Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Chuyến Du Hành Kỳ Lạ Của Ngài Daldry

Chương 4

Tác giả: Marc Levy

Một tuần trôi đi, tưởng như dài vô tận. Alice đã dứt cơn sốt nhưng cô vẫn chưa thể bắt đầu làm việc trở lại, cô gần như không thấy thèm ăn. Daldry không xuất hiện nữa. Alice đã sang gõ cửa nhà anh nhiều lần, căn hộ của người hàng xóm luôn im lìm.

Carol vẫn ghé qua sau mỗi phiên trực, mang tới cho cô đồ ăn cùng mấy tờ báo nẫng được ở phòng chờ bệnh viện. Một tối, quá mệt mỏi để có thể băng qua ba con phố ngăn cách nhà cô với nhà Alice trong giá rét nên cô đã nán lại ngủ qua đêm.

Carol nằm chung giường với Alice và đã phải cố hết sức lay cô bạn dậy ngay giữa đêm hôm để kéo cô khỏi cơn ác mộng từ đó trở đi cứ ám ảnh giấc ngủ của cô hằng đêm.

Thứ Bảy, giữa lúc vui mừng vì được quay lại bàn làm việc, Alice nghe thấy có tiếng bước chân ngoài thềm nghỉ cầu thang. Cô đẩy ghế bành ra rồi lao nhanh tới cửa. Daldry vừa về tới nhà, trên tay xách một chiếc va li nhỏ.

– Chào cô, Alice, anh nói mà không quay người lại.

Anh xoay chìa trong ổ khoá nhưng lại ngập ngừng chưa bước vào.

– Tôi rất lấy làm tiếc, tôi không qua thăm cô được, tôi có việc phải vắng mặt vài ngày, anh nói thêm, vẫn không quay lưng lại.

– Anh không có gì mà phải xin lỗi cả, tôi chỉ lo lắng vì không nghe thấy tiếng anh nữa.

– Tôi đi nghỉ, lẽ ra tôi nên nhắn với cô vài lời, nhưng tôi lại không làm thế, anh nói, mắt vẫn dán chặt vào cửa ra vào.

– Tại sao anh không quay mặt lại? Alice hỏi.

Daldry từ từ quay lại, khuôn mặt anh nhợt nhạt, râu ria lởm chởm, mi mắt thâm quầng, hai mắt đỏ ngầu đẫm lệ.

– Có gì không ổn sao? Alice lo lắng hỏi.

– Không, tôi vẫn ổn, Daldry đáp, nhưng thứ Hai vừa rồi bố tôi lại có một ý tưởng tai hại là không bao giờ thức dậy nữa. Chúng tôi làm lễ mai táng cho ông được ba hôm rồi.

– Mời anh sang đây, Alice nói, tôi sẽ pha cho anh tách trà.

Daldry bỏ lại va li trước cửa nhà rồi theo chân cô hàng xóm. Anh nhăn nhó thả mình xuống ghế bành. Alice kéo ghế đẩu tới ngồi đối diện với anh.

Daldry ngắm nhìn tấm mái kính, ánh mắt xa xăm. Cô tôn trọng khoảng lặng của anh và cứ ngồi như thế suốt một tiếng đồng hồ, không nói lời nào. Rồi Daldry thở dài đứng dậy.

– Cảm ơn cô, anh nói, đây chính xác là thứ tôi cần. Giờ tôi sẽ về nhà, tắm rửa sạch sẽ và rồi, a lê hấp, lên giường.

– Ngay trước khi a lê hấp anh hãy qua đây ăn tối, tôi sẽ làm món trứng ốp la.

– Tôi không thấy đói lắm, anh trả lời.

– Dù sao anh cũng nên cố ăn lấy một chút, Alice đáp trả.

Lát sau thì Daldry quay trở lại, anh mặc một chiếc áo thun cao cổ cùng quần flanen, tóc tai vẫn bù xù mà mắt thâm quầng.

– Xin thứ lỗi cho vẻ ngoài của tôi, anh nói, tôi e là đã để quên dao cạo ở nhà bố mẹ mà giờ đi mua thì cũng hơi muộn rồi.

– Anh để râu khá hợp đấy chứ, Alice nói thay lời chào đón.

Họ ngồi ăn tối cạnh chỗ cái hòm, Alice đã mở một chai gin. Daldry sẵn lòng uống nhưng lại không muốn ăn chút nào. Anh cố ép mình ăn một chút trứng ốp la, chỉ vì lịch sự.

– Tôi đã tự thề với lòng mình, anh nói sau một lúc im lặng, là một ngày nào đó sẽ nói chuyện như hai người đàn ông với bố. Sẽ giải thích với ông rằng cuộc sống mà tôi đang có là thứ tôi lựa chọn. Tôi chưa bao giờ phán xét cuộc sống của ông dù cho có rất nhiều điều để nói về nó, và tôi mong chờ ông cũng làm như vậy.

– Ngay cả khi ông không cho phép mình được nói ra với anh nhưng tôi chắc rằng ông vẫn ngưỡng mộ anh.

– Cô không biết bố tôi đâu, Daldry thở dài.

– Dù anh có nghĩ gì thì anh vẫn là con trai ông.

– Tôi đã chịu đựng sự vắng mặt của ông suốt bốn mươi năm trời, tôi quyết tâm làm thế. Vậy mà giờ đây khi ông không còn nữa thì lạ thay nỗi đau dường như lại dữ dội hơn.

– Tôi hiểu, Alice thấp giọng nói.

– Tối qua, tôi đã vào phòng làm việc của ông. Mẹ tôi bắt gặp đúng lúc tôi đang lục lọi ngăn kéo bàn giấy. Bà tưởng tôi tìm di chúc của bố, tôi bảo bà rằng tôi chẳng quan tâm ông để lại gì cho tôi, tôi nhường kiểu bận tâm ấy cho các anh chị tôi. Thứ duy nhất tôi hy vọng tìm thấy là một vài dòng, một bức thư biết đâu đấy ông có để lại cho tôi. Mẹ ôm tôi vào lòng rồi nói: “Con trai bé bỏng tội nghiệp của mẹ, ông ấy chẳng viết gì lại cho con đâu.” Tôi đã không thể khóc nổi lúc hạ huyệt ông, lần cuối cùng tôi khóc là vào mùa hè năm lên mười, khi ấy đầu gối tôi bị rách toác do ngã từ trên cây xuống. Nhưng sáng nay, khi ngôi nhà nơi tôi lớn lên xa dần trong kính chiếu hậu, tôi đã không cầm được nước mắt. Tôi phải tấp vào lề đường vì chẳng nhìn thấy gì cả. Tôi thấy mình thật nực cười khi cứ ngồi trong ô tô mà khóc như một đứa trẻ.

– Anh đã trở lại là một đứa trẻ, Daldry, anh vừa mới chôn cất bố mình.

