Sau một tiếng đồng hồ dỗ ngọt, nài nỉ, hăm dọa, và cả hôn nữa, cuối cùng, từng húp một, Peeta cũng chén cạn tô xúp. Tôi để cậu thiếp dần đi rồi chén phần của mình. Tôi ăn ngấu nghiến bữa khuya với gà gô-linh và rễ củ trong lúc theo dõi sự kiện ngày hôm nay trên bầu trời. Không có thêm thương vong. Dù vậy, Peeta và tôi đã cho khán giả một ngày khá thú vị. Hy vọng Ban Tổ chức sẽ cho chúng tôi một buổi tối yên bình.
Theo phản xạ, tôi nhìn xung quanh tìm một cái cây thích hợp làm chỗ ngủ, nhưng rồi lại thấy không ổn. Ít nhất là lúc này. Khó có thể bỏ Peeta nằm ở đây mà không ai canh chừng. Tôi đã không xóa dấu vết chỗ Peeta nằm trốn bên bờ suối – làm sao tôi giấu được đây? – và chúng tôi chỉ cách đó năm mươi mét xuôi dòng. Tôi đeo kính đêm, cầm lấy vũ khí trong trạng thái sẵn sàng và ngồi xuống canh chừng.
Nhiệt độ hạ xuống nhanh chóng, khiến tôi lạnh đến thấu xương. Cuối cùng, tôi chịu thua và chui vào túi ngủ với Peeta. Trong đấy thật ấm áp và tôi cứ thoải mái hưởng thụ, cho đến khi nhận ra nó còn hơn cả ấm, chính xác là quá nóng, bởi chiếc túi đang hấp thu cơn sốt của Peeta. Tôi rờ trán cậu thì thấy nóng hầm hập. Tôi không biết làm gì với Peeta. Cứ để trong túi ngủ và hy vọng sức nóng quá mức sẽ giúp cậu hạ sốt? Đưa ra ngoài và hy vọng trời đêm sẽ làm mát cơ thể cậu? Sau cùng tôi thấm ướt một dải băng và đắp lên trán Peeta. Có vẻ không mấy tác dụng, nhưng tôi không dám làm điều gì quá tay.
Suốt cả đêm, tôi nửa ngồi nửa nằm bên cạnh Peeta, thỉnh thoảng thấm ướt lại chiếc băng, cố không nghĩ ngợi nhiều về việc nếu bị dồn thành một đội với cậu thế này, tôi sẽ yếu ớt hơn khi đang hành động đơn độc rất nhiều. Tôi bị kẹt ở dưới mặt đất khi phải bảo vệ một người ốm đang cần chăm sóc. Nhưng trước đó, tôi đã biết trước Peeta bị thương. Và tôi vẫn đi tìm cậu. Tôi chỉ đơn giản tin rằng, thứ bản năng mách bảo tôi làm việc này là đúng.
Khi bầu trời xuất hiện ráng bình minh, tôi thấy môi cậu lấm tấm mồ hôi và phát hiện rằng cơn sốt đã bị đẩy lùi. Tuy chưa thể được như bình thường, nhưng người cậu đã hạ nhiệt đi một chút. Tối qua khi nhặt những cành nho, tôi thấy bụi dâu của Rue. Tôi bứt những trái dâu và nghiền chúng trong tô xúp với nước lạnh.
Peeta phải gắng gượng lắm mới dậy được khi tôi trở về hang đá. “Tớ tỉnh dậy thì cậu đã đi rồi,” cậu nói. “Cậu làm tớ lo.”
Tôi không nhịn nổi cười trong lúc đỡ cậu nằm xuống lại. “Tớ đã làm cậu lo à? Thế cậu đã để ý đến bản thân chưa đấy?”
“Tớ nghĩ rất có thể Cato và Clove đã tìm thấy cậu. Chúng thích săn vào ban đêm,” cậu nói, vẫn với vẻ nghiêm trọng.
“Clove? Nó là ai?” tôi hỏi.
“Con bé từ Quận 2. Nó vẫn còn sống đúng không?” cậu hỏi.
