình lình bị nội Bone mở tung ra.

“Gì đó?” Bà hất hàm hỏi theo kiểu thô lỗ của mình. Hôm nay nghe còn cộc cằn hơn thường ệ.

“Tôi đến…” ông Silk lại nói.

Một làn nữa ông bị nạt ngang.

“Ông nghĩ giờ này là mấy giờ, hả?” Nội Bone hạch hỏi.

Lúc này đã tỉnh ngủ hẳn, Charlie bắt đầu quăng ra từng món quần áo. Có lẽ một chuyện gì đó đã xảy ra với Gabriel, hay với một anh bạn khác sống ở Khu Đồi Cao, Tancred hay là Lysander.

Charlie chạy xuống hành lang nơi nội Bone vẫn đang thuyết giáo cho ông Silk nghe về tính ích kỷ của việc dựng mọi người dậy vào sáng sớm Chủ nhật. Ông Silk giờ đã ướt nhem ướt nhẹp và trông bộ trầm cảm lắm.

“À, Charlie, đi nào,” ông nói, quay lưng khỏi người phụ nữ hung bạo.

“Tôi phải nói với mẹ nó sao đây?” Nội Bone quát.

“Nói với mẹ là con tới nhà anh Gabriel,” Charlie nói, hấp tấp đi theo ông Silk. Nó nhận thấy một hũ sữa chua đậu phộng ưa thích nhất của Ông cậu Paton thò ra khỏi túi chiếc áo choàng ngủ của bà nội nó, và chỉ để cho bà bớt hung hăng đi, nó thêm:

“Con cá là nội dậy sớm để ăn hết sữa chua của Ông cậu P.”

Nội Bone nguýt cho Charlie một cái căm ghét và đóng sầm cửa lại.

Charlie nhảy tọt vào trong chiếc xe Land Rover và ông Silk lái đi. Sấm chớp đồng hành với họ suốt quãng đường tới Khu Đồi Cao; cùng với tiếng động cơ và tiếng mưa nện ình ình trên nóc, Charlie phải hét om lên mới nghe được chính tiếng mình.

“Có chuyện gì vậy, bác Silk?” Nó hỏi.

“Thiệt khó nói,” ông Silk tỏ ra lấp vấp, tuy ông là một nhà văn viết chuyện kinh dị. Ông giống Gabrielở gương mặt dài, bơ phờ. Họ thậm chí còn có mái tóc dài, rũ rượi giống y nhau, mặc dù tớc của ông Silk xác xơ hơn. Bồi thêm vào, ông còn có bộ ria dày, quặp rũ xuống. Suy nghĩ một thoáng, ông nói:

“Có một thằng bé ở trong chuồng chuột của Gabriel.”

“Thằng bé nào?”

“Thằng bé tí, tóc trắng, đeo kiếng.”

“Billy!” Charlie thốt lên. “Vậy là nó đã trốn thoát!”

“Nó nói nó muốn gặp cậu. Gabriel năn nỉ bác tới đón cháu. Ừ, cả nhà bác chả ngủ nghê gì được vì bão ì ầm. Cái thằng bão tố, thằng Tancred ấy, nó nói bão sắp tan ngay thôi. Dẫu gì cũng phải từ từ, một khi nó đã nổi sấm hết cỡ như thế. Cũng thông cảm được thôi, bác nghỉ thế.”

“Dạ,” Charlie rất ấn tượng trước sự thấu hiểu của ông Silk.

Đi được nửa dặm qua khỏi cánh cổng đôi của Biệt Thự Loom (bốn con chó săn sủa lồng lên khi nghe tiếng họ đi ngang), chiếc Land Rover vù qua một chiếc xe hơi dúm dó, bị phong toả bởi hàng rào cảnh sát. Nắp đậy máy xe sập hẳn xuống, nước sơn trầy tróc, kính chắn gió bể vụn và bánh xe chỉ còn là một đống cao su chảy nhoét.

“Ối! Chiếc xe đó coi bộ bị sét đánh!” Charlie kêu lên.

“Đúng phóc,” ông Silk nói. “Tài xế vô nhà thương nhưng vợ ông ta không bị trầy xước gì, ngoại trừ bà ta hình như phát điên.”

“Ý tưởng hay cho một câu chuyện kinh dị, phải bác Silk?” Charlie gợi ý.

“Ừmm!” Nhà viết chuyện kinh dị vuốt ria mép, vẻ trầm tư.

Charlie sượt thấy nhà của Lysander khi họ đi ngang qua một cánh cổng đôi cao bằng sắt rèn. Cha của Lysander là thẩm phán Sage nổi tiếng, và ngôi nhà phản ánh địa vị quan trọng của ông.

“Cậu bé nhà Sage cũng đang ở nhà bác,” ông Silk bảo Charlie. “Và cả Tancred Torsson nữa. Nhà bác chưa bao giờ có nhiều khách vào sớm Chủ nhật như thế.”