– Thật buồn cười, cô thấy không, nếu tôi là nghệ sĩ dương cầm, ông ấy có lẽ sẽ thấy đôi chút tự hào về tôi, thậm chí có lẽ ông ấy sẽ tới xem tôi biểu diễn. Nhưng ông ấy lại không quan tâm tới hội hoạ. Với ông, đó không phải một nghề, mà chỉ là một thú tiêu khiển. Tóm lại, cái chết của ông đã tạo cho tôi cơ hội được gặp toàn thể gia đình.

– Anh nên vẽ chân dung ông, rồi mang về nhà bố mẹ anh, treo lên một chỗ thích hợp, ví như trong phòng làm việc của ông chẳng hạn. Tôi chắc rằng dù có đang ở đâu thì bố anh cũng sẽ thấy xúc động.

Daldry phá lên cười.

– Ý tưởng mới khủng khiếp làm sao! Tôi chưa ác đến mức khiến mẹ tôi phải chịu đựng một cú hiểm như thế. Thôi ngừng màn khóc lóc than vãn lại, tôi lợi dụng lòng hiếu khách của cô vậy là đủ rồi. Món trứng ốp la của cô ngon tuyệt, và rượu gin mà tôi đã lạm dụng hơi quá thì còn tuyệt hơn nữa. Vì cô đã khỏi bệnh nên tôi sẽ tiếp tục dạy cô lái xe ngay khi tôi, nói thế nào nhỉ, lấy lại phong độ.

– Rất sẵn lòng thôi, Alice đáp.

Daldry chào tạm biệt cô hàng xóm. Hằng ngày dáng người anh vốn thẳng là vậy mà giờ đây lưng lại hơi còng xuống, bước đi ngập ngừng. Đến giữa thềm nghỉ, anh đổi ý, quay bước, trở vào nhà Alice, cầm lấy chai rượu gin rồi về nhà mình.

Alice lên giường đi ngủ ngay sau khi Daldry ra về, cô thấy kiệt sức và cơn buồn ngủ kéo đến không lâu sau đó.

* * *

“Lại đây nào, giọng nói thì thầm với cô, phải khởi hành từ đây.”

Một cánh cửa mở ra màn đêm, ngoài phố không một ánh đèn, đèn đường đã tắt cả còn cửa sổ các nhà đều đóng im ỉm. Một phụ nữ nắm lấy tay dắt cô đi. Họ cùng nhau bước từng bước khẽ khàng dọc theo vỉa hè vắng ngắt, thận trọng không để ánh trăng rọi vào người vì sẽ bắt bóng khiến họ bị lộ. Hành lý của họ không nặng lắm. Chỉ là một chiếc va li nhỏ đựng vài thứ đồ dùng ít ỏi. Họ leo lên cầu thang lớn. Từ đó có thể thấy toàn cảnh thành phố. Phía xa, một đám cháy lớn đang nhuộm đỏ bầu trời. “Cả một khu phố đang cháy, người phụ nữ nói. Bọn chúng điên mất rồi. Tiến lên thôi. Ở dưới đó, con sẽ được an toàn, họ sẽ che chở cho chúng ta, ta chắc chắn thế. Nào, theo ta, con yêu.”

Alice chưa bao giờ sợ hãi đến thế. Hai bàn chân bầm tím khiến cô đau nhói, cô không đi giày, mà cũng chẳng thể tìm nổi giày khi mọi thứ xung quanh đều hỗn độn bừa bãi. Có bóng người xuất hiện ở lỗ cửa trên một cánh đồng lớn. Một cụ già nhìn họ rồi ra hiệu cho họ quay ngược trở lại, cụ chỉ cho họ thấy một công sự nơi mấy thanh niên tay lăm lăm súng đang đi tuần tra.

Người phụ nữ lưỡng lự, quay người lại, bà địu một đứa bé trước ngực, khẽ xoa đầu nó dỗ dành. Hành trình điên cuồng lại bắt đầu.

Họ lê bước nặng nề khoảng chục bước thì lên đến đỉnh con đường dốc đứng. Họ đi ngang qua một đài phun nước, mặt nước tĩnh lặng khiến người ta thấy vững tâm hơn. Bên phải họ, một cánh cửa hé mở ra chỗ bức tường bao dài tít tắp. Người phụ nữ có vẻ biết rõ chỗ này, Alice theo chân bà. Họ băng qua một khu vườn bỏ hoang, từng đám cỏ coa ngất đứng bất động, mấy cây cúc gai cắm vào bắp chân Alice như muốn níu cô lại. Cô hét lên một tiếng rồi nín lặng ngay.

Phía cuối một vườn cây ăn quả đang say ngủ, cô thoáng thấy mặt tiền một nhà thờ bị phá tan hoang. Họ băng qua gian hậu cung. Tất cả chỉ là một đống đổ nát, những băng ghế cháy dở đang nằm ngổn ngang. Alice ngẩng đầu lên và thấy trên mái vòm những bức tranh ghép mảnh gợi lại chuyện từ những thế kỷ trước, từ thời xa xưa mà dấu vết đã bị xoá nhoà. Ở xa hơn chút nữa, khuôn mặt mờ xỉn của đức Chúa như đang nhìn cô. Một cánh cửa để mở. Alice bước vào gian hậu cung thứ hai. Ngay chính giữa phòng sừng sững một Lăng mộ được ốp sành, to lớn và đơn độc. Họ lặng lẽ băng qua đó. Rồi họ tới một phòng để quần áo cũ kỹ. Mùi đá chảy hăng hắc hoà lẫn với mùi húng tây và mùi hoa các vi. Alice vẫn chưa biết tên chúng, nhưng cô nhận ra mùi, những thứ mùi ấy rất thân thuộc với cô. Mấy loại cây cỏ này mọc đầy trên khoảng đất trống phía sau nhà cô. Ngay cả khi mùi hương ấy trộn lẫn vào nhau rồi được gió đưa tới cho cô, cô vẫn nhận ra được.

Nhà thờ bị thiêu rụi lùi lại phía sau, người phụ nữ dẫn đường dắt cô qua một hàng rào sắt, giờ đây họ đang chạy trong một con hẻm khác. Alice đã kiệt sức, hai chân cô nhũn ra, bàn tay vẫn giữ lấy tay cô lơi ra rồi buông hẳn. Cô ngồi bệt xuống mặt đường, người phụ nữ đi xa dần, không quay đầu lại.

Một cơn mưa nặng hạt bắt đầu trút xuống, Alice kêu cứu, nhưng cơn mưa rào quá to át cả tiếng gọi, rồi bóng dáng ấy nhanh chóng khuất hẳn. Alice còn lại một mình, quỳ gối giữa đường, tê dại đi. Cô thét lên một tiếng kêu dài, gần như tuyệt vọng.

* * *

Những hạt mưa đá nảy lia thia trên mái kính. Hơi thở gấp gáp hổn hển, Alice ngồi nhỏm dậy, với tay tìm công tắc đèn đầu giường. Khi đèn đã bật, cô đưa mắt nhìn lướt khắp phòng, quan sát từng thứ đồ vật thân thuộc với mình.