“Đúng, chỉ còn lại chúng, hai chúng ta, Thresh và Mặt cáo,” tôi nói. “Đó là biệt danh tớ đặt cho con bé Quận 5. Cậu thấy thế nào rồi?”
“Đỡ hơn hôm qua. Một sự cải thiện đáng kinh ngạc so với lúc ở bãi bùn,” cậu nói. “Quần áo tinh tươm, thuốc thang, một cái túi để ngủ… và còn có cậu.”
Ồ, phải rồi, câu chuyện tình cảm lãng mạn. Tôi với tay chạm vào má Peeta, cậu nắm lấy tay tôi và đặt lên môi mình. Tôi nhớ là cha từng làm điều tương tự với mẹ và tự hỏi, không biết Peeta đã học điều này từ đâu nhỉ? Chắc chắn không phải từ cha và bà già mẹ cậu.
“Nếu không ăn thì không hôn thêm cái nào nữa,” tôi nói.
Tôi đỡ Peeta ngồi tựa vào tường, cậu ngoan ngoãn nuốt từng thìa dâu nghiền tôi đút. Tuy nhiên cậu lại từ chối món gô-linh.
“Cậu không hề ngủ,” Peeta nói.
“Tớ ổn mà,” tôi nói. Sự thật là tôi đang mệt lử.
“Ngủ đi. Tớ sẽ canh chừng. Tớ sẽ đánh thức cậu nếu có gì xảy ra,” cậu nói. Tôi do dự. “Katniss này, cậu không thể thức mãi được.”
Về điểm này thì Peeta đúng. Cuối cùng tôi vẫn phải ngủ. Và có lẽ tôi nên ngủ vào lúc này, khi cậu có vẻ tương đối tỉnh táo và trời thì đã sáng. “Được rồi,” tôi nói. “Nhưng chỉ vài tiếng thôi. Rồi cậu đánh thức tớ dậy.”
Bây giờ chui vào túi ngủ chắc là ấm lắm. Tôi trải phẳng nó lên sàn hang và nằm xuống, một tay cầm lấy cây cung đã lắp tên, sẵn sàng bắn khi cần thiết. Peeta ngồi cạnh tôi, dựa vào tường, bên chân bị thương duỗi thẳng, mắt nhìn đăm đăm ra bên ngoài. “Ngủ đi nào,” Peeta dịu dàng. Tay cậu vén những mớ tóc lưa thưa trên trán tôi. Không như những nụ hôn và săn sóc giả vờ trước đó, cử chỉ này có vẻ tự nhiên và không gượng gạo. Tôi không muốn cậu dừng lại. Cậu cứ vuốt tóc tôi như thế cho đến khi tôi chìm vào giấc ngủ.
Lâu. Tôi ngủ rất lâu. Từ lúc mở mắt, tôi đã nhận ra trời đã về chiều. Peeta vẫn ở ngay cạnh tôi, không đổi tư thế. Tôi ngồi dậy, cảm giác hơi lo âu nhưng đỡ mệt mỏi hơn nhiều so với những ngày trước đó.
“Peeta, lẽ ra sau vài tiếng là cậu phải đánh thức tớ dậy,” tôi nói.
“Để làm gì? Chẳng có gì xảy ra cả,” cậu nói. “Với lại, tớ thích nhìn cậu ngủ. Cậu không cáu kỉnh. Trông khá hơn nhiều.”
Dĩ nhiên là tôi phát cáu, và điều này khiến cậu cười nhăn nhở. Khi đó tôi mới nhận ra môi cậu khô thế nào. Tôi rờ lên má Peeta. Nóng như bếp than. Cậu nói đã uống nước, nhưng chai nước vẫn còn đầy. Tôi đưa cậu thêm vài viên hạ sốt và canh chừng cậu uống một, rồi hai lít nước. Rồi tôi xem những vết thương nhẹ của cậu, những vết phỏng, vết đốt; chúng trông có vẻ khá hơn. Tôi lấy can đảm tháo băng vết thương ở chân.
