Khi tia nắng ban mai rọi vào trong phòng ngủ, Maryellen Sherman thận trọng trở mình, ngạc nhiên vì tự nâng được cả cơ thể đang mang bầu chín tháng gần đến ngày sinh.
Kelly đã cảnh báo những ngày cuối cô sẽ cảm thấy rất nặng nề và đây chính là những ngày như vậy nhưng Maryellen không thể quên được khoảng thời gian hạnh phúc này.
“Từ hôm nay mình có thể sinh vào bất cứ ngày nào”, cô vừa nói vừa xoa tay lên cái bụng căng tròn của mình. Catherine “Katie” Grace thức dậy, cô bé đạp và vươn vai trong bụng mẹ. Maryellen cảm thấy thật tuyệt khi ngắm nhìn những chuyển động trên bụng mình. Đồng hồ đã chỉ đên con số tám giờ rưỡi, đã đến giờ thức dậy. Cô tỳ lòng bàn tay vào một bên giường và cố gắng ngồi dậy, Maryellen nhìn xuống phía dưới và nhận thấy rằng cô không thế nhìn thấy chân mình nữa. Đã hàng tuần nay cô không thể nhìn thấy ngón chân mình.
Cô lóng ngóng đứng lên và chống hai tay đỡ lưng. Lưng cô đã bắt đầu đau.
Điều này cũng thật dễ hiểu. Chẳng qua là do cô ngủ trên cái đệm đã cũ rách.
Sau khi đi vài vòng quanh nhà, cô đã cảm thấy khá hơn. Cô bước chân trần vào bếp và đặt nước để tự pha cho mình một ấm trà thảo dược. Trong khi đợi nước sôi, cô chọn ra bốn cái áo cho bà bầu vẫn còn khá tươm tất để có thể mặc đi làm.
Việc có bầu này hoàn toàn nằm ngoài kế hoạch. Cô đã cố gắng để không cho cha đứa bé biết. Đây không phải một nước cờ khôn ngoan mà khá liều lĩnh Jon Bowman, một hoạ sỹ có tác phẩm được trưng bày tại phòng tranh nơi cô điều hành đã biết chuyện về đứa bé trong bụng cô. Anh đã rất kiên quyết đòi quyền làm cha đối với cô con gái bé bỏng này. Maryellen không thích điều đó nhưng cô không còn sự lựa chọn nào khác. Hoặc là cho anh ta quyền đến thăm con, hoặc là phải đấu tranh với anh trước toà. Mà đó là điều cô không hề muốn, vì cô rất dễ bị tước quyền nuôi con.
Maryellen thích anh và ngưỡng mộ những tài năng của anh. Điều mà cô ghét nhất ở anh lại không phải lỗi do anh. Bởi anh đã đánh thức được bản năng nhục dục trong cô. Cho đến tận đêm của tháng Mười Một năm trước, cô vẫn cho rằng những đam mê tình dục của cô đã bị vùi chôn vĩnh viễn cùng với cuộc hôn nhân thất bại của mình. Nhưng Jon đã chứng minh điều ngược lại.
Sự hối hận lớn nhất của cô xảy ra khi cô còn là một cô sinh viên đại học.
Maryellen đã từng có bầu ngoài kế hoạch. Và cô đã để bạn trai, chồng sắp cưới của mình thao túng, khiến cô phải bỏ đứa bé. Cô không hề muốn điều đó và cô không thể tha thứ cho việc mình đã làm.
Và đến lần này, cô quyết tâm bảo vệ đứa con trong bụng của mình. Lần này cô từ chối không nghe theo bất cứ ai, bất cứ điều gì ngoại trừ sự mách bảo của con tim. Cô muốn có đứa bé, cô yêu đứa bé trong bụng mình biết bao. Điều tưởng như là một lỗi lầm lớn hóa ra lại là một cơ hội đáng quý lần thứ hai với cô.
Điều bất ngờ nhất với Maryellen lại là ý định của Jon. Anh ta kiên quyết sẽ là một phần trong cuộc đời của Katie. Hơn thế nữa, anh ta còn đe dọa sẽ kiện Maryellen ra toà nếu cô không cho anh ta quyền cùng chăm sóc con gái. Không có lý do gì để ngăn cản, nên cô đành miễn cưỡng đồng ý với những điều kiện mà anh ta đưa ra.
Ấm nước sôi kêu lên báo hiệu khi cô đang sắp xếp quần áo. Một tay mát xa trên lưng, một tay cô rót nước vào ấm trà đang đợi sẵn. “Con không thể biết được mẹ hạnh phúc thế nào vì lại sắp được uống cà- phê đâu”, cô lẩm bẩm trò chuyện cùng đứa con trong bụng.
Maryellen đi tắm và thay quần áo, vì chỉ làm nửa ngày nên cô có thể ăn một bữa sáng thư thái với bánh mỳ nướng, sữa chua và trà. Cô không cần phải có mặt ở phòng tranh trên phố Harbor cho đến cuối buổi sáng. Cô yêu công việc của mình và cũng rất thích kết bạn với những họa sỹ trong vùng. Jon là một nhiếp ảnh gia, và các tác phẩm của anh, hầu hết là ảnh thiên nhiên, vừa ngoạn mục lại vừa sâu sắc. Sau khi cô bỏ lỡ cơ hội trưng bày ảnh của anh sau đêm ân ái năm ngoái, anh đã mang chúng sang phòng tranh khác. Maryellen đã lỡ mất cơ hội được gặp Jon mỗi dịp anh đến giao các bức ảnh anh chụp và phòng tranh cũng bỏ lỡ lợi nhuận mà các tác phẩm của anh đem lại.