Cô thụi hai nắm đấm xuống giường, giận dữ vì lại một lần nữa để mình bị cuốn vào cơn ác mộng vẫn khiến cô khiếp sợ mỗi đêm. Cô đứng dậy đi tới chỗ bàn làm việc, mở cánh cửa sổ trông ra phía sau ngôi nhà rồi hít một hơi thật sâu. Căn hộ của Daldry vẫn sáng đèn và sự hiện diện, dù cho là vô hình, của người hàng xóm khiến cô thấy vững tâm. Ngày mai cô sẽ tới thăm Carol và xin cô bạn lời khuyên. Hẳn phải có một phương thuốc nào đó giúp cho giấc ngủ của cô êm ái hơn. Một đêm không bị ám ảnh bởi nỗi khiếp sợ tưởng tượng, không đầy những cuộc trốn chạy thục mạng trên những con phố xa lạ, một đêm trọn giấc và dịu ngọt, đó là tất cả những gì Alice mơ ước.

* * *

Alice dành trọn những ngày tiếp theo bên bàn làm việc. Mỗi tối, cô đi ngủ muộn hơn, cố gắng cưỡng lại cơn buồn ngủ như người ta chống lại nỗi sợ hãi, cái nỗi sợ vẫn xâm chiếm lấy cô khi ngày tàn. Đêm nào cô cũng gặp lại cơn ác mộng ấy, cơn ác mộng chấm dứt ngay giữa một con hẻm hoà đẫm nước mưa nơi cô lả đi trên mặt đường.

Cô tới thăm Carol vào giờ ăn trưa.

Alice trình tên họ ở quầy lễ tân bệnh viện rồi nhờ họ báo với bạn cô. Cô kiên nhẫn ngồi đợi gần nửa tiếng đồng hồ trong sảnh, giữa những chiếc băng ca được khiêng xuống từ mấy chiếc xe cứu thương vừa chạy tới vừa hú còi ầm ĩ. Một người phụ nữ cầu xin người ta hãy cứu lấy con mình. Một cụ già lẩn thẩn đi quanh mấy băng ghế nơi các bệnh nhân khác đang ngồi đợi tới lượt khám. Một anh chàng mỉm cười với cô, anh ta có nước da tái nhợt, cung mày rộng, một dòng máu đỏ thẫm chảy trên má. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi ôm chặt lấy bụng, dường như đang phải chịu đựng cơn đau đớn khủng khiếp. Ngồi giữa nỗi khốn cùng của đồng loại, Alice chợt cảm thấy tội lỗi. Nếu như cuộc sống về đêm của cô chìm trong ác mộng thì cuộc sống ban ngày của cô bạn cô cũng chẳng khá gì hơn. Carol xuất hiện, đang đẩy một chiếc băng ca mà bánh xe cứ rít lên trên thảm sàn.

– Cậu làm gì ở đây thế? cô hỏi khi trông thấy Alice. Cậu đau ở đâu à?

– Tớ tới chỉ để mời cậu đi ăn trưa.

– Ôi một điều ngạc nhiên dễ chịu đấy. Tớ sắp xếp cho bệnh nhân này xong, cô vừa nói vừa chỉ người bệnh của mình, rồi sẽ ra với cậu. Bộ phận lễ tân cũng cả gan thật đấy, lẽ ra họ phải báo với tớ chứ. Cậu tới đây lâu chưa?

Carol đẩy chiếc băng ca tới chỗ một đồng nghiệp, cởi áo bờ lu ra, lấy áo khoác và khăn quàng trong ngăn kéo tủ rồi rảo bước theo bạn. Cô dẫn Alice ra ngoài khuôn viên bệnh viện.

– Đi nào, cô nói, có một quán bar ở góc phố, đó là chỗ đỡ tồi nhất khu này và so với quầy cà phê trong viện thì đấy phải là một nhà hàng cỡ lớn.

– Thế tất cả những bệnh nhân kia sẽ phải đợi ư?

– Đại sảnh này chẳng bao giờ vắng bóng người bệnh cả, hai tư trên hai tư, ngày nào Chúa cũng tạo ra thế và Chúa cũng ban cho tớ một cái dạ dày mà thỉnh thoảng tớ phải bồi bổ cho nó nếu tớ muốn có đủ sức chăm sóc bệnh nhân. Nào đi ăn thôi.

Quán đầy chặt khách. Carol nở nụ cười lẳng lơ với anh chủ quán, anh này đang đứng ở quầy bar liền chỉ cho cô một bàn nằm phía cuối phòng. Hai cô gái diễu qua trước mặt tất cả thực khách.

– Cậu ngủ với anh chàng rồi à? Alice vừa hỏi vừa ngồi xuống băng ghế.

– Hè năm ngoái tớ đã chăm sóc cho anh ta, anh ta bị một cái nhọt lớn ở đúng chỗ cần kín đáo nhất. Kể từ đó, anh chàng trở thành người đầy tớ tận tuỵ của tớ, Carol mỉm cười đáp lại.

– Tớ chưa bao giờ tưởng tượng được là cuộc sống của cậu lại…

– … đầy mê hoặc đến thế? Carol tiếp lời bạn.

– … cam go đến thế, Alice đáp.

– Tớ yêu những gì mình làm, ngay cả khi không phải ngày nào công việc cũng dễ dàng. Từ khi còn nhỏ, tớ đã dành nhiều thời gian chơi trò băng bó cho đám búp bê. Chuyện ấy khiến mẹ tớ lo lắng khủng khiếp, và bà càng phật ý thì thiên hướng ấy càng lớn dần lên trong tớ. Thôi nào, vậy điều gì khiến cậu tới đây? Tớ không nghĩ rằng cậu tới tận phòng cấp cứu để tìm kiếm mùi hương gợi cảm hứng cho một trong những loại nước hoa của cậu.

– Tớ tới ăn trưa với cậu, cậu cần một lý do khác nữa à?

– Cậu biết rồi đấy, một y tá giỏi không chỉ bằng lòng với việc chăm sóc nỗi đau thể xác cho bệnh nhân, chúng tớ còn thấy khi có điều gì đó không ổn trong tâm hồn họ.

– Nhưng tớ không phải là bệnh nhân của cậu.

– Vậy mà khi tớ trông thấy cậu ở sảnh thì cậu có vẻ thế lắm. Nói tớ nghe xem có gì không ổn vậy Alice.

– Cậu không ngó qua thực đơn à?

– Quên thực đơn đi, Carol ra lệnh rồi tước lấy tấm bìa khỏi tay Alice. Tớ chỉ có đủ thời gian xực món chính trong ngày thôi.

Một nhân viên phục vụ mang tới cho họ hai đĩa ragu cừu.

– Tớ biết, Carol nói, trông không có vẻ hấp dẫn lắm, nhưng rồi cậu sẽ thấy, ngon tuyệt đấy.

Alice gảy gảy mấy miếng thịt ra khỏi chỗ rau đẫm trong nước xốt.

– Có lẽ, Carol tiếp tục khi miệng đầy thức ăn, cậu sẽ thấy ngon miệng trở lại khi nói tớ nghe điều khiến cậu trăn trở.