Rồi ông quẹo chiếc Land Rover vào một mảnh sân sình lầy nhớp nhúa và dừng lại trước một ngôi nhà trông ọp ẹp.

Charlie nhảy từ chiếc Land Rover ra, đáp thẳng xuống một vũng nước sâu. Nó ước gì đã nhớ mang theo ủng, nhưng giờ thì đã quá trễ. Ông Silk chỉ ra bên hông nhà, chỗ một lối đi hẹp dẫn tới cánh đồng đằng sau nhà.

“Tất cả đang ở trong chuồng chuột,” ông bảo. “Đừng hỏi bác tại sao.”

“Dạ,” Charlie lội bì bõm qua vũng bùn về phía một cái chòi lớn, nơi Gabriel dành rất nhiều giờ rảnh rỗi của nó ở đó, chăm sóc lũ chuột đủ màu. Dòng chữ CHUỘT KIỂNG NHÀ SILK được sơn màu đỏ vắt ngang cánh cửa. Charlie nghe thấy có tiếng rù rù rì rì vọng ra từ bên trong chòi, nhưng tiếng này im bặt khi nó gõ cửa – cửa khoá.

“Ai đó?” Gabriel hỏi.

“Em,” Charlie đáp.

Sau một lát la oai oái và bước lạch bạch, Gabriel mở cửa và Charlie bước vào chòi. Nó thấy Tancred và Lysander đang ngồi trên một băng ghế bên dưới một dãy kệ đặt lồng chuột. Băng ghế đó là một trong số ít ỏi những chỗ không có lồng chuột – bởi vì lồng chuột xếp lớp khắp các bức tường, từ sàn lên tới trần. Cơ man nào là chuột trắng, chuột đen, chuột vàng, chuột nâu, chuột lông dài, chuột lông ngắn, chuột lớn và chuột nhỏ. Mùi rất gây rất nồng.

Billy Raven đang ngồi xếp bằng dưới sàn nhà. Nó coi bộ hài lòng, và khi Charlie bước vào nó toét miệng cười ngoác với Charlie.

“Billy, em ra được rồi!” Charlie hét lên. “Em làm cách nào vậy?”

“Những con mèo lửa giúp em. Chúng phá vỡ lực trường.”

Ẩn sau nụ cười, Charlie cảm thấy Billy đang rất hãi hùng.

“Vấn đề là, bây giờ thì sao?” Lysander nói. “Billy nói em biết cách. Chính vì thế mà mời em tới đây, Charlie.”

“Nó không thể ở đây lâu được,” Gabriel nói, giữ cánh cửa và chen vào đằng sau Charlie. “Cái bà de Grey đó thể nào rồi cũng đoán ra nó đi đâu.”

“Mình muốn khử quách bà ta đi!” Tancred nắm chặt nắm tay lại, và một luồng gió mạnh quét quanh căn chòi, dựng hết tóc mọi người lên và khiến lũ chuột la rùm, cuống quýt tìm chỗ núp.

Billy úp chụp hai bàn tay lên tai:

“Em không thể nào suy nghĩ được khi chúng cứ nói thế suốt,” nó than van. “Ở đây sao mà lắm chuột thế, chúng chẳng cho em yên lấy một phút.”

“Chúng nói gì vậy?” Gabriel hỏi. “Tôi lúc nào cũng muốn biết.”

Billy trố mắt nhìn Gabriel, hai tay nó bịt chặt tai hơn. Lysander gỡ một bàn tay Billy ra và hét lớn:

“Gabriel muốn biết bọn chuột đang nói gì.”

“Chúng nói: ‘Cứu tôi với!’ ‘Hự!’ ‘Lại tới nữa!’ ‘Kệ xừ tụi nhóc!’ ‘Cái đó của tao!’ ‘Xéo đi!'”

Ngừng một lát, Billy tiếp:

“Thiệt tình, chán ngắt.”

“Nhưng tôi thì không chán,” Gabriel nói.

Lysander giơ bàn tay lên làm cử chỉ ra lệnh:

“Chúng ta trở lại vấn đề được không? Không dễ gì kiếm được một chỗ an toàn cho Billy, một nơi không ai nghĩ ra mà săn lùng. Rõ ràng là tất cả nhà của tụi mình đều nằm trong diện tình nghi vì tụi mình có phép thuật. Rủi quá, ông thẩm phán đi vắng, không thì anh đã hỏi ý kiến rồi.”

Gabriel đề nghị là bữa điểm tâm sẽ giúp cả bọn suy nghĩ sáng suốt; và rồi nó rời chuồng chuột, hứa sẽ quay lại với trứng chiên, thịt xông khói và bánh mì nướng.

Hé mắt nhìn qua ô cửa sổ nhỏ giữa những lồng chuột, Charlie ngó Gabriel đi vào một cánh cửa ở mặt sau ngôi nhà.