Tài năng của Jon là điều đầu tiên hấp dẫn cô, nhưng bản thân anh ta cũng khiến cô say mê. Anh khiêm tốn, thẳng thắn và rất kín đáo về những chi tiết đời sống riêng tư của mình. Mặc dù cô đã làm việc với anh hơn ba năm nhưng cô không biết kiến thức về mỹ thuật của anh từ đâu mà có, và cô gần như không biết gì về gia cảnh của anh. Điều duy nhất mà anh cho cô biết là anh được thừa kế một phần bất động sản tuyệt vời từ người ông, chính là của khu đất mà anh đã tự xây ngôi nhà của mình. Khi cô đặt câu hỏi về đời tư Jon, thì hoặc là anh bỏ đi hoặc là anh chuyển chủ đề. Anh hầu như từ chối mọi lời mời tham gia những buổi hội họp. Năm ngoái cô rất ngạc nhiên khi anh nhận lời tham gia buổi tiệc Halloween. Cô đã nghĩ ra đủ thứ lý do để mời anh và không bao giờ tin anh sẽ xuất hiện. Đêm hôm đó họ đã trao nhau nụ hôn đầu tiên và nó khởi đầu cho tất cả. Những ngày tiếp sau đó, Maryellen đã biết rõ về anh như bất cứ ai ở vịnh Cedar, và có lẽ cô còn biết rõ hơn họ. Đứa bé trong bụng lại đạp. Cô cười một mình. Hiển nhiên cô biết nhiều về anh hơn ai hết.
Nhưng cô vẫn rất ấn tượng với người đàn ông là cha của đứa con trong bụng mình. Jon tự xây nhà và là một bếp trưởng cho nhà hàng Hải Đăng, trong khi danh tiếng nhiếp ảnh của anh ngày càng được nhiều người ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương và xa hơn biết đến.
“Tôi không nghĩ chị lại đến sớm trước buổi trưa”, Lois Habbersmith nói khi Maryellen bước vào phòng tranh lúc 11 giờ 30, sớm hơn thời gian thường ngày.
Lois làm thư ký của Maryellen, nhưng sắp tới cô sẽ tạm giữ chức Giám đốc điều hành phòng tranh trong thời gian Maryellen nghỉ đẻ. Maryellen tin rằng Lois sẽ làm công việc này tốt hơn yêu cầu.
“Khi nào chị phải đi khám bác sỹ nữa?”. Lois hỏi.
“Sáng mai”. Cô cảm thấy lưng như đau hơn. Maryellen kéo ghế ra và ngồi xuống.
Lois nhìn cô vẻ lo lắng. “Chị vẫn ổn chứ?”.
“Không”, Maryellen thú nhận. “Thú thực tôi thấy đau lưng hơn mọi ngày”.
Cô nhận thấy cơn đau giảm đi rồi lại tăng lên khá đều đặn. Và đột nhiên cô nghĩ rằng có lẽ đây không phải đau lưng mà là cơn chuyển dạ.
Có vẻ như Lois cũng đã nhận ra điều này, cô tiến lại gần Maryellen. “Cơn đau chuyển dạ của tôi cũng bắt đầu là đau lưng”. Sau đó đặt một ngón tay lên môi, Lois nói: “Maryellen, chị có nghĩ chị sắp chuyển dạ không?”.
“Để tôi nghĩ lại xem mình bắt đầu đau lưng vào mấy giờ sáng nay nhé?”.
Lois vỗ tay một cách hào hứng. “Thật là tuyệt”.
“Lois, Lois, tôi không biết tôi sắp chuyển dạ chưa. Tôi chỉ mới có cảm giác hơi khác thường thôi”.
Maryellen liếc nhìn đồng hồ và cố nhớ xem cô bị đau dọc xương sống như thế này kể từ khi nào.
“Mẹ chị sẽ là người vào phòng sinh cùng chị phải không?”.
Maryellen gật đầu. Cô mơ hồ nhớ rằng mẹ cô có nói sẽ đi dự một buổi gặp mặt các thủ thư ở Seattle vào thứ Tư. Hôm nay là thứ Tư. Grace có điện thoại di động, nhưng luôn quên bật máy hoặc thường để điện thoại trong trạng thái hết pin. Maryellen quyết định chưa cần phải gọi cho mẹ vội. Còn nhiều thời gian và cô vẫn chưa tin mình đang trong cơn chuyển dạ. Cô phân vân liệu đây có phải cơn đau giả mà nhiều người đã từng cảnh báo không.
Vài giờ sau, lúc đã về nhà, lúc này Maryellen không còn nghi ngờ gì nữa. Cô biết chắc chắn mình đang chuyển dạ. Không phải một cơn đau giả. Những cơn đau lưng đến thường xuyên, cô cảm nhận được những cơn co bóp, cứ năm phút một lần nó như rút xương sống của cô lại. Cô với điện thoại và gọi cho mẹ.
Đúng như suy nghĩ của cô, di động của mẹ cô tắt máy, hoặc đã hết pin. Cô hít một hơi thở sâu và nhắm mắt. Còn em gái của cô, Kelly đã xử sự với cô một cách thật tuyệt vời kể từ khi biết cô có mang. Hồi nhỏ hai chị em đã rất thân thiết với nhau nhưng lớn lên thì cả hai lại hay mâu thuẫn.
Sau năm hồi chuông có tiếng phát ra từ máy trả lời tự động của Kelly và Paul. Maryellen cố gắng giữ cho giọng nói của mình thật bình tĩnh và có vẻ như vẫn kiểm soát được tình hình, cô để lại lời nhắn. “Kelly. Em nghe này, có vẻ như chị đang chuyển dạ. Chị vẫn chưa gọi cho bác sỹ Abner và chị chắc rằng vẫn còn nhiều thời gian, nhưng chị nghĩ chị phải báo cho em biết”. Sau đó, không muốn cho Kelly biết cô đang cảm thấy hoảng hốt thế nào, Maryellen nói thêm. “Mẹ đi dự buổi gặp mặt các thủ thư và chiều nay mới quay về, nên khi nào em về thì gọi cho chị nhé. Chị …. chị chưa có ai đưa đến bệnh viện”. Tất cả những cố gắng để tỏ ra bình tĩnh đều biến mất khi cô gác điện thoại lên.