Alice cắm dĩa vào một mẩu khoai tây rồi bĩu môi chán nản.

– Được thôi, Carol nói tiếp, có thể tớ là một kẻ cứng đầu cao ngạo nhưng lát nữa khi bắt xe điện quay về, cậu sẽ thấy mình thật ngu ngốc khi đã lãng phí cả nửa ngày trời mà thậm chí còn không nếm thử món ragu tồi tệ này, hơn nữa chính cậu lại là người trả tiền. Alice, nói tớ nghe xem có chuyện gì không ổn nào, cậu cứ im lặng như vậy khiến tớ sốt ruột lắm.

Alice quyết định kể về cơn ác mộng cứ ám ảnh cô hàng đêm, về nỗi khó ở cứ quấy rầy cô mỗi ngày.

Carol chăm chú lắng nghe hết mức.

– Tớ phải kể cậu nghe chuyện này, Carol nói. Vào buổi tối sau trận ném bom đầu tiên xuống Luân Đôn, tớ có phiên trực. Người bị thương nhanh chóng được chuyển đến; phần lớn là những người bị bỏng, và họ tới bằng chính những phương tiện tự có. Một vài nhân viên đã bỏ bệnh viện đi trú ẩn, nhưng phần lớn bọn tớ đều ở lại vị trí của mình. Bản thân tớ ở lại không phải vì anh hùng gì đâu mà chỉ là vì hèn nhát. Tớ sợ đến tái người nếu phải thò mặt ra ngoài, khiếp sợ trước ý nghĩ bị lửa thiêu rụi nếu ra phố. Sau khoảng một tiếng đồng hồ, làn sóng người bị thương ngừng đổ về. Hầu như không có thêm bệnh nhân nào vào nữa. Trưởng bộ phận cấp cứu, một tay bác sĩ Turner nào đó, đẹp trai, khá lịch lãm, với đôi mắt khiến bất kỳ cô nàng nào cũng phải đổ gục, đã tập trung bọn tớ lại rồi nói rằng: “Nếu người bị thương không tới đây nữa thì là do họ đang mắc dưới đống đổ nát, chúng ta phải tới tìm họ.” Tất cả bọn tớ đều nhìn anh ta, kinh hãi. Rồi anh ta lại nói thêm: “Tôi không ép buộc ai cả, nhưng ai có gan thì hãy cầm lấy băng ca và đi khắp các con phố. Giờ đây bên ngoài kia có nhiều sinh mệnh cần được cứu hơn là trong những bức tường của bệnh viện này.”

– Và cậu đã đi? Alice hỏi.

– Tớ lùi lại, từng bước một, cho đến tận chỗ phòng khám, lòng thầm cầu mong cho ánh mắt của bác sĩ Turner không chạm mắt tớ, mong anh ta không thấy tớ lẩn tránh và tớ đã thành công. Tớ đã trốn trong một tủ đựng quần áo suốt hai tiếng liền. Cậu đừng chế nhạo tớ không thì tớ chết mất. Co ro trong cái tủ ấy, tớ nhắm chặt hai mắt lại, mong sao cho mình biến mất. Cuối cùng tớ cũng tự thuyết phục được mình rằng tớ đang không ở đó, mà là ở phòng tớ, tại nhà bố mẹ ở St. Mawes, rằng tất cả những người đang gào thét quanh tớ chỉ là những con búp bê khủng khiếp mà ngay hôm sau tớ phải vứt hết đi để trước nhất không bao giờ trở thành y tá.

– Cậu không việc gì phải tự trách cứ như vậy cả. Carol, tớ cũng sẽ chẳng dũng cảm hơn cậu đâu.

– Không, chắc chắn là cậu sẽ hơn tớ! Hôm sau, tớ đã quay lại bệnh viện, lòng đầy hổ thẹn nhưn gvaaxn còn sống sót. Bốn ngày sau, tớ cứ lẩn quanh để tránh bác sĩ Turner. Nhưng cuộc đời chưa bao giờ thôi trêu ngươi tớ, tớ được phân vào kíp mổ mà trưởng kíp là…

– … bác sĩ Turner?

– Chính anh ta! Và như thể thế còn chưa đủ, cả hai chúng tớ còn cùng ở trong phòng chuẩn bị, chỉ có hai người với nhau. Trong lúc rửa tay, tớ đã thú nhận với anh ta tất cả, cuộc chạy trốn của tớ, cái cách tớ đã khốn khổ ẩn mình trong tủ đựng quần áo, nói tóm lại, tớ đã tự biến mình thành trò cười.

– Anh ta phản ứng thế nào?

– Anh ta nhờ tớ xỏ hộ găng tay rồi nói: “Sợ hãi mới đúng là con người, có lẽ cô nghĩ rằng tôi không sợ trước lúc vào mổ? Nếu cô nghĩ vậy thì tôi đã chọn nhầm nghề rồi, lẽ ra tôi nên là diễn viên.”

Carol đổi chiếc đĩa sạch trơn của mình lấy đĩa của Alice.

– Và rồi tớ thấy anh ta bước vào phòng mổ, đeo khẩu trang trên mặt, anh ta đã để nỗi sợ hãi lại phía sau lưng. Hôm sau tớ tìm cách lên giường với anh ta nhưng chàng ngốc đó đã có vợ mà lại chung thuỷ nữa. Ba ngày sau, thành phố lại phải chịu một trận bom mới. Chẳng có găng tay lẫn khẩu trang, tớ đã cùng nhóm đồng nghiệp lao ra phố. Tớ đào bới đống gạch vữa, ngồi gần đám cháy hơn cả gần cậu vào lúc này. Và nếu như cậu muốn biết mọi điều thì đêm ấy, giữa đống đổ nát, tớ đã tè lên tất cả. Giờ thì hãy nghe cho kỹ đây cô bé, kể từ đêm Giáng sinh ở Brighton ấy, cậu không còn là chính mình nữa. Có gì đó cứ gặm nhấm cậu từ bên trong, những ngọn lửa nhỏ cậu không trông thấy, nhưng chúng đốt cháy giấc ngủ của cậu. Vậy nên hãy làm như tớ, hãy bước ra khỏi ngăn tủ và xông lên. Tớ đã đi khắp các con phố Luân Đôn với nỗi sợ trong lòng, nhưng như thế còn dễ chịu hơn là cứ co ro trong cái ngăn tủ ấy mà nghĩ rằng mình sẽ phát điên mất.

– Cậu muốn tớ làm gì bây giờ?

– Cậu đang chết vì cô đơn, cậu luôn mơ ước có một tình yêu lớn nhưng không gì khiến cậu sợ hãi hơn là ngã lòng vào tình yêu. Ý nghĩ gắn bó với ai đó, phụ thuộc vào ai đó làm cậu kinh hoàng. Cậu có muốn chúng ta nhắc lại chuyện của cậu với Anton không? Có phải là kẻ bịp bợm hay không thì bà thầy bói đó cũng đã báo trước với cậu rằng người đàn ông của đời cậu đang đợi cậu ở đất nước xa lắc lơ nào đó mà tớ chẳng biết. Vậy thì lên đường thôi! Cậu có tiền tiết kiệm, hãy vay mượn thêm nếu cần và tự tặng cho mình chuyến đi này. Đi để tự mình khám phá ra người đang đợi cậu ở đó. Và ngay cả khi cậu không gặp được anh chàng xa lạ được hứa hẹn kia thì cậu cũng sẽ cảm thấy được giải thoát và sẽ không phải hối tiếc nữa.