“Tại sao tụi mình lại phải ăn ở đây?” Nó nói.

“Để bảo vệ gia đình của Gabriel,” Lysander nói. “Họ không thể tự vệ chống lại.. bất cứ thứ gì mà những người đó sẽ phái tới để truy đuổi Billy. Và họ sẽ gởi tới thứ gì đó cho coi, tin anh đi. Dẫu gì tụi mình cũng là dân được ban phép thuật. Tụi mình chống cự được mà.”

Lời của Lysander cứ như lời tiên tri, bởi vì ánh sáng ban ngày vừa mới bắt đầu lọt qua cửa sổ nhỏ bỗng thình lình tắt ngúm, và cả bọn bị chìm trong một màn đen. Ngay cả bọn chuột cũng im thin thít khi có một tiếng gõ nhẹ nghe thấy trên mái nhà.

“Cái khỉ gì…” Tancred nói.

Tiếng động rõ dần cho đến khi nó trở thành tiếng trống khua dồn. Như thể có hàng triệu bàn tay nhỏ tí xíu đang gõ từng bề mặt của căn chòi, và căn chòi bắt đầu rên lên và rung chuyển dưới sức tấn công đó.

Nóng lòng muốn biết cái gì ở bên ngoài, Charlie lần tìm chốt cửa. Nó tự nhủ rằng mở cửa ra coi chừng là không khôn ngoan, nhưng đến lúc đó đã quá trễ, và nó đã hé nhìn ra.

Một đám mây giấy cuồn cuộn bay vù về phía Charlie, và trong chớp mắt, nó thấy Gabriel ló ra khỏi nhà rồi bị đám giấy bay nuốt chửng. Gabriel té nhào xuống đất và khay đồ ăn sáng tú hụ văng khỏi tay nó. Cái khay rớt xoảng xuống mảnh sân rải sỏi, làm đô ăn bay tung toé.

Khi đám giấy luồn vô chuồng chuột, Billy Raven chồm đứng dậy, la thất thanh:

“Đó là những lời thề!”

Trận chiến giữa những lời thề và hồn thiêng

Charlie đóng ập cửa chuồng chuột lại, nhưng vài tờ giấy ghi lời thề đã lẻn được vào trong. Chúng bay thẳng đến Billy và bám dính lên mọi phần thân thể của thằng bé. Billy thét toáng lên, vì đau hay vì sợ, Charlie không biết. Nhưng khi nó cố rứt đám giấy ra khỏi người Billy, nó thấy mỗi tờ giấy đều có một cái mép xanh lá cây rực rỡ, cắm chặt vào da thịt nó ngay lúc nó sờ vào.

Tancred và Lysander cũng đang giật rứt giấy, và cả chúng cũng bị cắn, bởi những linh hồn hiểm ác, hay cái thứ gì đó nằm trong đống giấy ghi lời thề chết người của mụ Florence de Grey. Cứ thế, hễ bứt được tờ giấy nào ra, thì những tờ khác lại lao phập vào Billy. Chúng cố xé tan giấy ghi lời thề, nhưng từng mảnh vụn giấy li ti vẫn cứ lại bay ngược về và bám rịt vào Billy. Khi chúng vo giấy thành cục, giấy liền vặn vẹo trong lòng tay, cắn ngón tay và đốt bỏng gan bàn tay. Những tờ giấy bị vo tròn thì cứ bung ra lại và tấn công tiếp.

“Tụi mình phải tống chúng ra!” Lysander hét om sòm, trong khi Billy lăn lộn la thét và bứt tóc.

“Mở cửa ra, Charlie, chút xíu thôi,” Tancred thét. “Để anh thổi chúng ra.”

“Lỡ chúng vô thêm thì sao?” Charlie nói, hết cả hơi.

“Phải liều thôi,” Tancred bảo nó.

“Chúng có mười hai tờ – anh đếm rồi,” Lysander nói. “Nào nào, tụi mình cứ thử đi.”

Mỗi tờ giấy ghi lời thề được rứt khỏi người Billy liền bị một luồng hơi lạnh tống xuyên qua một lỗ cửa tí nị mà Charlie hé ra. Sau đó Charlie sập cửa lại ngay lập tức. Thủ thuật di dời này không dễ chút nào, vì Tancred cần nhiều chỗ để dồn sức tạo được một luồng hơi mạnh; và khi Charlie muốn tới được cửa chính, nó cần phải né cho xa cánh tay quay tít của cậu bé bão tố.

Tiến trình diễn ra chậm chạp một cách đớn đau, nhưng cuối cùng tất cả bọn giấy ghi lời thề cũng bị đuổi đi và bốn kẻ cư ngụ trong chuồng chuột đổ gục xuống băng ghế, an toàn, ít nhất là được một lúc. Bàn tay chúng đầy những vết bầm đỏ loét, nhưng mặt Billy còn thảm hại hơn cả hai bàn tay. Sắc mặt tái mét của nó càng khiến cho những đường lằn đỏ thẫm hiện lên rõ rệt hơn. Vùi mặt trong lòng bàn tay, thằng bé khuỵu xuống sàn nhà và bật khóc nức nở.