Khi Maryellen quay đi khỏi chiếc điện thoại, cô cảm nhận được cơn đau nhói khiến cô gần như gập người xuống. Và gần như ngay lập tức nước ộc ra giữa hai chân cô. Nước ối.
Maryellen đứng giữa vũng nước và cố gắng bình tĩnh suy nghĩ. Cô sợ rằng bất cứ chuyển động nào cũng có thể nguy hiểm cho đứa bé, nên cô với tay ra lấy điện thoại, sau đó lại ngập ngừng vì không biết gọi cho ai.
Đột nhiên cô nhớ ra. Cô phải lấy số điện thoại từ tổng đài. Khi có được số điện thoại, cô thầm cầu nguyện Jon đang ở nhà và ở gần cái điện thoại.
Không có ai trả lời điện thoại ở nhà anh và cô gần như bật khóc vì thất vọng.
Cô bắt đầu thấy hoảng sợ, cố gạt cảm giác đó sang một bên, cô bắt mình phải bình tĩnh. Hy vọng rằng anh đang ở chỗ làm, cô quay số điện thoại nhà hàng Hải Đăng.
Người phụ nữ trả lời điện thoại rất lịch sự và thân thiện. Maryellen đang chờ được nối máy. Rất lâu sau đó, Jon mới trả lời điện thoại, và câu chào cụt lủn cho thấy anh không hề vui vẻ gì khi bị gián đoạn khỏi công việc mà anh đang làm.
Sợ hãi, gần như tuyệt vọng, Maryellen thì thào bằng giọng nói khàn khàn, “Jon … em cần anh giúp …”.
Không để cho cô nói hết, anh hỏi. “Em đang ở đâu?
“Ở nhà. Em đã bị vỡ ối”.
“Năm phút nữa anh sẽ có mặt”.
Một cảm giác nhẹ nhõm bao trùm. Cô chớp mắt liên tục để những giọt nước mắt không tuôn trào khỏi khoé mắt. “Cám ơn anh”, cô nói, nhưng điện thoại đã kêu tút từ bao giờ.
Chỉ sau vài phút cô đã nghe thấy tiếng cửa xe ô tô đóng sầm phía ngoài căn nhà thuê nhỏ bé của cô. Lúc đó cô mới gọi cho bác sỹ Abner và đúng như bản năng mách bảo, ông bác sỹ muốn cô lập tức đi ngay đến trung tâm hộ sinh.
Jon không buồn gõ cửa mà đi thẳng vào cửa trước. Bộ quần áo bếp trưởng màu trắng mà anh mặc vẫn còn dính bẩn. Rõ ràng là cô đã bắt anh đi vào lúc bận rộn nhất trong ngày. Đã hàng tuần nay cô không gặp anh. Lần cuối cùng họ gặp nhau là đầu mùa hè khi họ thỏa thuận về việc chăm sóc con, và cho dù lúc này anh đang quắc mắt nhìn cô, cô vẫn thấy anh thật tuyệt vời. Theo chuẩn mực thông thường thì anh không phải đẹp trai. Các nét của anh quá sắc, khuôn mặt dài và hẹp khiến cho mũi anh như mũi diều hâu, nhưng Maryellen đã có một bài học cay đắng với những người đàn ông hấp dẫn. Mới nhìn lần đầu, Jon không phải người đàn ông khiến phụ nữ xao xuyến rung động, chỉ sau này khi có cơ hội tiếp cận gần gũi với anh hơn, cô mới nhận thấy sự hấp dẫn chết nguời nơi anh.
“Anh à”, cô nói giọng yếu ớt, mắt nhìn xuống vũng nước dưới sàn nhà mà cô đang đứng.
“Vậy là em chỉ có một mình trong lúc khó khăn này đây”. Nụ cười của anh khiến cô thấy ấm áp.
“Anh có thực sự muốn chứng kiến Katie chào đời không?”, cô hỏi. Mọi nỗi hoảng sợ đã tan biến hết từ khi anh đến đây.
“Anh rất muốn”.
“Có vẻ như anh là người được chỉ định sẵn từ trước để đưa em đến nhà hộ sinh của bệnh viện”.
Chỉ bước ba sải chân anh đã đi ra khỏi phòng, anh ôm cô trong vòng tay như thể trọng lượng cơ thể đáng kể của cô chẳng đáng gì.
Cô muốn phản đối, vì cô nghĩ mình quá nặng để cho anh bế, nhưng cô đã không làm thế. Lần đầu tiên kể từ lúc cô cố gắng liên lạc với mẹ, cô cảm thấy mình được bảo vệ. Một cảm giác an toàn tuyệt đối. Anh giúp cô thay quần áo và bế cô ra cửa.
Anh thận trọng đặt cô vào trong xe. “Em đã sắp sẵn đồ mang theo chưa?”.
Cô gật đầu. “Tất cả trừ bàn chải đánh răng”.
“Anh vào lấy chúng và cái túi to của em rồi sẽ quay lại ngay”.
Anh để cô trong xe và quay lại ngay khi cô xuất hiện cơn đau. Những cơn đau dữ dội hơn nhiều lúc nước ối mới bị vỡ. Cô nhắm mắt, nghiêng đầu về phía sau và hít thở, cố gắng nhớ lại những điều đã học trong lớp học cho các bà mẹ sắp sinh.
Jon đã ngồi ở ghế lái ngay bên cạnh khi cô mở mắt ra.
“Em vẫn ổn chứ?”, anh hỏi.
Và cô nhận thấy mặt anh cũng đang tái xanh đi. Cô cố nở một nụ cười để giúp anh bình tĩnh.
Sau đó Maryellen chẳng còn nhớ gì về chặng đường từ vịnh Cedar đến Silverdale và nhà hộ sinh nữa. Jon không nói năng gì và cô cũng vậy, cô chỉ cố gắng tập trung vào kỹ năng thở đã được học. Trong khi đó Jon thành thạo len qua dòng xe cộ tấp nập trên đường.