Tim tôi quặn lại. Trông nó tệ, rất tệ. Bề ngoài thì không còn mủ, nhưng vết sưng to hơn và chỗ da căng lên đỏ tấy. Rồi tôi thấy một dòng máu đỏ bắt đầu rỉ ra khỏi chân Peeta. Nhiễm trùng máu rồi. Nếu không chữa, chắc chắn vết thương sẽ giết chết cậu. Mấy chiếc lá nhai nhuyễn và thuốc mỡ sẽ không làm nó thuyên giảm. Chúng tôi cần thuốc sát trùng mạnh từ Capitol. Tôi không tưởng tượng được loại thuốc công hiệu đó sẽ có giá ra sao. Nếu Haymitch đi gom tiền từ từng nhà tài trợ, liệu có đủ không nhỉ? Tôi nghi lắm. Đấu trường càng kéo dài thì giá tài trợ càng tăng. Tiền mua một bữa ăn tử tế trong ngày đầu tiên chỉ đủ mua một chiếc bánh xốp trong ngày thứ mười hai. Còn thứ thuốc mà Peeta cần thì ngay từ đầu đã có giá trên trời rồi.
“Ừ, vết sưng có to hơn, nhưng đã hết mủ,” giọng tôi run run.
“Tớ biết nhiễm trùng máu là gì, Katniss ạ,” Peeta nói. “Cho dù mẹ tớ không phải bác sĩ.”
“Cậu phải cố cầm cự lâu hơn bọn chúng, Peeta ạ. Người ta sẽ chạy chữa khi chúng ta thắng và về đến Capitol,” tôi nói.
“Ừ, kế hoạch được đấy,” cậu nói. Nhưng tôi cảm giác rằng tôi chỉ biết nghĩ đến mình.
“Cậu phải ăn. Giữ cho cơ thể khỏe mạnh. Tớ sẽ nấu xúp cho cậu,” tôi nói.
“Đừng đốt lửa nhé,” cậu nói. “Không đáng để bị phát hiện đâu.”
“Để rồi xem,” tôi nói. Khi cầm chiếc tô xuống suối tôi mới giật mình nhận ra bên ngoài nóng khủng khiếp thế nào. Tôi cam đoan là Ban Tổ chức đang từ từ nâng nhiệt độ ban ngày lên và kéo nhiệt độ ban đêm xuống. Dù vậy, những hòn đá bị đốt nóng dưới ánh mặt trời làm tôi nảy ra một ý nghĩ. Có lẽ tôi không cần phải phải đốt lửa.
Tôi ngồi xuống một tảng đá lớn bằng phẳng giữa con suối và cái hang. Sau khi lọc nửa bát nước, tôi đặt nó dưới ánh mặt trời và bỏ vào bát nước vài hòn đá to bằng quả trứng nóng ran. Tôi phải thừa nhận là mình không giỏi nấu nướng. Nhưng việc nấu món xúp này đơn giản chỉ là bỏ mọi thứ vào bát và ngồi đợi thôi, nên đó là một món ra trò. Tôi băm thịt gô-linh cho thật nhuyễn rồi nghiền một ít rễ củ của Rue. May mắn là chúng đã được quay sẵn nên chỉ cần hơ nóng lại. Thế là đã có nước nóng bằng ánh nắng và mấy viên đá. Tôi bỏ thịt và rễ củ vào, lấy mấy viên đá ra và đi tìm ít rau rừng để làm nó mát mắt hơn một chút. Không mất nhiều thời gian, tôi phát hiện ra một bụi cỏ thơm mọc dưới chân những hòn đá. Hoàn hảo. Tôi xắt chúng thật nhỏ rồi cho vào tô, lại bỏ mấy viên đá vào, hơ trước ánh nắng để hâm chín các thứ.