“Nín đi nào, Billy,” Lysander nói, vỗ về đôi vai gầy guộc của thằng bé. “Bây giờ xong rồi mà.”

“Không xong. Không xong,” Billy khóc ròng. “Và tát cả là lỗi tại em.”

“Không phải lỗi tại em,” Tancred tuyên bố. “Nhưng dù sao em cũng đúng một điều. Đúng là chưa xong. Trước hết, tụi mình sẽ ăn sáng bằng cách nào đây? Anh chết đói rồi.”

Lysander bỗng bắn cho Tancred một tia nhìn cảnh cáo, khi mặt Billy bắt đầu nhăm nhúm lại.

Bọn giấy ghi lời thề bâu kín cửa sổ, nhưng, nhìn hé qua một lỗ hổng tí xíu chen giữa chúng, Charlie thấy được một chút quang cảnh ngoài sân. Không thấy bóng dáng Gabriel đâu, nhưng Charlie thấy được bốn trái trứng chiên, vài lát bánh mì nướng, và một ít thịt heo muối giòn trông mê ly, tất cả đều nằm dưới bùn. Cảnh tượng thiệt u uất. Nó vừa định quay vào thì bắt gặp gương mặt Gabriel dòm ra từ cửa sổ nhà bếp. Gabriel giơ hai ngón tay cái lên ra hiệu với nó, và Charlie chợt có một hy vọng điên cuồng là một kế hoạch giải cứu bọn chúng đã được họach định xong.

Một đám mây giấy thình lình sà xuống, cuốn phăng niềm hy vọng của Charlie, khi gương mặt khiếp đảm của Gabriel biến mất đằng sau bọn lời thề có cạnh xanh lá cây, đeo bám dai như đỉa. Chúng bu kín cửa sổ nhà bếp như một đàn dơi rít om trời.

“Gabriel không ra được chỗ tụi mình,” Charlie nói một cách u uẩn. “Nhưng có lẽ sau một lúc bọn lời thề bị tẩm độc này cũng sẽ suy yếu thôi. Có thể chúng sẽ ngủ.. hoặc chết.”

“Chúng sẽ không bao giờ chết,” Billy lúng búng.

“Nếu bão không thể hạ được chúng thì anh không biết cái gì có thể hạ được đây,” Tancred nói vẻ buồn thảm.

Một sự thinh lặng đầy thất vọng ngự trị trên bốn kẻ bị giam cầm. Bụng Tancred sôi ùng ục, Billy chùi gương mặt lấm lem nước mắt của nó bằng mu bàn tay và Charlie rớt phịch xuống sàn bên cạnh Billy, cảm thấy vô vọng.

Bỗng nhiên, Lysander loan báo:

“Sẽ giết được chúng!”

Cả bọn nhìn nó, và Charlie hỏi:

“Bằng cách nào?”

“Tổ tiên của anh,” Lysander nói. “Họ hùng mạnh hơn đám lời thề tầm thường này nhiều. Nhưng để gọi được họ, anh cần phải ra ngoài.”

Tancred nhảy đỏng lên:

“Không được đâu Sander. Vậy là tự sát. Chúng phải có cả ngàn cái ở ngoài kia. Chúng sẽ ăn tươi nuốt sống bồ hoặc… hoặc đập bồ đến chết.”

“Không.” Cậu bé châu Phi mỉm cười. “Tổ tiên của mình sẽ bảo vệ mình.”

Rồi nó bước hẳn ra cửa:

“Tancred, bồ phải giúp mình. Nếu bọn quỷ quái đó luồn vô trong khi mình mở cửa, thì phải có một luồng gió thổi sau lưng mình để xua chúng đi. Bồ sẵn sàng chứ?”

Nhưng trước một sự ra đi quyết liệt như thế thì biết sẵn sàng thế nào? Một khi chí Lysander đã quyết, thì nó không bao giờ do dự. Trước khi Charlie kịp có thời gian để nghĩ cho chín, thì cửa đã mở ra và Lysander lao ra ngoài. Tancred vươn cánh tay hậu thuẫn khoát một hình vòng cung về phía bọn giấy ghi lời thề đang cố lọt vào trong. Một tờ lọt vào được trước khi cửa đóng sập lại, nhưng khi cái vật hung ác ấy bay về phía Billy, Tancred đã chụp được, và với sự giúp sức của Charlie, Tancred đã tống tiễn tờ giấy qua cửa bằng một luồng hơi khác.

“Úi! Bọn nó đang mạnh lên kìa,” Tancred nói, xem xét đôi bàn tay mình. “Coi này! Những vết cắt sâu hơn.”