Khi họ đến nhà hộ sinh, mọi người lập tức vây quanh Maryellen và thực hiện các thủ tục. Họ cởi quần áo cô và đưa vào giường, gắn thêm một thiết bị theo dõi thai nhi. Jon biến mất và cô tự hỏi có phải anh đưa cô đến đây rồi lại bỏ đi không. Cô cho rằng điều đó cũng đúng thôi vì cô đã gọi anh giữa ca làm việc.
Sau đó Maryellen được đưa vào một căn phòng đầy đủ tiện nghi với các trang thiết bị hiện đại để làm cô phân tán khỏi cơn đau. m nhạc phát ra những âm thanh nhẹ nhàng, cạnh đó là một tivi với đầu video trong trường hợp cô muốn xem, nhưng cô chẳng hứng thú với bất cứ thứ gì.
Cơn đau dữ dội ngoài sức tưởng tượng. Cô đếm từng giây mỗi khi cơn đau ập đến, nó xoáy từ phía sau lưng ra phía trước, bụng cô quặn lại.
“Maryellen”, tiếng Jon nhẹ nhàng.
Cô mở mắt và thấy anh đang đứng ở phía cửa, ngay lập tức cô cảm thấy nhẹ nhàng và thật biết ơn anh. Chống khuỷu tay xuống để nâng người lên, cô hỏi đầy hy vọng. “Anh có thể ở lại với em không?”.
“Nếu em muốn như vậy”.
Đương nhiên là cô muốn như vậy rồi. Cho đến giờ cô mới nhận thấy cô muốn có anh bên cạnh và cần anh đến nhường nào. Không phải bất cứ ai khác.
Mà chính là anh.
Len qua đám máy móc, Jon tiến đến chỗ Maryellen và kéo ghế ngồi sát bên cô, chăm chú nhìn màn hình đang ghi lại những cơn đau của cô. Dù chưa bao giờ tham gia lớp học sinh sản, nhưng anh biết chính xác phải nói gì và làm gì để vỗ về, động viên Maryellen. Khi cô chuyển mình nằm nghiêng, anh vừa xoa lưng cho cô vừa thì thầm khuyến khích cô. Những lời anh nói là sự xoa dịu êm ái dễ chịu nhất, anh luôn lặp đi lặp lại rằng cô đang làm được một việc to lớn và vô cùng ý nghĩa.
Cơn đau mỗi lúc một dài và dữ dội hơn, và khoảng thời gian giữa mỗi cơn đau lên tới gần một phút, đó là một phút dài nhất trong cuộc đời của Maryellen.
Các cơn đau đến dồn dập. Cô oà khóc.
“Hãy làm điều gì đi, cô ấy không thể chịu được nữa”. Jon yêu cầu người y tá lúc đó vô tình bước vào phòng.
Cô y tá cười nhân hậu. “Maryellen chọn phương pháp sinh nở tự nhiên. Chúng tôi tôn trọng quyết định của cô ấy”.
“Em vẫn ổn mà”, Maryellen nói, nhưng cô cũng không biết mình có thể chịu đựng thêm đến bao giờ. “Em muốn được nắm tay anh”.
Jon đang đứng ngay đó và anh nhoài người về phía cô. Anh chống khuỷu tay vào giường và đưa bàn tay cho cô nắm. Từ lúc đó, cô bám chặt vào anh. Đến khi đứa bé sắp sửa ra đời, Jon vẫn ở bên cô, đầu anh ghé sát vào đầu cô, tay anh ôm lấy hai vai cô. Bác sỹ Abner đến, và điều đó cho cô biết rằng em bé sẽ ra đời trong vài phút nữa.
Jon quay sang bác sỹ tự giới thiệu mình, và bằng giọng nói nhẹ nhàng, anh tiếp tục vỗ về động viên Maryellen. Dựa vào người anh, cô căng người ra, cố lấy sức rặn đứa bé và kêu gào điên dại giữa những cơn đau.
Các cơn co bóp nối tiếp nhau, cô nắm chặt tay Jon và rặn thật mạnh, rên rỉ vì đau. Mồ hôi cô vã ra như tắm. Và rồi con gái bé bỏng của cô đã chào đời.
Maryellen thở hổn hển khi nghe thấy tiếng khóc non nớt của Catherine Grace.
Một cảm giác tự hào đầy yêu thương ùa đến với Maryellen. Mắt cô đẫm lệ.
Cô bẽn lẽn cười với Jon, và ngạc nhiên khi thấy rằng nước mắt cũng đang lăn trên má anh.
“Chào Katie”, cô thì thầm.
Jon nhìn cô. “Katie, chứ không phải Catherine sao?”.
Maryellen gật đầu. Cô đã quen gọi con gái bé bỏng bằng cái tên đó.
“Catherine dường như là một cái tên quá dài cho một đứa trẻ bé bỏng như vậy, anh có nghĩ thế không?”. Katie cũng là tên của mẹ anh, và Maryellen muốn làm như vậy là vì anh. Cô muốn thể hiện sự kính trọng đối với người mẹ mà anh luôn luôn yêu quý.
Jon nhìn không rời mắt khỏi khuôn mặt vẫn còn đỏ hỏn đang nhăn nhó khóc của đứa trẻ. “Cám ơn em”, anh thì thầm, và tay anh ôm chặt vai cô. Bác sỹ Abner giao đứa trẻ đang khóc cho cô y tá.
“Bố cháu có thể đi theo tôi”, cô y tá đỡ đẻ nói với anh. “Tôi sẽ cân và tắm cho cháu, và lúc đó anh có thể bế con gái bé bỏng của mình”.
Jon quay sang Maryellen như muốn hỏi ý cô. Với đôi mắt đẫm lệ vì vui mừng và xúc động cô gật đầu. Không gì trên thế giới này có thể so với cảm giác lúc này của cô, một cảm giác chiến thắng, hân hoan và đầy yêu thương.
Maryellen yêu đứa trẻ biết bao. Mãnh lực tình yêu trong trái tim cô không giống với bất cứ cảm xúc nào cô từng trải qua.