– Nhưng cậu muốn tớ tới Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách nào cơ chứ?

– Nàng công chúa ơi, về điểm này thì tớ là y tá chứ không phải văn phòng du lịch. Tớ phải chuồn đây. Tớ không lấy tiền công tư vấn nhưng sẽ để cậu trả tiền ăn đấy.

Carol đứng dậy, mặc áo khoác, hôn tạm biệt cô bạn rồi rời đi. Alice chạy theo và bắt kịp khi cô vừa ra khỏi quán.

– Cậu nghiêm túc đấy chứ, có thực cậu nghĩ như những gì vừa nói không?

– Chứ cậu tưởng tớ vừa khoe thành tích với cậu đấy à? Quay vào trong cho ấm đi, tớ phải nhắc lại rằng cậu vừa bị ốm cách đây không lâu đấy, tớ còn những bệnh nhân khác, tớ không muốn phải chăm sóc cậu cả ngày đâu. Thôi, chuồn đi.

Carol chạy đi xa dần.

Alice quay trở lại bàn ăn rồi ngồi vào chỗ Carol vừa ngồi, cô mỉm cười lúc gọi người phục vụ mang tới cho một cốc bia… cùng một suất món chính trong ngày.

* * *

Đường phố đông đúc, xe ngựa, mô tô ba bánh, xe tải nhỏ rồi ô tô cố chen chúc vượt qua ngã tư. Nếu có mặt ở đây lúc này, Daldry sẽ vớ bở. Chiếc xe điện dừng lại, Alice nhìn qua cửa kính. Nằm kẹt giữa một tiệm thực phẩm khô nhỏ và mặt tiền đóng im ỉm của một tiệm đồ cổ là tủ kính của một văn phòng du lịch. Cô nhìn nó, vẻ tư lự, rồi chuyến xe điện lại khởi hành.

Alice xuống ở điềm dừng tiếp theo rồi đi ngược lên phố. Được vài bước, cô quay lại, lưỡng lự lần nữa rồi tiếp tục đi theo hướng ban đầu. Vài phút sau, cô đẩy cửa bước vào một cửa hàng treo biển Wagons-Lits Cook.

Cô dừng lại trước một giá quay xếp đầy tờ rơi quảng cáo nằm ngay gần lối vào. Pháp, Tây Ban Nha, Thuỵ Sĩ, Ý, Ai Cập, Hy Lạp, ngần ấy điểm đến vẫn khiến cô mơ ước. Người chủ văn phòng rời quầy của mình đi tới chỗ cô.

– Cô dự định đi du lịch ư, thưa cô? ông ta hỏi.

– Không, Alice đáp, chưa thực sự, chỉ là tò mò thôi.

– Nếu để chuẩn bị cho chuyến đi nghỉ tuần trăng mật thì tôi xin gợi ý với cô Venice, cực kỳ tráng lệ vào mùa xuân, hoặc không thì Tây Ban Nha, Madrid, Séville rồi bờ biển Địa Trung Hải, ngày càng có nhiều khách của tôi tới đó và khi trở về họ đều rất vui thích.

– Tôi vẫn chưa kết hôn, Alice vừa nói vừa mỉm cười với người chủ văn phòng du lịch.

– Thời nay chẳng có gì cấm chúng ta đi du lịch một mình cả. Ai cũng có quyền thi thoảng được đi đây đi đó. Với một phụ nữ thì tôi khuyên cô nên tới Thuỵ Sĩ, Genève và hồ nước ở đó, rất yên bình mà say đắm lòng người.

– Ông có gì liên quan đến Thổ Nhĩ Kỳ không? Alice rụt rè hỏi.

– Istanbul, lựa chọn hoàn hảo đấy. Tôi ước ao ngày nào đấy được tới đó, thánh đường Sainte-Sophie, eo biển Bosphore… Đợi đã, tôi hẳn phải có thứ đó quanh đây, nhưng chỗ này lộn xộn quá mức.

Ông chủ văn phòng cúi xuống chỗ chiếc tủ nhiều ngăn mở từng ngăn kéo ra một.

– À, đây rồi, một tập quảng cáo giới thiệu khá đầy đủ, tôi còn có một quyển cẩm nang du lịch nữa và có thể cho cô mượn nếu cô quan tâm tới địa điểm này, nhưng cô phải hứa là sẽ hoàn lại cho tôi.

– Tôi có tập quảng cáo này là được rồi, Alice vừa đáp vừa cảm ơn ông chủ.

– Tôi sẽ cho cô hai tập, ông ta nói rồi chìa tập tờ gấp quảng cáo cho Alice.

Ông tiễn cô ra tận cửa và mời cô ghé lại lúc nào thuận tiện. Alice tạm biệt ông rồi đi tới điểm dừng xe điện.

Một màn tuyết mỏng buông xuống thành phố. Một ô kính trên xe điện bị kẹt để chỗ cho luồng khí lạnh buốt lùa vào bên trong. Alice lấy mấy tờ gấp quảng cáo từ trong túi ra, liếc qua tìm chút nắng ấm từ các đoạn miêu tả những phong cảnh xa lạ nơi vầng dương ngự trị trên nền trời xanh thẳm.

Đến trước toà nhà nơi cô sống, Alice lục khắp các túi tìm chìa khoá nhưng vô ích. Hốt hoảng, cô quỳ gối xuống, lộn tung túi xách đổ hết ra ngay trước lối vào. Chùm chìa khoá hiện ra giữa đống lộn xộn. Alice cầm lên, vội vàng nhặt lại đồ đạc rồi trèo lên cầu thang.

Một tiếng sau, tới lượt Daldry về nhà. Anh bị thu hút bởi một tờ rơi quảng cáo du lịch rớt trên sảnh vào. Anh nhặt lên rồi mỉm cười.

* * *

Có tiếng gõ cửa. Alice ngẩng đầu lên, đặt bút xuống rồi ra mở cửa. Daldry cầm một chai rượu vang trên tay, tay kia là hai chiếc ly có chân.

– Cô cho phép chứ? anh nói rồi tự bước vào.

– Anh cứ tự nhiên như ở nhà, Alice đáp và nhường lối cho anh.

Daldry tới chỗ cái hòm, đặt ly xuống rồi hào phóng rót đầy ly. Anh chìa cho Alice một cái và mời cô cụng ly.

– Chúng ta ăn mừng gì à? cô hỏi anh hàng xóm.

– Có thể coi là như thế, Daldry đáp. Tôi vừa bán được một bức tranh với giá năm mươi nghìn bảng.