Charlie dòm trân trân vào những vết cứa đâm toạc những ngón tay của Tancred. Chúng cần băng cá nhân khẩn cấp.

“Đây. Em có một cái khăn tay.” Billy lôi từ trong túi quần ra một chiếc khăn mùi xoa trắng một cách dị thường và đưa nó cho Tancred.

“Bà Florence bảo em luôn luôn phải có sẵn một cái khăn tay bên mình để dùng khi cần. Em nghĩ bà ấy nói đúng.”

Charlie buộc bàn tay cho Tancred, nhưng máu bắt đầu thấm qua chiếc khăn và Billy rên rỉ:

“Ôi, không. Em hy vọng anh sẽ không chảy máu tới chết.”

“Đương nhiên là không rồi, đồ ngốc,” Tancred giấu bàn tay ra sau lưng. “Nghĩ đến Sander kìa! Nó còn tệ hơn anh.”

“Sander!” Charlie hét lên.

Cả ba đứa bổ nhào ra cửa sổ. Cách đây một tích tắc, cửa sổ còn bị giấy phủ đầy, thế mà giờ nó đã quang quẻ, và những kẻ chứng kiến sợ khiếp vía thấy rằng bọn lời thề đã tụ lại vào một kẻ thù to lớn, quyết vây đánh cái thân hình bất động kia.

Khoảnh sân tối đến mức như thể hoàng hôn sớm vừa buông xuống. Nhưng những đứa trẻ vẫn thấy được Lysander vùi mặt vào hai tay, trong khi bọn giấy viền xanh lá cây bu quanh nó, đâm, chọc và cắn xé bất cứ chỗ nào có thể cắn xé. Bọn giấy phụt ra tiếng vù vù giận dữ càng lúc càng lớn cho đến khi Billy Raven không thể chịu nổi nữa.

“Chúng sẽ giết anh ấy mất,” Billy kêu lên.

“Suỵt!” Charlie nhắc nó. “Để nghe nào.”

Mới đầu rất mập mờ, sau rõ dần lên từng giây, tiếng trống cuồn cuộn đến trong không trung.

“Tổ tiên của Lysander đến đấy,” Charlie nói.

Một nụ cười bừng sáng cả gương mặt Tancred.

“Nghe thấy không, Billy?”

Billy gật đầu. Trước kia đã có lần nó được nhìn thấy linh hồn tổ tiên của Lysander chiến đấu. Nó biết thế là cả đám có cơ hội sống sót rồi.

Khi tiếng trống dội vào trong sân, đám giấy ghi lời thề xem ra mất đi sức mạnh của chúng. Vài tờ lảo đẩo bứt ra khỏi đồng bọn, tựa hồ như chúng hoang mang. Bầu trời bỗng tối đen như mực, và Charlie tự hỏi có phải các vị tổ tiên ấy mang theo màn đêm để làm nổi bật vầng sáng chói lọi của họ không.

Tiếng trống dồn dập hơn và đám trẻ theo dõi cũng dí sát mặt vào cửa sổ hơn, chờ những hồn thiêng hiện ra. Thêm nhiều tờ lời thề nữa bị mất tập trung. Chúng bay lều phều khỏi Lysander và trôi vô định lên trời.

Một màn sương vàng choá bỗng vắt ngang qua bóng tối, và Lysander ngẩng đầu lên khi tờ lời thề cuối cùng từ bỏ cuộc tấn công, bay lên lờ phờ, bất định trên đầu nó. Những hình thù kỳ dị bắt đầu định hình giữa màn sương: những thân hình cao lớn, mặc áo chùng trắng, những bàn tay vẫn chưa lộ ra, cho đến khi, cùng với một tiếng trống đột ngột, mỗi thân hình giương ra một món vũ khí sáng lóa. Thương, giáo, gươm, rìu giơ lên, cùng với một tiếng ngâm nga huyền bí bay lãng đãng trong không trung.

Cảm thấy cái chết đang cận kề, bọn lời thề tấn công kè thù bằng nỗi điên giận hung tàn. Nhưng lần lượt, bọn giấy bị chém vụn. Những cạnh sắc xanh lá cây loé lên một cái thiệt mau, rồi tắt lịm, cùng lúc những lời thề biến thành những tờ tro. Vài tờ trong số chúng, cố thoát được, bay vổng lên bầu trời đen kịt. Nhưng những hồn thiêng cũng bay được, và mỗi cú đào thoát đều bị cắt đứt bằng một nhát gươm sáng chói hoặc một mũi giáo loé rực.

“Giống pháo bông quá, nhỉ?” Billy nói với giọng trầm trồ.

Charlie và Tancred phải công nhận.

Không ai có thể nói chắc chắn cuộc chiến đã kéo dài bao lâu, bởi vì thời gian dường như nín hơi thở lại, cho đến khi màn sương chói loà bắt đầu mờ đi, và hình thù cuối cùng biến mất.