Jon và cô y tá đang bận rộn phía bên kia căn phòng. Maryellen không thể nhìn thấy tất cả những việc đang xảy ra, nhưng cô nhìn thấy khuôn mặt Jon khi cô y tá đặt đứa bé vào tay anh. Nét mặt anh lúc đó vừa sợ hãi vừa phấn khởi khiến cô thấy cảm động sâu sắc. Đúng lúc đó, anh cũng liếc nhìn cô – và ánh mắt họ gặp nhau.
“Con bé thật xinh đẹp”, anh thì thầm, nâng niu con gái trong vòng tay.
Cũng muốn được bế con gái, Maryellen giơ hai tay lên và Jon từ cuối căn phòng đi về phía cô, trao Katie vào vòng tay âu yếm chờ đợi của cô.
Maryellen nhận thấy đây là cách mà cả hai sẽ sống vì con gái. Cả cô và anh sẽ phải học cách chia sẻ trách nhiệm với con, họ sẽ gạt bỏ những mong muốn, nhu cầu của mình sang một bên, để dành cho Katie những điều tốt đẹp nhất.
Có tiếng gõ cửa nhưng Maryellen không mấy chú ý. Cô đang chăm chú với Catherine Grace. Khuôn mặt bé bỏng vẫn còn đỏ và hai mắt bé nhắm chặt như thể ánh sáng ở bên ngoài quá chói với bé.
Jon đưa ngón tay ra và bàn tay nhỏ xinh của Katie nắm chặt lấy ngón tay anh.
Một phụ nữ trẻ, có vẻ như là một nhân viên tình nguyện, ngó đầu vào trong phòng. “Có bà Sherman ở ngoài. Bà nói rằng bà là người được vào phòng sinh cùng cô”.
“Đó là mẹ tôi”, Maryellen mỉm cười giải thích.
Người nhân viên tình nguyện cũng cười với cô:
“Vậy tôi sẽ cho bà vào”.
Hai phút sau, cả mẹ và Kelly đều đã ở trong phòng. Mọi người dồn dập hỏi thăm cô. Trước khi Maryellen ý thức được sự vắng mặt của Jon, anh đã lặng lẽ rút lui, thậm chí không để cô kịp nói lời cảm ơn.
Trong khi chờ cuộc họp của hội đồng thành phố bắt đầu, Charlotte Jefferson cặm cụi đan len. Bà thấy buồn vì trong cộng đồng ngày càng có nhiều người không quan tâm đến chính quyền địa phương. Nhưng thật ra, đây mới chỉ là lần thứ hai trong bảy mươi lăm năm qua bà tham gia cuộc họp của hội đồng. Bản thân bà cũng không mấy quan tâm đến những vấn đề của thành phố cho đến tận thời gian gần đây.
“Chào Louie”, bà nói và gật đầu chào lịch sự khi ngài thị trưởng bước vào.
Chỉ có mình bà ngồi trên hàng ghế đầu.
“Tôi đã biết tin mừng của bà rồi. Chúc mừng bà nhé”. Louie Benson nói khi đi qua chỗ Charlotte. Gia đình Benson là một gia đình đã có nhiều thế hệ sống ở vịnh Cedar. Otto, em trai Louie, là một luật sư xuất chúng trong thị trấn.
“Vâng, tôi đã có chắt trai”, bà khẳng định. “Đứa chắt trai đầu tiên”.
“Tôi cũng mới biết là Grace Sherman đã lên chức bà ngoại. Và đây là lần thứ hai làm bà của chị ấy”.
“Vừa mới tuần trước thôi”. Grace rất tự hào về đứa cháu gái đầu tiên của mình, con của Maryellen, cũng như đứa cháu trai, Tyler, con của Kelly và Paul.
Thật thú vị khi Olivia và cô bạn thân nhất cùng trở thành bà ngoại một lúc. Hai người lúc nào cũng thân nhau và niềm vui của người này cũng trở thành niềm vui của người kia.
“Tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy bà tham gia cuộc họp của hội đồng thành phố”, ngài thị trưởng nói. “Có điều gì khiến bà không hài lòng chăng?”.
“Tôi đến đây là có lý do”. Charlotte kéo mạnh sợi len và tay vẫn thoăn thoắt đan.
“Tôi có giúp gì cho bà được không?”, ngài thị trưởng đề nghị.
Thực lòng Charlotte đã rất hy vọng Loiue sẽ hỏi mình câu đó. “Tôi có đề xuất rằng thị trấn này nên mở một phòng khám chăm sóc sức khoẻ. Tôi lấy làm xấu hổ khi từ trước tới giờ chúng ta không có lấy một phòng khám”. Tất cả mọi người đều phải lái xe từ năm đến mười lăm dặm đến khu Bremerton để khám bệnh, và điều đó có nghĩa là họ phải đợi hàng tiếng đống hồ trong phòng cấp cứu. Một thị trấn với diện tích như vịnh Cedar có thể dễ dàng có kinh phí để xây dựng một phòng khám. Nhưng Charlotte muốn một khu chăm sóc sức khoẻ thật sự tiện nghi, một nơi dành cho tất cả mọi người ở vịnh Cedar.
“Ngay bây giờ sao, bà Charlotte …”.
“Phòng khám này sẽ hoạt động trên hình thức thu phí với giá rẻ”, bà nói át đi vì không muốn nghe lời phản đối của Louie. “Tôi biết người bệnh trong thị trấn sẽ rất nhiệt tình ủng hộ việc này vì họ không còn phải đi cả đoạn đường dài đến Bremerton hay Silverdale để khám sức khoẻ nữa”.
“Tôi đồng ý, nhưng …”.
“Rất nhiều bạn bè không thường xuyên được tới bác sỹ để chăm sóc sức khoẻ vì lo sợ khoản chi phí khám bệnh phát sinh ra khi phải đi xa”.
“Tôi cũng biết điều đó, song …”.
“Louie Benson, ông bắt đầu nói chuyện như một chính trị gia rồi đấy”.