Alice mở to mắt rồi đặt ly rượu xuống.

– Tôi không biết các tác phẩm của anh lại đắt đến thế, cô kinh ngạc nói. Liệu tôi có thể được ngó qua một bức trước khi ngay cả việc xem tranh cũng trở nên quá sức tôi hay không?

– Có thể, Daldry vừa nói vừa rót thêm rượu.

– Ít nhất thì cũng có thể nói rằng các nhà sưu tập của anh thật là hào phóng.

– Nói như vậy thì không được đề cao công việc của tôi cho lắm, nhưng tôi sẽ coi đó là một lời khen.

– Anh đã bán một bức tranh với mức giá đó thật à?

– Dĩ nhiên là không, Daldry đáp, tôi chẳng bán gì cả. Năm mươi nghìn bảng tôi vừa nói với cô chính là khoản thừa kế do bố tôi để lại. Chiều nay bọn tôi được triệu tập đến chỗ công chứng viên, tôi vừa từ đó về. Tôi không hề biết mình lại quan trọng với ông đến vậy, tôi tự cho là ít hơn thế cơ.

Có chút buồn bã trong mắt Daldry khi anh nói câu ấy.

– Điều vô lý là, anh tiếp, tôi không hề có ý tưởng nào về việc mình sẽ làm gì với số tiền ấy. Thế nếu tôi mua lại căn hộ của cô thì sao nhỉ? anh vui vẻ đề nghị. Tôi có thể dọn vào ở dưới mái kính này, tôi đã ước ao như thế bao năm nay rồi, ánh sáng từ đó lọt xuống biết đâu lại chẳng giúp tôi cuối cùng cũng vẽ được một bức tranh làm ai đó xúc động…

– Căn hộ này không phải để bán và tôi cũng chỉ là người đi thuê thôi! Mà nếu bán thì tôi sẽ ở vào đâu đây? Alice đáp.

– Đi du lịch! Daldry thốt lên, đây quả là một ý tưởng tuyệt vời đấy.

– Nếu trái tim anh mách bảo thế thì tại sao lại không nhỉ? Một giao điểm tuyệt đẹp của các con phố Paris, một nút giao giữa các con đường ở Tanger, một cây cầu nhỏ trên dòng kênh Amsterdam… Hẳn là đây đó trên trái đất này đều có những ngã tư có thể gợi nguồn cảm hứng cho anh.

– Thế tại sao không phải là eo biển Bosphore, tôi vẫn luôn ao ước được vẽ những con thuyền mà chúng thì không phải dễ mà thấy được ở ngã tư Piccadilly của Luân Đôn này.

Alice đặt ly rượu của mình xuống rồi nhìn Daldry chăm chăm.

– Sao nào? anh nói với vẻ vờ tỏ ra ngạc nhiên, không phải chỉ mình cô mới có quyền mỉa mai người khác, tôi cũng được phép châm chọc cô đúng chứ?

– Và làm thế nào anh có thể châm chọc được tôi với cái kế hoạch đi nghỉ của mình, hả anh hàng xóm thân mến?

Daldry lấy tờ quảng cáo từ trong túi áo vest ra rồi đặt lên mặt hòm.

– Tôi nhặt được thứ này ở cầu thang. Tôi không chắc nó là của bà hàng xóm tầng dưới. Bà Taffleton là người thích ru rú trong nhà nhất tôi từng gặp, bà ấy chỉ ra ngoài vào thứ Bảy để đi chợ ở cuối phố.

– Anh Daldry, tôi nghĩ rằng tối nay anh uống vậy là đủ rồi, anh nên về nhà thôi, tôi chẳng có tiền thừa kế để mà đi du lịch và tôi còn công việc phải hoàn thành nếu muốn tiếp tục trả nổi tiền thuê nhà.

– Tôi tưởng một trong các sản phẩm của cô đảm bảo cho cô một nguồn thu đều đặn.

– Đều đặn nhưng không vĩnh viễn, thị hiếu luôn thay đổi nên cần phải đổi mới, đó chính là điều tôi đang gắng sức làm trước khi anh lao vào.

– Và người đàn ông của đời cô vẫn đợi cô ở kia, Daldry vừa nhấn mạnh vừa chỉ tay vào tờ quảng cáo du lịch, anh ta không ám ảnh giấc ngủ của cô nữa à?

– Không, Alice đáp gọn lỏn.

– Vậy thì tại sao cô lại thức giấc vào lúc ba giờ sáng rồi thét lên kinh khiếp khiến tôi gần như nảy khỏi giường?

– Tôi va chân vào cái hòm ngu ngốc này khi muốn quay lại giường. Tôi làm việc khuya và mắt không nhìn rõ nữa.

– Lại dối nữa! Thôi, Daldry nói, tôi thấy là sự có mặt của mình quấy rầy cô rồi, tôi rút lui đây.

Anh đứng dậy làm vẻ như sắp đi, nhưng rồi chỉ mới bước được một bước, anh liền quay lại phía Alice.

– Cô biết chuyện của Adrienne Bolland không?

– Không, tôi không biết cái cô Adrienne ấy, Alice đáp, lộ rõ vẻ bực tức.

– Bà ấy là người phụ nữ đầu tiên thử bay qua dãy Andes bằng máy bay, chính xác là bằng một chiếc Caudron, và dĩ nhiên là do bà ấy tự lái.

– Bà ấy thật dũng cảm.

Trước vẻ thất vọng hết mức của Alice, Daldry thả mình xuống ghế bành và lại rót đầy ly.

– Điều khác thường nhất không phải là lòng gan dạ của bà ấy mà chính là chuyện đã xảy ra vài tháng trước khi bà ấy bay.

– Và hẳn anh sẽ cho tôi biết tường tận từng chi tiết vì tin chắc là tôi chẳng thể ngủ nổi trước khi anh kể hết tất cả chuyện này.

– Chính xác!

Alice ngước mắt lên trời. Tối nay, người hàng xóm của cô có vẻ mất kiểm soát và ăn nói linh tinh, nhưng anh ta đã rất lịch sự lúc cô ốm vậy nên cô sẽ chịu đựng không kêu ca gì và dành cho anh ta sự ân cần anh ta đáng được hưởng.