Tuy phát hiện ra vài dấu hiệu của đám thú hoang ở xung quanh, nhưng do không yên lòng để Peeta một mình trong khi đi săn, tôi đã đặt nửa tá bẫy và cầu cho vận may sẽ tới. Tôi không biết những đấu thủ còn lại đang làm cách nào khi nguồn thức ăn chính của bọn chúng đã biến thành tro bụi. Ít nhất có ba đứa, Cato, Clove và Mặt cáo, đã phải dựa vào đó. Dù vậy, có lẽ Thresh thì không. Tôi có cảm giác là hắn ta cũng biết những ngón nghề của Rue về cách tự mình kiếm ăn. Liệu bọn chúng có đang đánh nhau? Săn lùng chúng tôi? Có lẽ một trong số chúng đã tìm ra bọn tôi và chỉ là đang đợi thời điểm thích hợp để tấn công. Ý nghĩ đó khiến tôi quay lại hang đá.
Peeta nằm duỗi ra trên chiếc túi ngủ sau bóng râm của những tảng đá. Mặc dù khi đi vào, tôi thấy cậu có sáng sủa hơn chút đỉnh, nhưng rõ ràng vẻ mặt Peeta vẫn đau đớn lắm. Tôi đặt tấm khăn lạnh lên đầu cậu, nhưng nó lại nóng trở lại ngay khi vừa chạm vào da thịt.
“Cậu có muốn thứ gì không?” tôi hỏi.
“Không,” cậu nói. “Cảm ơn. Chờ đã, có. Kể chuyện tớ nghe đi.”
“Kể chuyện à? Về cái gì kia chứ?” tôi nói. Tôi không giỏi kể chuyện lắm. Nó giống như vụ ca hát. Nhưng có lần cách đây đã lâu, Prim nịnh tôi hát cho nó nghe một bài.
“Chuyện gì đó vui vui. Kể tớ nghe ngày hạnh phúc nhất mà cậu nhớ,” Peeta nói.
Tôi bật ra tiếng nửa như thở dài nửa như giận dỗi. Kể một câu chuyện vui ư? Việc này mất công nhiều hơn nấu xúp. Tôi cố lục lại trong trí nhớ những kỷ niệm vui. Hầu hết là chuyện giữa Gale và tôi khi đi săn, nhưng tôi không nghĩ những chuyện đó sẽ làm vừa lòng Peeta hay khán giả. Chỉ còn lại Prim.
“Tớ đã bao giờ kể cậu nghe về con dê của Prim chưa nhỉ?” tôi hỏi. Cậu lắc đầu và nhìn tôi chờ đợi. Tôi bắt đầu kể. Nhưng phải cẩn thận. Bởi lời tôi kể sẽ truyền đến khắp Panem. Và mặc dù người ta có thể đoán dễ như trở bàn tay rằng tôi đi săn bất hợp pháp, tôi không muốn làm tổn hại đến Gale hay Greasy Sae hay người bán thịt, thậm chí cả những khách hàng trong Đội Trị an bằng cách nói lộ ra là họ cũng phạm luật.
Câu chuyện có thật về cách tôi kiếm tiền để mua con dê Cô Nương của Prim là như thế này. Chuyện xảy ra vào buổi tối thứ Sáu, một ngày trước sinh nhật lần thứ mười của Prim vào cuối tháng năm. Ngay trước khi kỳ học kết thúc, Gale và tôi vào rừng, vì tôi muốn kiếm đủ tiền để mua quà cho Prim. Có thể là quần áo mới, một chiếc váy và chiếc bàn chải tóc chẳng hạn. Chúng tôi đã kiếm được khá đủ từ những chiếc bẫy và cũng hái được ít nhiều rau xanh, nhưng điều đó thực sự không làm buổi tối thú Sáu trở nên đặc biệt hơn. Tôi tỏ ra thất vọng trên đường về, dù Gale nói rằng ngày mai chắc chắn sẽ khá hơn. Chúng tôi đang ngồi nghỉ một lúc bên bờ suối thì tôi bắt gặp một con mồi. Xem ra nó mới tầm một tuổi. Hai chiếc gạc vừa mới nhú lên, vẫn còn nhỏ xíu và còn phủ lớp nhung. Nó trong tư thế chạy đi nhưng vẫn còn e dè trước chúng tôi, vẫn còn lạ lẫm hơi người. Xinh thật.