“Bà Charlotte, chúng ta đều biết vị trí của tôi chỉ là bù nhìn, người ta có thuê một người quản lý khác đấy. Nếu bà muốn nói chuyện với Matthew Harper về việc thành lập một phòng khám sức khoẻ giá rẻ thì bà cứ gặp ông ta, nhưng ngay lúc này tôi có thể nói cho bà biết rằng không có ngân sách cho việc này”.
Nếu bắt buộc phải như vậy thì bà sẽ thảo luận với người quản lý. “Tôi sẽ làm như vậy”.
Louie có vẻ phật ý, ông liếc xung quanh và hạ giọng nói. “Tôi có một lời khuyên dành cho bà”.
“Tôi trân trọng bất cứ điều gì ông nói”, Charlotte khẳng định, mắt vẫn chăm chú vào kim đan như thể công việc đó đòi hỏi bà phải tập trung cao độ.
“Hãy tập hợp tất cả những luận cứ của bà trước khi gặp Matt Harper”.
“Tôi sẽ làm như vậy”, Charlotte nhấn mạnh. Harper khét tiếng là chặt chẽ, chi li với ngân sách của thị trấn, nhưng nếu ông ta cho rằng có thể cản những cố gắng của bà thì ông ta đã gặp nhầm người. Dù đây là điều cuối cùng làm được trước khi chết, Charlotte cũng sẽ quyết tâm đẽ được nhìn thấy vịnh Cedar có một phòng khám sức khoẻ riêng.
Cánh cửa bật mở, ngài thị trưởng nhanh chóng ngồi thẳng lên và chuyển chủ đề như thể cả hai đang có một cuộc nói chuyện hết sức lịch sự, xã giao. “Thế tình hình mọi người ở Hội Người cao tuổi ra sao?”.
“Bệnh thấp khớp của Laura lại tái phát”, Charlotte kể. “Bà ấy nói mùa đông năm nay chắc sẽ khắc nghiệt. Bess thì ho suốt mùa hè. Tôi đã khuyên không biết bao nhiêu lần rằng bà ấy phải đến gặp bác sỹ, nhưng bà ấy sợ những lời chẩn đoán nên vẫn không chịu đi. Nếu thị trấn này mà có một phòng khám thì tôi sẽ đăng ký lịch khám và kéo bà ấy đến đó. Và Evelyn …”, Charlotte ngừng nói vì nhận ra Louie không còn lắng nghe nữa, ông ta đã chuyển hướng sự chú ý của mình đi chỗ khác.
Thấy bà đã ngừng kể lể, Louie vỗ vai bà và nói. “Rất vui được trò chuyện với bà, Charlotte ạ. Tôi sẽ xem xét đề nghị của bà”.
“Ông nhớ xem xét giúp tôi đấy”, Charlotte nói với theo và biết rằng lời nói của mình đối với Benson cũng sẽ vào tai này ra tai kia, nhưng dù sao ông ta cũng đã cho bà một lời khuyên hữu ích. Bà cần phải có thông tin đầy đủ và chính xác trước khi đưa ra kiến nghị.
Charlotte quyết định đứng lên ngay sau khi đan xong đường viền. Không ai muốn nghe một bà già lẩm cẩm góp ý, ít nhất cũng là như thế trong căn phòng toàn đàn ông mà người nào cũng gắng tỏ ra quan trọng hơn người kia. Cánh cửa phía sau căn phòng cọt kẹt mở, Charlotte cho rằng lại là một thành viên hội đồng khác nên không buồn quay lại nhìn.
Thật ngạc nhiên khi đó là Ben Rhodes. Ông là một người cao to, nổi bật với mái tóc trắng dày. Bà đã bảy mươi lăm tuổi nhưng chưa bao giờ hết rung động trước một người đàn ông đẹp trai, và bây giờ vẫn vậy. Một số bà bạn trong Hội Người cao tuổi nói Ben trông giống như Cesar Romero. Ông mới chuyển đến vùng này nên bà chưa biết nhiều, nhưng ở hội thì ông được rất nhiều người yêu quý, đặc biệt là phụ nữ – và vì lý do gì thì ai cũng biết.
“Chào ông Ben”, bà nói khi Ben ngồi xuống hàng ghế đối diện với bà.
Ông nhìn sang phía bà; từ cái nhìn trống rỗng của ông ta, bà hiểu rằng ông ấy không nhận ra mình.
“Tôi là Charlotte Jefferson ở Hội Người cao tuổi Henry M.Jackson”.
Một nụ cười ấm áp thay đổi nét mặt Ben khi ông băng qua lối đi giữa hai hàng ghế đến ngồi cách bà một ghế. Họ chưa chính thức được giới thiệu để làm quen với nhau, nhưng bà đã gặp ông nhiều lần. Cứ mỗi sáng thứ hai Ben, cũng như bà, lại có mặt ở Hội Người cao tuổi. Ông đến chỉ để chơi bài brit và Pinooc, còn bà đến tham gia vào nhóm đan lát.
Ben luôn tới Hội một mình. Charlotte tự hỏi vợ ông đâu mà bà không bao giờ nhìn thấy, nhưng họ chưa có cơ hội để nói chuyện với nhau. Nhưng cứ theo cách các bà ở câu lạc bộ nói về ông như những con ong vây quanh hũ mật thì bà đoán rằng ông đã goá vợ.
Đã một lần Charlotte chủ động nói chuyện với Ben. Đó là hôm Olivia đến làm khách mời danh dự tại bữa tiệc trưa hàng tháng do Hội Người cao tuổi tổ chức. Hôm đó bà cũng đã nói chuyện với rất nhiều người. Bà lấy làm vinh dự khi con gái mình đã có một bài nói chuyện hết sức ấn tượng. Nhưng đó là nhiều tháng trước đây và Charlotte không dám chắc liệu Ben còn nhớ Olivla là con gái bà hay không.