Chính bầu không khí yên lặng thuyết phục Charlie rằng bọn chúng đã được an toàn. Tiếng trống đã ngưng và những tiếng xè xè điên cuồng của đám giấy cũng đã dứt. Lysander nhảy cỡn lên không, hét lên chiến thắng.

“Chúng chết rồi, chuồn rồi, các chàng trai. Ra đây!”

Charlie mở cửa chòi, hơi sờ sợ. Những đám mây xám xịt đã bay đi. Nó ngỏng cổ nhìn bầu trời buổi sáng, điểm vài đường vân xanh da trời và vàng óng.

“Ra mau lên!” Lysander giục giã.

Chúng chắc mẩm là mặt mũi Lysander sẽ chằng chịt thương tích, nhưng hoá ra nó hoàn toàn không sây sát gì. Những vết cắt trên mình cả bọn cũng mờ đi; ngay cả những vết thương trên mặt Billy cũng co lại, chỉ còn như những đường chỉ li ti đang biến đi thật nhanh.

“Thuốc hay quá chừng,” Tancred nói, đẩy Charlie một cái từ phía sau.

Khi Charlie loạng choạng bước ra ngoài, nó thấy trên sân đầy tro là tro. Lớp tro dày phải gần ba phân và lốp phốp dưới chân chúng.

“Bồ thành công rồi, Sander!” Tancred hét vang, chân đạp lên lớp vụn giấy chết xám xịt.

Cánh cửa sau của gia đình Silk bật mở, và cùng một tiếng hét vang trời, Gabriel ùa ra nhập bọn. Bốn thằng bé chạy quanh sân, đá tung đám tro lên trời và cười ngặt nghẽo. Niềm khoan khoái của Charlie lớn đến độ nó không thể thở được và tiếng cười của nó xen lẫn những pha nấc cụt.

Những cơn nấc cụt chợt dứt khi nó nhận thấy Billy, đang đứng chơ vơ một mình trong cửa chuồng chuột. Thằng bé mỉm cười, nhưng đôi mắt to màu đỏ của nó trông vẫn sợ hãi như hồi nãy, khi những tờ lời thề lao bắn vào người.

“Chuỵên gì vậy, Billy?” Charlie nói.

Từ từ, tiếng cười ngưng dần, và Charlie cùng mấy anh lớn bước lại chỗ thằng bé bạch tạng.

“Giờ em thoát rồi đấy, Billy,” Tancred nói, nhưng ngay cả khi nói thế, thì nó và tất cả bọn kia đều nhận thấy là điều đó không đúng.

“Em sẽ đi đâu bây giờ?” Billy nhướn ánh mắt khổ sở lên nhìn bốn anh lớn.

Câu hỏi của nó được trả lời, một cách tạm thời, bởi bà Silk. Bà gọi cả bọn vào ăn sáng.

Bầu không khí trong nhà Silk thật rộn ràng. Ba chị gái của Gabriel cứ lách chách luôn miệng, nói tía lia suốt bữa sáng ngon lành và tú hụ đó. Đám giấy bay đó là gì vậy? Ai đã đốt chúng vậy? Ai đánh trống vậy? Trận chiến trong sân bị một màn sương dày đặc che kín, và không ai trong nhà thấy được chuyện gì xảy ra. Họ chỉ biết là sẽ rất nguy hiểm nếu cứ liều ra ngoài.

Ông Silk, đang viết lia viết lịa vào một cuốn sổ lớn, cuối cùng cũng ngơi tay và quát:

“Im lặng, các cô nương! Không sao suy nghĩ được!”

“Nhưng nó là cái gì vậy?” April, cô em út, khăng khăng hỏi.

“Đó là một hiện tượng mà không việc gì phải bàn tới cả,” ông bố nói. “Đến bạn thân nhất của con cũng không nên nói.”

“Nó có dính líu gì tới quái tật của Gabriel không ạ?” Mai, người chị giữa, hỏi.

“Em đã nói hoài với chị trước giờ rồi, đừng có gọi đó là quái tật của em!” Gabriel hét tướng lên. Nó không hoà thuận với Mai cho lắm.

Charlie tự hỏi làm thế nào mà bà Silk vẫn phân phát được cái bữa sáng đã nấu rất hoàn hảo và vẫn luôn rót trà được chính xác đến đúng cái vệt nâu nâu trong tách. Bà lượn quanh bếp, khẽ ngâm nga hát và mỉm cười một mình, và Charlie kết luận chắc bà đã phải thờ phào nhẹ nhõm lắm nên giờ trông mới vui sướng được như vậy. Phải chịu cảnh những lời thề khát máu và những hồn thiêng cổ xưa đánh nhau trong sân sau chắc hẳn là chẳng dễ chịu chút nào.