– Vậy là Adrienne lên đường sang Ác hen ti na. Là phi công của Caudron, bà phải tham dự vài buổi gặp gỡ, triển lãm hàng không để nhà chế tạo máy bay của Pháp thuyết phục người Nam Mỹ về chất lượng máy bay do mình sản xuất ra. Cô có tưởng tượng được là khi đó bà ấy mới chỉ có bốn mươi giờ bay làm vốn liếng không! Những lời quảng cáo của hãng Caudron về chuyến đi của bà ấy đã đi trước bà ấy, và họ đã cho loan đi tin đồn rằng bà ấy muốn thử bay qua dãy Andes. Trước khi sang Ác hen ti na Adrienne đã báo trước rới hãng là mình từ chối mạo hiểm như vậy với hai chiếc G3 hãn gcung cấp. Bà ấy hẳn sẽ suy nghĩ về dự án này nếu họ chuyển bằng đường biển đến cho bà một chiếc máy bay khoẻ hơn, có khả năng bay cao hơn, thứ mà hãng Caudron vốn hứa với bà. Buổi tối khi Adrienne tới Ác hen ti na, đã có sẵn một đám đông nhà báo đợi bà. Họ chúc mừng bà và sáng hôm sau Adrienne phát hiện ra rằng báo chí đã công bố: “Adrienne Bolland tận dụng thời gian lưu lại để bay qua dãy núi.” Hãng máy bay yêu cầu bà xác nhận hoặc bác bỏ thông tin trên. Bà gửi một bức điện tới hãng Caudron và điện trả lời cho bà hay rằng họ không thể chuyển tới chiếc máy bay đã hứa. Dân Pháp ở Buenos Aires đều khẩn khoản nài bà từ bỏ một trò điên rồ như vậy. Một phụ nữ không thể đơn thương độc mã thực hiện một hành trình như vậy mà không bỏ mạng. Họ thậm chí còn lên án bà là một kẻ điên rồ sẽ làm hại đến thanh danh của nước Pháp. Bà quyết định và chấp nhận thách thức. Sau khi đã tuyên bố chính thức, bà nhốt mình trong phòng khách sạn từ chối nói chuyện với bất kỳ ai, bà cần tập trung hết sức để chuẩn bị cho cái chẳng khác gì một cuộc tự sát.

“Ít lâu sau, trong khi chiếc máy bay của bà đang được chuyển bằng đường sắt tới Mendoza, nơi bà chọn làm địa điểm cất cánh, thì có người tới gõ cửa phòng khách sạn. Adrienne tức giận ra mở cửa và sẵn sàng đuổi thẳng cổ kẻ tới quấy rầy mình. Kẻ không mời mà tới là một phụ nữ trẻ rụt rè, vẻ lúng túng; cô nói rằng cô có tài dự đoán tương lai và có điều rất quan trọng muốn báo với bà. Cuối cùng Adrienne cũng chấp nhận cho cô ta vào. Bói toán là điều vô cùng quan trọng ở Nam Mỹ, người ta xem bói để biết nên hay không nên quyết định chuyện gì. Trong khi ấy tôi biết rằng ở New York hiện người ta lại rất chuộng việc đi tham khảo ý kiến chuyên gia tâm lý trước khi kết hôn, đổi nghề hoặc chuyển nhà. Mỗi xã hội lại có những thánh nhân của riêng mình. Nói tóm lại, vào năm 1920 ở Buenos Aires, thực hiện một chuyến bay mạo hiểm như vậy mà không tới gặp thầy bói có lẽ cũng không thể tưởng tượng nổi giống như ở nơi khác, ra trận mà không tới nhờ linh mục cầu Chúa phù hộ. Tôi không thể nói với cô là Adrienne, dân Pháp chính gốc, có tin vào bói toán hay không nhưng việc ấy có tầm quian trọng hàng đầu mà Adrienne thì cần được càng nhiều người ủng hộ càng tốt. Bà châm một điếu thuốc rồi nói với cô gái rằng bà cho cô đủ thời gian làm việc đó. Cô thầy bói tiên đoán bà sẽ sống sót và thực hiện thành công chuyến bay này, chỉ với một điều kiện.

– Điều kiện gì? Alice hỏi, tò mò trước câu chuyện của Daldry.

– Tôi sắp nói với cô đây! Cô thầy bói đã kể với bà ấy một câu chuyện hoàn toàn không thể tin nổi. Đến một lúc, cô ta nói với bà, bà bay trên một thung lũng lớn… Cô nói với bà về một hồ nước, bà sẽ nhận ra nó ngay bởi nó có hình dạng và màu sắc giống một con hàu. Một con hàu khổng lồ mắc cạn giữa một thung sâu trong núi, bà ấy sẽ không thể nhầm được. Phía bên trái vùng nước lạnh băng ấy, mây đen kịt cả bầu trời trong khi phía bên phải lại trong xanh quang đãng. Bất cứ phi công nào biết suy nghĩ tất yếu sẽ chọn đường này nhưng cô thầy bói cảnh báo Adrienne. Nếu cứ cố chọn con đường có vẻ dễ dàng hơn, bà sẽ bỏ mạng ở đó. Rồi phía trước sẽ mọc lên những đỉnh núi không thể vượt qua. Khi bay đến thẳng phía trên cái hồ kỳ lạ đó, bà bắt buộc phải hướng về phía những đám mây, dù cho chúng có đen kịt đén thế nào. Adrienne thấy lời gợi ý thật ngu ngốc. Làm gì có phi công nào lại cắm đầu lao vào một cái chết được báo trước? Mặt khác cánh chiếc Caudron của bà hẳn chẳng thể nào chịu nổi thử thách ghê gớm đến vậy. Bị quần đảo giữa bão gió, nó sẽ vỡ tan. Bà hỏi người phụ nữ trẻ rằng có phải cô từng sống ở vùng núi này nên mới biết rõ các đỉnh núi đến vậy không. Cô gái rụt rè đáp rằng cô chưa tới đây bao giờ rồi rút đi không nói thêm lời nào.

“Vài ngày sau, Adrienne rời khách sạn tới Mendoza. Suốt thời gian vượt quãng đường một nghìn hai trăm ki lô mét bằng tàu hoả, bà đã quên béng cuộc gặp thoáng qua với cô thầy bói trẻ. Bà còn nhiều thứ khác đáng phải nghĩ hơn là những lời tiên đoán nực cười ấy, vả lại làm sao mà một cô gái dốt nát lại có thể biết được thế nào là một chiếc máy bay đạt đến độ cao nhất và rằng độ cao tối đa của chiếc G3 bao nhiêu là đủ để bà lập kỳ tích?

Daldry ngừng lời, gãi gãi cằm rồi nhìn đồng hồ đeo tay.

– Tôi không biết là đã muộn thế rồi, thứ lỗi cho tôi nhé Alice, tôi về ngay đây. Tôi lại lạm dụng lòng hiếu khách của cô nữa rồi.

Daldry toan đứng dậy khỏi ghế bành nhưng Alice ngăn anh ta lại và đẩy anh ra phía sau.

– Đây là tại cô nài nỉ đấy nhé! anh nói, hài lòng vì chút hiệu ứng mình tạo ra. Cô không còn thêm chút rượu gin tuyệt hảo nào nữa à, thứ cô đã cho tôi uống lần trước ấy?

– Chính anh đã mang phần còn lại về rồi còn gì.

– Tiếc quá. Thế chỉ có đúng một chai thôi à?

Alice chạy đi tìm một chai rượu mới rồi rót cho Daldry.

– Nào, tôi kể đến đâu rồi nhỉ? anh tiếp tục sau khi đã uống hai ly gần như liền một lúc. Đến Mendoza rồi, Adrienne tới vùng đất của Los Tamarindos nơi chiếc máy bay hai lớp cánh đang đợi bà. Rồi ngày trọng đại cũng tới. Adrienne cho máy bay đỗ ngay ngắn trên đường băng. Viên phi công trẻ chẳng thiếu khiếu hài hước và thói vô tư lự, bà cất cánh nhằm đúng ngày mùng 1 tháng Tư và quên mang theo bản đồ bay.