“Tôi không biết là ông cũng quan tâm đến chính trị”, Charlotte bắt đầu cuộc nói chuyện mới mặc dù trước đó bà đã có ý định ra về. Bây giờ khi Ben đã ở đây thì bà không có gì phải vội vã nữa.
“Tôi không quan tâm nhiều đến những cuộc tranh luận chính trị. Tôi đến đây vì có một đề xuất với hội đồng thành phố. Còn bà thì sao?”.
“Tôi cũng đến đây vì lý do đó”, bà nói. “Vịnh Cedar cần có một phòng khám sức khoẻ”.
Đôi mắt xanh sâu thẳm của Ben mở to hơn. “Đó cũng chính là lý do khiến tôi đến đây”.
“Một phòng khám với các mức thu phí linh động”, Charlotte đáp, “để mọi người không kể tuổi tác và thu nhập đều có khả năng được khám chữa bệnh”.
Ben nhiệt thành gật đầu. “Tôi hoàn toàn đồng ý với bà”.
Họ ngồi nói chuyện trong suốt cuộc họp, cách nhau một chiếc ghế. Khi Matthew Harper hỏi có ai có ý kiến gì mới không, Ben liền đứng dậy, bám tay vào thành ghế phía trước và nói. “Liệu tôi có thể đưa ra đề xuất của mình với Hội đồng thành phố không?”.
Harper ngẩng đầu, nhìn ông Ben và bà Charlotte một cách tò mò và gật đầu.
Ben phát biểu rất hùng hồn. Ông nói rằng con người có quyền được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tốt và vạch rõ những lợi ích mà một phòng khám sẽ mang lại cho vịnh Cedar, cuối cùng ông kết thúc bằng câu. “Hãy cùng nhau chung sức để vượt qua những vấn đề hành chính và hãy xin giấy phép để thành lập một phòng khám. Làm được điều đó là góp phần nâng cao sức khoẻ cho tất cả mọi người dân trong cộng đồng của chúng ta”.
Charlotte muốn nhảy lên và vỗ tay thật to. Ngay cả trong ý nghĩ, bà cũng chưa chuẩn bị được luận chứng luận cứ nào có tính thuyết phục hơn những lời Ben đã phát biểu. Ông còn lái vấn đề theo hướng lợi ích chung, và nhấn mạnh rằng việc có một phòng khám hiển nhiên là nhờ sự lãnh đạo và những tác động của hội đồng thành phố. Charlotte rất ngạc nhiên và thán phục sự khéo léo của ông.
Cả hội đồng ai cũng phải mỉm cười, họ hứa sẽ xem xét và trả lời về vấn đề này ở buổi họp lần tới.
Sau khi buổi họp kết thúc, Charlotte cất chỗ len đang đan dở vào túi. “Ông thật tài”, bà nói. “Tôi không thể trình bày về vấn đề phòng khám sức khoẻ hay như ông”.
“Cám ơn bà”. Ben đứng dậy và lịch sự tránh sang một bên để Charlotte có thể đi qua lối đi trước mặt ông.
Họ cùng bước ra ngoài, tiết trời đang ấm áp. Đó là tối thứ Năm. Có tiếng nhạc văng vẳng vọng lại từ phía công viên bến cảng. “Ông có biết là tôi đã phải bỏ lỡ buổi hoà nhạc ở thị trấn vì việc này không”, cho dù đây bà nghĩ cũng không phải một sự hy sinh trong buổi tối hôm nay. Người tổ chức đã cho đan xen các chương trình trình diễn rối nước và vì vậy có vẻ như hướng tới khán giả trẻ tuổi nhiều hơn.
“Vậy chúng ta cùng uống cà- phê nhé”. Ben đề nghị.
Charlotte thấy tim mình xao xuyên. Nghe chừng thật ngốc nghếch, nhưng không phải ngày nào bà cũng nhận được một lời mời hấp dẫn như vậy. “Được thôi”.
“Chúng ta đến quán Lighthouse nhé”. Ben hỏi.
Charlotte cười rạng rỡ. “Tuyệt quá. Ông biết không, cháu gái tôi và chồng nó chính là chủ của quán ấy đấy”.
Ben tỏ ra ngạc nhiên. “Dường như chúng đang rất thành công”.
Charlotte gật đầu đồng ý, nhưng có vẻ như không hay lắm nếu bà cứ khoe khoang mãi về Justine và Seth. Bà cũng ngạc nhiên khi thấy hai đứa trẻ này thành công đến thế trong khi chúng hầu như không có kinh nghiệm về việc quản lý và kinh doanh nhà hàng. Bù lại chúng có đầu bếp giỏi, có kỹ năng xã hội tốt và khả năng kinh doanh bẩm sinh.
Cũng thật tình cờ, cả Seth và Justine đều không có mặt ở quán tối hôm đó, Charlotte chọn chỗ ngồi ngoài hiên, nơi có tấm nhìn rất đẹp và đăm chiêu trông ra vịnh, ngắm những ngọn sóng lô xô lấp lóa dưới luồng sáng di động của ngọn hải đăng, ngắm ánh đèn lung linh từ xưởng đóng tàu hắt xuống bề mặt sẫm màu của vịnh Sinclair.
Cả hai đều gọi cà- phê và bánh nhân táo để ăn cùng với kem.
“Thật là một lựa chọn dễ chịu”. Charlotte nói và lấy dĩa xắn một miếng bánh táo nhỏ. Vị cay nồng của quế thật hợp với vị ngậy của kem vani. Món tráng miệng là một loại hưởng thụ xa xỉ, nhưng cuộc sống quá ngắn nên đôi khi con người không nên bỏ qua những thú vui như vậy.
“Rất nhiều lần tôi muốn dừng chân ở đây, nhưng ngồi ăn một mình thì chẳng có gì là phấn khởi cả”, Ben tâm sự. Ông lắc đầu một cách buồn bã và nói tiếp. “Vợ tôi mất cách đây sáu năm, tôi vẫn chưa biết đến bao giờ mình mới có thể quen được cuộc sống cô đơn này”.