Tancred, nghiến ngấu phần ăn sáng của mình với một thời gian kỷ lục, hỏi thế còn mớ đồ ăn bị rớt xuống bùn thì sao.

Bà Silk ngạc nhiên ngước lên, và June, cô chị cả trong số các chị Gabriel, đáp:

“Em không muốn ăn nó đấy chứ?”

Lũ bạn của Tancred hồi hộp chờ câu trả lời của nó, nhưng trước khi nó kịp mở miệng, thì bà Silk đã nói chắc nịch:

“Đàn gà sẽ giải quyết tất.”

Lũ gà đã chạy trốn ngay khi bọn lời thề xuất hiện, nhưng giờ qua cửa sổ, đã thấy chúng hớn hở bới đám tro tàn. Gabriel sực nhớ ra lũ chuột của mình và liền phóng vù đi để bảo đảm chúng đã phục hồi sau cuộc tấn công vào chuồng. Nó trở lại và thông báo rằng tất cả đều khỏe, ngoại trừ con Rita, con chuột cưng nhất của nó, không đẻ nhiều chuột con như lúc trước nó đếm sơ.

Tin này khiến Lysander nhảy dựng khỏi bàn, kêu lên:

“Mẹ! Mẹ sắp sinh!”

“Hôm nay à?” Bà Silk nói, phút lo lắng khiến bà rót nhầm trà vào bình sữa.

“Ồ không, cũng còn lâu,” Lysander trấn an bà. “Nhưng ba cháu đi vắng và mẹ cháu cái gì cũng hay lo.”

“Dĩ nhiên rồi,” bà Silk nhất trí. “Cháu nên chạy về nhà đi, Lysander. Ngay bây giờ!”

Lysander vẫy mọi người một cái vui vẻ và vụt biến đi:

“Gặp lại nhe, mấy bồ!”

Charlie luôn cảm thấy an tâm mỗi khi có Lysander bên cạnh. Giờ Lysander về rồi, đúng lúc cả bọn đang cần sự có mặt và lời khuyên của anh ấy nhất. Tancred là một đồng minh mạnh mẽ, dĩ nhiên rồi, nhưng tính khí cậu bé bão tố này không biết đâu mà lần. Cần phải đưa ra một quyết định về vụ Billy. Nhà của gia đình Silk sẽ không còn an toàn nổi với mụ Florence hoặc gia đình Bloor nữa.

Điện thoại reng trong hành lang và bà Silk ra nhấc máy.

“Charlie, mẹ cháu gọi.”

Charlie chạy vào hành lang và cầm ống nghe lên:

“Chào mẹ!”

“Charlie, có chuyện gì vậy con?” Giọng bên kia nói. “Gabriel gặp rắc rối hả? Con có về để…”

“Bình tĩnh, mẹ,” Charlie cứng cỏi. “Con ổn mà. Nhưng Billy hơi có chuyện một chút và tụi con đang bàn cách giải quyết. Nó chạy trốn.”

“Chạy trốn?” Tin tức của Charlie chẳng làm mẹ nó an tâm một tí xíu nào. “Nhưng mà Charlie…”

“Con chưa thể về ngay được. Con không biết việc này sẽ mất bao lâu nữa.”

“Thế phải mất bao lâu?”

“Mẹ cứ kể hết chuyện xảy ra cho Ông cậu Paton nghe, được không mẹ? Mẹ đừng lo lắng mà. Con không sao mà. Thiệt đấy.”

Khi Charlie đặt lại ống nghe xuống, nó để ý thấy một con bướm trắng trên tay áo nó. Con bướm xoè đôi cánh ra, để lộ đầu cánh óng ánh bạc.

“Lại mày nữa,” Charlie nói.

Con bướm bay đi nhưng Charlie không kịp thấy nó đi đâu. Charlie trở lại nhà bếp.

“Cháu nghĩ cháu và Billy cần phải đi bây giờ,” nó nói với bà Silk. “Cám ơn bác, bữa sáng ngon tuyệt.”

Bà Silk đáp là bà sẽ rất vui nếu được đón tiếp Charlie, nhưng bà muốn biết chính xác nó và Billy định đi đâu. Charlie cũng đang tự hỏi điều này và nó không biết phải trả lời bà như thế nào.

“Tụi nó sẽ đi về nhà cùng với cháu,” Tancred tuyên bố.

Nó đứng lên đột ngột đến nỗi một làn gió thổi tung khăn trải bàn, khiến những hạt đường và vụn bánh mì bay tốc lên không. Ba cô chị của Gabriel khoái chí vỗ tay rần rần. Chúng nài nỉ Tancred làm lại lần nữa, nhưng Tancred cười bẽn lẽn, nói nó không thể “Cứ muốn là làm” được, và thế là một luồng gió gắt lùa dao, nĩa, dĩa, tô va vào nhau lách cách.