Nhưng sau khi bị bắn hai mũi tên bắn, một ở cổ, một ở ngực, thì nó bớt xinh đi nhiều. Gale và tôi bắn cùng lúc. Con thú nhỏ cố gắng chạy nhưng bị vấp, và Gale đã kịp cứa dao vào cổ họng trước khi nó hiểu chuyện gì đang diễn ra. Ngay lập tức, lòng tôi chùng lại trước việc giết một con vật quá xinh và ngây thơ. Và rồi bụng tôi lại reo ùng ục trước ý nghĩ về một bữa thịt, của con thú đó.
Một con nai! Gale và tôi mới chỉ hạ được ba con tất cả. Con đầu tiên, một con nai mẹ bị thương ở chân, thì hầu như không tính. Nhưng sau lần đó chúng tôi rút ra kinh nghiệm là không nên kéo lê con gia súc vào chợ Hob. Việc đó có thể gây hỗn loạn, khi người ta chen nhau đặt giá từng phần thịt và thực tế là cố gắng xẻo mấy miếng mang về nhà. Lần đó Greasy Sae đã can thiệp và giúp chúng tôi đưa con nai đến tiệm thịt, nhưng khi đó nó đã bị xẻo thịt đến tàn tệ, lỗ chỗ từng mảng từng mảng. Mặc dù người ta trả đúng giá nhưng dẫu sao giá trị con mồi cũng giảm đi đáng kể.
Còn lần này, chúng tôi đợi đến tối và chui dưới lỗ hàng rào gần tiệm thịt. Tuy ai cũng biết chúng tôi là thợ săn nhưng việc mang con nai bảy mươi ký lô qua phố phường ở Quận 12 giữa ban ngày vẫn không được hay ho lắm, như thể chúng tôi đang trêu ngươi giới chức sắc.
Người bán thịt là một phụ nữ nhỏ nhắn, lùn tủn tên là Rooba, mở cửa sau khi nghe tiếng chúng tôi gõ cửa. Không ai mặc cả với Rooba. Bà luôn đưa ra một giá, bán thì mua, không thì thôi, nhưng giá của bà khá tốt. Chúng tôi chấp nhận cái giá và sau khi làm thịt con nai, bà thảy cho chúng tôi vài súc thịt mang về. Ngay cả với tiền công được chia đôi, từ bé đến giờ cả Gale và tôi đều chưa bao giờ cầm trong tay nhiều tiền như vậy. Chúng tôi quyết định giữ bí mật đó và gây bất ngờ cho gia đình với thịt thà và tiền rủng rỉnh vào cuối ngày hôm sau.
Đó là lý do tôi có tiền mua con dê, nhưng tôi kể với Peeta rằng tôi đã bán một chiếc mặt dây chuyền cũ bằng bạc của mẹ. Chuyện này chẳng làm hại ai. Rồi tôi kể câu chuyện vào cuối buổi chiều hôm sinh nhật Prim.
Gale và tôi đến quảng trường đi chợ để tìm mua váy. Khi tôi đang ve vuốt dọc chiếc váy cô tông dày màu xanh da trời, tôi bắt gặp một thứ. Có một ông lão đang trông nom một bầy mấy con dê ở phía bên kia khu Vỉa than. Tôi không biết tên thật ông, chỉ biết người ta vẫn gọi là Lão Dê. Các khớp gối của ông cụ sưng phồng và rệu rã, và cơn ho sù sụ chứng tỏ ông từng làm nhiều năm trong mỏ than. Nhưng ông đúng là may mắn. Không biết từ lúc nào ông đã dành dụm đủ để tậu một đàn dê, và giờ đây ông còn có việc gì đó để làm trong tuổi già chứ không chết dần chết mòn vì đói. Ông trông dơ dáy và khó chịu, nhưng bầy dê khá sạch sẽ và nếu chăm sóc tốt hẳn là sẽ có kha khá sữa.
Một con trong bầy dê, lông trắng đốm đen, đang nằm dài trong chuồng. Có thể thấy tại sao. Có thể là một con chó đã cạp vào vai của nó và vết thương đang nhiễm trùng. Thật tệ, nhưng Lão Dê vẫn để nó nằm đó để lấy sữa. Tôi biết có người có thể chữa cho nó.