“Ông Clyde nhà tôi cũng ra đi được hai mươi năm rồi”.
“Thế thì chắc là bà thấu hiểu cảm giác của tôi”.
Charlotte hiểu chứ. Thậm chí sau ngần ấy năm bà vẫn cảm thấy một nỗi đau ẩn sâu trong lòng và một nỗi buồn xa xăm. Clyde là tất cả đối với bà: một người bạn chân thành, một người chồng tốt và một người tình tuyệt vời. Khoảng trung mà ông để lại trong cuộc đời bà sau khi mất không gì có thể lấp đầy được.
“Tôi nghe đồn ông đã nghỉ hưu ở hải quân phải không?”, bà nói để chuyển chủ đề trước khi tấm màn u sầu phủ xuống buổi tối của họ.
“Bốn mươi năm”, Ben xác nhận. “Tôi gia nhập hải quân ngay sau Đệ nhị Thế chiến, lúc mới mười tám tuổi. Tôi đã tham chiến ở Hàn Quốc và Việt Nam, sau này nghỉ hưu với hàm Thượng tướng”.
“Ông có đông con cái không?”.
“Tôi có hai con trai. Chúng đều đã lập gia đình riêng. Gia đình bà thì sao?”.
“Tôi chắc ông đã gặp Olivia rồi”.
Ông gật đầu. “Một thẩm phán”.
Vậy là ông ấy có nhớ. “Tôi còn có hai con trai nữa. Will sống ở gần Atlanta, Georgia. Nó là kỹ sư nguyên tử”. Charlotte nói một cách kiêu hãnh. “Còn Steven, con trai lớn của tôi cũng sống ở Georgia. Ông đã nghe nói đến đảo St.Simon chưa? Clyde và tôi đã đến đó một lần vào mùa hè. Để tôi nhớ xem, chắc phải vào thập ky sáu mươi, nhưng tôi vẫn còn nhớ nơi đó đáng yêu thế nào. Tất cả những cây sồi cổ thụ ở đó đều được phủ một lớp rêu Tây Ban Nha xanh mướt”.
Ben mỉm cười. “Joan cũng từng rất thích đến thăm hòn đảo đó”. Khi nhắc đến tên người vợ, mắt ông thoáng nét buồn. Charlotte rất hiểu việc mất đi người bạn đời của mình là đau khổ như thế nào nên bà nhẹ nhàng vỗ vào bàn tay ông.
“Thời gian sẽ làm vơi đi nỗi đau”, bà thì thầm. “Cuộc sống luôn thay đổi và chúng ta sẽ dần thích nghi với nó. Mỗi năm trôi qua, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn một chút”. Bà nghĩ an ủi như vậy sẽ khiến ông cảm thấy dễ thổ lộ về người vợ đã mất hơn. “Kể cho tôi nghe về bà nhà ông đi”.
Ben tỏ ra ngạc nhiên. “Bà muốn nghe tôi kể về Joan ư?”.
“Nếu ông muốn”.
Hiển nhiên là Ben rất muốn kể. “Joan đã đi theo tôi khắp nơi trên thế giới. Tôi phải đóng quân ở châu Âu, châu Á và ở một số bang ở Mỹ. Chưa bao giờ bà ấy than phiền vì điều đó. Tôi đã hứa với bà ấy là khi nghỉ hưu, chúng tôi sẽ định cư một chỗ”.
“Và ông có làm như vậy không?”.
“Có, ở California. Chúng tôi đã xây nhà ở đó, được khoảng mười năm nhưng rồi Joan đổ bệnh. Ung thư”.
“Điều gì khiến ông tới vịnh Cedar?”.
Ben im lặng một lúc lâu. Bóng tối đang buông xuống, và ánh sáng phản chiếu trên mặt hồ tĩnh lặng. “Tôi không thể ở trong căn nhà đó được nữa. Tôi chuyển đến San Diego, nhưng vẫn cảm thấy không ổn. Rồi tôi đi lên phía Washington, Seattle một vài lần. Vài người bạn của tôi có mời tôi đến chơi sau đám tang của Joan, mỗi năm tôi đều đến nhà họ vài lần. Cách đây vài năm tôi có đi phà đến Bremerton. Tình cờ, tôi ghé qua vịnh Cedar và tôi thấy thích nơi này. Người dân ở đây rất thân thiện, vừa hay tôi cũng đang tìm một chỗ mới để sinh sống”.
“Thế các con trai của ông thì sao?”.
“David muốn tôi chuyển tới sống gần nó, nó đang ở Arizona, nhưng điều đó cũng không mấy hứng thú với tôi. Nó muốn được chăm sóc tôi, nhưng tôi lại không bao giờ muốn trở thành gánh nặng của con cái”.
“Tôi hiểu ý của ông”. Charlotte cũng có suy nghĩ đó. Bà tin rằng Ben không bao giờ cam chịu trở thành gánh nặng cho bất cứ ai. Ông ấy bản chất là một người kiêu hãnh, có tài và rất độc lập.
“Ông sống ở đây được bao lâu rồi”.
“Cho đến giờ là được hơn một năm”.
Thật lạ lùng. Lẽ ra bà phải biết ông từ lâu rồi chứ!
Ben liếc nhìn đồng hồ và dường như rất ngạc nhiên khi thấy thời gian trôi nhanh. “Chúa ơi, đã gần chín rưỡi rồi”.
“Không thể như vậy được!”. Charlotte chắc là ông đã xem nhầm. Họ mới vừa tới đây lúc sau tám giờ. Cuộc họp của hội đồng thành phố bắt đầu lúc bảy giờ và kéo dài trong vòng một tiếng.
“Bà là một phụ nữ cởi mở và chân thành, Charlotte ạ”.
Charlotte thấy tim mình xao xuyến bởi lời khen của ông. “Cám ơn ông đã khen”. Bà kiềm chế để không nói ra rằng Ben Rhodes cũng là một người rất biết cách nói chuyện, và là một người đàn ông dễ mến.