Đến lúc này thì bà Silk bắt đầu lo lắng:

“Nếu Billy bị ngược đãi thì phải báo cho ai đó biết chớ,” bà nói. “Cảnh sát… hay… hay những tổ chức xã hội chẳng hạn.”

Bà quay qua Billy:

“Có lẽ con nên trở lại học viện, Billy. Ít ra thì ở đó con sẽ an toàn.”

“Kh… Không!” Billy lắc đầu nguầy nguậy.

“Cứ để nó đi,” ông Silk khuyên vợ. “Chắc chắn nó sẽ an toàn ở Ngôi Nhà Sấm.”

Tancred và cha nó, cả hai đều là những người tạo được bão, và quanh ngôi nhà ấy luôn có gió gào sấm nổ sét đánh. Chắc chắn đó là nơi an toàn nhất trong thành phố vào lúc này, và Charlie nhẹ cả người vì Tancred đã ra một quyết điịnh cho một việc vượt quá tầm của Charlie.

“Ông cậu Paton của cháu sẽ giải thích vì sao Billy không thể quay lại,” nó nói với gia đình Silk.

Cả gia đình dồn ra ngưỡng cửa để nhìn ba thằng bé đi khỏi. Trông như thể chúng đi nghỉ mát hơn là đi tìm chỗ trốn.

Khi ra tới cổng, Billy thình lình quay lại và hỏi:

“Chuyện gì xảy ra với những con mèo vậy?”

“Mèo nào, cưng? Bác chả thấy con mèo nào cả,” bà Silk đáp.

“Ồ, chắc là bọn chúng về nhà rồi,” Billy buồn bã nói.

Tới lúc bắt đầu bước lên đọan đồi dài, thì Billy mệt lả vì cuộc chạy hồi sáng sớm. Hai đứa kia cứ phải ngừng lại trong khi Billy lê lết bước theo, thở khò khà khò khè. Cuối cùng Tancred bảo Billy leo lên lưng cho nó cõng, và nó cõng thằng bé đi suốt con đường mấp mô quanh co dẫn lên khu rừng trên đỉnh đồi.

Charlie buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm khi cánh cổng nhà Tancred hiện ra trong tầm mắt. Có hai tấm biển đóng vào cổng. Một tấm ghi NGÔI NHÀ SẤM và tấm kia đề COI CHỪNG THỜI TIẾT. Khi chúng lê được gần đến cổng, Charlie bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa. Nó cố lờ âm thanh đó đi; nhưng khi không thể chịu đựng sự căng thẳng lâu thêm được nữa, nó nhìn lại. Con đường vắng tanh, nhưng tiếng vó ngựa càng lúc càng lớn hơn.

Tancred quay lại, và Billy ngó qua vai Tancred, nói:

“Lại con ngựa ma nữa. Nó theo tụi mình.”

Charlie thét lên thất hồn và cắm cổ chạy về phía cổng. Nó không thèm tháo chốt cổng, cứ thế quăng mình phóng qua và rớt xuống lối đi rải đá ở phía bên kia cánh cổng.

“Cái gì ám em vậy, Charlie?” Tancred gọi.

“Đó là Borlath!” Charlie lắp bắp. “Nó đuổi theo em. Lẹ lên, hai người. Làm ơn đi!

Billy tuột khỏi lưng Tancred và bắt đầu leo qua cánh cổng.

“Em không nghĩ nó sẽ làm anh đau đâu!” Thằng bé hét lên.

“Em biết nhiều quá nhỉ!” Charlie la lên. Nó bắt đầu chạy dọc lối đi.

Một tiếng hí hoang dã, chói óc làm rung màng nhĩ Charlie. Con ngựa chắc hẳn đã tông đổ cánh cổng bởi vì Charlie đã nghe tiếng vó ngựa nện trên nền đất ngay sau lưng nó.

“Chạy vào rừng!” Tancred gọi. “Nó không thể bắt được em ở đó. Ít nhất thì bắt cũng không dễ.”

Charlie lốc thốc chạy khỏi con đường nhỏ.

“Nó là ngựa ma,” Charlie rền rĩ. “Nó sẽ tìm ra em ở bất cứ nơi đâu.”

Charlie liêu xiêu chạy vào một tàn cây và dựa lưng vào một thân cây lớn, cố lấy lại hơi.

Một sự thinh lặng chết chóc bao trùm khắp khu rừng. Gió đã tắt và mọi cành lá cọng cỏ đều im phắc. Charlie nhắm mắt lại. Có lẽ nó đã an toàn. Nó bắt đầu nghe thấy tiếng Tancred và Billy lê bước qua những bụi cây về phía nó. Một luồng gió ấm áp thổi sượt qua má nó. Hơi thở chăng? Một cái gì đó ươn ướt và bờm xờm chạm vào tai nó.

Một tiếng rền sâu dội khắp toàn thân Charlie và nó đổ gục xuống đất.

Bình luận