“Gale,” tôi nói thầm. “Em muốn mua con dê đó cho Prim.”
Ở Quận 12, việc có một con dê lấy sữa có thể làm đổi thay cuộc đời ai đó. Chúng cứ thế mà lớn, bởi Đồng cỏ là nơi tuyệt vời để nuôi chúng, hơn nữa một con có thể cho bốn lít sữa một ngày. Để uống, để làm pho mát, để bán. Những việc đó không hề phạm luật.
“Nó bị thương nặng lắm,” Gale nói. “Chúng ta nên lại gần hơn để xem.”
Chúng tôi tiến tới mua một cốc sữa chia nhau rồi đứng trước con dê như thể chỉ tò mò vu vơ.
“Để nó yên,” ông lão nói.
“Chỉ nhìn thôi mà,” Gale nói.
“Ừ, nhìn nhanh lên. Nó sắp được đưa đến tiệm thịt. Hầu như chẳng có ai mua sữa của nó, và thế là tiệm thịt chỉ trả có nửa giá,” ông lão nói.
“Tiệm thịt trả giá nó bao nhiêu?” tôi hỏi.
Ông già nhún vai. “Đợi một chút sẽ thấy.” Tôi quay lại và thấy Rooba đang băng qua quảng trường về phía chúng tôi. “May quá bà đây rồi,” Lão Dê nói khi bà đến. “Cô bé này đang để ý con dê của bà đấy.”
“Không, nếu của bác ấy thì thôi,” tôi buột mệng nói.
Rooba nhìn tôi từ trên xuống dưới, rồi cau mày nhìn con dê. “Con bé mà chịu lấy. Nhìn vai con dê kìa. Dám cá với ông, nửa thân con dê này không làm nổi một miếng xúc xích.”
“Cái gì?” Lão Dê nói. “Chúng ta thỏa thuận rồi mà.”
“Chúng ta đã thỏa thuận về con dê có mấy dấu răng trên người. Không phải con này. Hãy bán cho con bé nếu nó dại dột đến mức muốn mua,” Rooba nói. Khi bỏ đi, bà nháy mắt với tôi.
Dù tức muốn điên lên, nhưng Lão Dê vẫn muốn kiếm chút đỉnh từ con dê. Chúng tôi phải mất nửa tiếng ngã giá. Khá đông người bu lại xem và bàn tán. Nếu con dê sống tốt, đây quả là một món bở; còn nếu nó chết, coi như tôi mất trắng. Mỗi người một ý, nhưng tôi vẫn lấy con vật.
Gale muốn giúp tôi mang dê về nhà. Tôi nghĩ anh cũng muốn xem nét mặt của Prim ra sao. Trong lúc vẫn còn lâng lâng, tôi mua một dải ruy băng hồng và thắt quanh cổ con dê. Rồi cả hai vội vã về nhà tôi.
Không thể diễn tả được phản ứng của Prim khi chúng tôi bước vào nhà cùng với thứ vừa mua được. Còn nhớ Prim đã từng khóc nức nở để cứu lấy con mèo Hũ Bơ già tội nghiệp. Nó phấn khích đến độ cùng lúc vừa khóc vừa cười. Mẹ tôi thì do dự hơn sau khi xem vết thương của nó, nhưng cả hai đều bắt tay vào việc, nghiền thảo dược và vỗ về cho nó uống thuốc sắc.
“Họ tận tâm giống cậu nhỉ,” Peeta nói. Tôi gần như quên sự có mặt của cậu ấy.
“Ồ, không, Peeta. Họ chữa tài tình lắm. Rơi vào tay tớ thì chắc nó chết rồi,” tôi nói. Rồi tôi ngậm miệng lại khi thấy như thể mình đang nói đến Peeta, người cũng đang chết dần chết mòn trong đôi tay vụng về của tôi.
“Đừng lo. Tớ không dám thử đâu,” cậu giỡn. “Kể nốt câu chuyên đi chứ.”