“Bà nhắm thẳng hướng Tây Bắc, chiếc máy bay của bà khó nhọc tăng độ cao rồi trước mặt bà hiện ra những đỉnh núi phủ tuyết đáng sợ của dãy Andes.

Lúc bay trên một thung lũng hẹp, bà nhìn thấy phía dưới cánh máy bay một hồ nước có hình dạng và màu sắc của một con hàu. Adrienne thấy các ngón tay mình đông cứng lại dưới lớp bao tay bà làm tạm bằng mấy tờ báo phết bơ. Lạnh cóng trong buồng lái quá ư mỏng manh so với áp lực không khí ở độ cao hiện tại, bà nhìn chằm chằm về phía đường chân trời, lòng đầy sợ hãi. Phía bên phải thung lũng bầu trời mở ra mời gọi trong khi phía bên trái mọi thứ lại như đút nút cả lại. Bà phải quyết định ngay tức khắc. Điều gì khiến Adrienne đặt lòng tin vào cô thầy bói trẻ một tối đã ghé qua phòng khách sạn của bà tại Buenos Aires? Bà bay vào giữa những đám mây đen kịt, giữ nguyên độ cao và cố gắng giữ đúng hướng bay. Một lúc sau bầu trời rạng dần và trước mắt bà hiện ra một con đèo cần phải vượt qua cùng với bức tượng Chúa ở độ cao hơn 4000 mét. Bà tăng độ cao thêm nữa, vượt cả giới hạn cho phép của chiếc máy bay nhưng nó vẫn trụ vững.

“Bà bay được ba giờ đồng hồ thì thấy xuất hiện dòng sông chảy cùng hướng với mình, rồi ngay sau đó là vùng bình nguyên và xa hơn nữa là một thành phố lớn: Santiago của Chi Lê cùng địa điểm hạ cánh nơi đám đông ồn ào đang chờ đón bà. Bà đã thành công. Các ngón tay cứng đờ, khuôn mặt đỏ bừng vì lạnh lại càng rõ hơn khi hai má sưng phù lên bởi áp lực trên cao, bà hạ cánh an toàn và dừng máy bay ngay trước ba lá cờ, Pháp, Ác hen ti na và Chi Lê mà người ta đã dựng sẵn để chào mừng phòng khi bà tới nơi. Tất cả mọi người đều thán phục, Adrienne cùng người thợ máy thiên tài Duperrier của mình đã làm nên một kỳ tích thực sự.

– Daldry, sao anh lại kể cho tôi toàn bộ chuyện này?

– Tôi nói nhiều quá và giờ thì mồm khô không khốc đây!

Alice rót tiếp rượu gin cho Daldry.

– Tôi nghe anh đây, cô vừa nói vừa nhìn Daldry nốc một hơi cạn ly rượu cứ như thể đó là ly nước vậy.

– Tôi kể cho cô toàn bộ chuyện này bởi cô cũng đã từng gặp một bà thầy bói, bởi bà ấy đã tiên đoán trước là ở Thổ Nhĩ Kỳ cô sẽ thấy thứ mà mình vẫn tìm kiếm vô vọng tại Luân Đôn và rằng trước khi ấy cô phải gặp đủ sáu người. Tôi đoán mình là người đầu tiên trong số ấy và cảm thấy mình có một sứ mệnh. Hãy để tôi được là Duperrier của cô, người thợ máy thiên tài sẽ giúp cô vượt qua dãy Andes của mình, Daldry cao hứng thốt lên khi đã ngà ngà. Hãy để tôi dẫn dắt cô tới với ít nhất là người thứ hai, người sẽ lại chỉ lối cho cô tới mắt xích thứ ba trong chuỗi, bởi lời sấm truyền đã nói với chúng tôi như vậy. Hãy để tôi được làm bạn cô và cho tôi cơ hội làm được điều gì đó có ích trong đời.

– Anh thật là hào hiệp, Alice ngượng ngùng nói. Nhưng tôi không phải là phi công lái thử, lại càng chẳng phải Adrienne Bolland của anh.

– Nhưng cũng giống như bà ấy, cô gặp phải ác mộng hằng đêm và luôn mơ đến ngày được tin vào lời tiên đoán ấy, được thực hiện chuyến đi ấy.

– Tôi không thể nhận lời được, Alice thì thầm.

– Nhưng ít nhất cô cũng có thể nghĩ về nó chứ.

– Không được đâu, chuyến đi ấy nằm ngoài khả năng của tôi, tôi sẽ chẳng bao giờ hoàn lại được tiền cho anh.

– Cô thì biết gì về chuyện này chứ? Nếu cô không muốn có tôi bên cạnh như một người thợ máy, điều hẳn đã gây cho cô một mối hiềm thù sâu sắc bởi tôi đã chẳng làm được gì khi tối nọ ô tô của tôi không chịu nổ máy, thì tôi sẽ là hãng Caudron của cô. Giả sử rằng ở đó cô có thể phát hiện ra một số mùi hương giúp cô có cảm hứng tạo ra một loại nước hoa mới, cứ cho rằng loại nước hoa ấy sẽ thành công vang dội, khi ấy tôi sẽ là đồng sự của cô. Tôi để cô quyết định tỉ lệ phần trăm lợi nhuận mà cô sẽ hạ cố dành cho tôi vì đã có đóng góp khiêm nhường vào vinh quang của cô. Và để cho công bằng, nếu như trong chuyến đitôi vẽ được một ngã tư nào đó ở Istanbul và bức tranh cuối cùng lại được vào bảo tàng thì tôi cũng sẽ để cô được hưởng lợi từ khoản tiền bán tranh trong các phòng trưng bày.

– Anh say rồi, Daldry, những điều anh nói chẳng có ý nghĩa gì cả, thế nhưng anh gần như thuyết phục được tôi rồi đấy.

– Vậy thì can đảm lên nào, đừng có ru rú trong căn hộ của mình rồi hằng đêm sợ sệt như một đứa trẻ yếu bóng vía, hãy ra đối đầu với thế giới! Lên đường du hành thôi! Tôi có thể sắp xếp mọi thứ, chúng ta có thể rời Luân Đôn trong vòng một tuần nữa. Tôi để cô suy nghĩ đêm nay, sáng mai chúng ta sẽ bàn lại về chuyện này.

Daldry đứng dậy, vòng tay ôm lấy Alice rồi siết thật chặt.

– Chúc ngủ ngon, anh nói rồi đột nhiên thấy bối rối vì mình hơi quá nhiệt tình nên liền lùi lại.

Alice tiễn anh ra tận thềm nghỉ, Daldry đi không vững nữa. Họ khẽ đưa tay ra hiệu chào nhau rồi hai cánh cửa lần lượt khép lại.

Bình luận