“Ừ, tiếp nhé. Tớ chỉ nhớ là tối hôm đó Prim nằng nặc đòi ngủ với Cô Nương trong tấm chăn cạnh đống lửa. Và trước khi lăn ra ngủ, cô nàng dê liếm lên má con bé, như dành cho nó cái thơm chúc ngủ ngon hay đại loại,” tôi nói. “Nó phát cuồng vì con bé.”
“Nó vẫn còn đeo cái ruy băng màu hồng chứ?” Peeta hỏi.
“Tớ nghĩ là còn,” tôi nói.
“Tớ chỉ đang cố hình dung,” cậu trầm tư. “Tớ có thể hiểu vì sao ngày hôm ấy lại khiến cậu vui đến thế.”
“Ừ, tớ biết con dê đó sẽ là một mỏ vàng nho nhỏ,” tôi nói.
“Thì đấy, tất nhiên tớ đang đề cập đến, chứ không phải niềm vui lâu dài cậu đã mang lại cho đứa em mà cậu yêu đến nỗi thế chỗ con bé trong ngày chiêu quân,” giọng Peeta tưng tửng.
“Con dê đã bù đắp hết số tiền mua nó. Gấp nhiều lần là khác,” tôi lên giọng.
“Ừ, nó còn dám làm gì khác sau khi cậu đã cứu mạng nó,” Peeta nói. “Tớ cũng muốn làm điều tương tự.”
“Thật thế sao? Cậu đã đáp lại tớ bằng những gì nào?” tôi hỏi.
“Một đống rắc rối. Nhưng đừng lo. Cậu sẽ nhận lại tất cả,” cậu nói.
“Cậu đang nói nhảm đấy,” tôi nói. Tôi rờ trán Peeta. Vẫn còn sốt. “Dù sao, trán cậu cũng đã hạ nhiệt một chút.”
Tiếng kèn trôm pét làm tôi giật mình. Tôi bật dậy và chạy ngay ra miệng hang, không muốn để lọt mất một lời nào. Đúng như tôi mong đợi, Claudius Templesmith, ông bạn tốt mới của tôi, mời chúng tôi đến phá cỗ. Thật ra thì chúng tôi không đói và tôi cũng không thiết tha gì lời mời gọi cho đến khi ông ấy nói, “Hãy gượm đã. Một số trong các bạn có thể đang muốn khước từ lời mời của tôi. Nhưng đây không phải bữa phá cỗ bình thường. Mỗi người các bạn đều rất cần một món gì đó.”
Tôi đang rất cần một thứ có thể chữa lành chân của Peeta.
“Mỗi người các bạn sẽ tìm thấy vật gì đó trong chiếc ba lô có đánh dấu số quận của mình, đặt ở Cornucopia vào lúc bình minh. Hãy nghĩ kỹ trước khi từ chối đến đó. Với một số bạn, đây sẽ là cơ hội cuối cùng,” Claudius nói.
Tất cả biến mất, chỉ còn tiếng Claudius vang vọng trong không khí. Tôi giật mình khi Peeta ghì chặt vai tôi từ đằng sau. “Không được,” cậu nói. “Cậu không được liều mạng sống vì tớ.”
“Ai nói cậu thế?” tôi nói
“Vậy là cậu không đi chứ?” cậu hỏi.
“Tất nhiên là tớ sẽ không đi. Hãy tin tớ. Cậu nghĩ rằng tớ sẽ chạy thẳng đến đó giữa thanh thiên bạch nhật trước mũi Cato, Clove và Thresh sao? Đừng ngớ ngẩn như thế chứ,” tôi nói rồi đỡ cậu nằm trở lại. “Tớ sẽ để mặc bọn chúng đánh nhau. Chúng ta sẽ xem tên kẻ nào sẽ hiện lên trên bầu trời đêm vào ngày mai rồi từ đó nghĩ ra kế hoạch.”
“Cậu nói dối dở lắm, Katniss. Tớ không biết làm sao cậu cứ phải dối tớ.” Peeta bắt đầu nhại lời tôi. “Tớ biết con dê sẽ là một mỏ vàng nho nhỏ. Dù sao thì cậu cũng hạ nhiệt một chút rồi. Tất nhiên là tớ sẽ không đi.” Cậu lắc đầu. “Đừng bao giờ chơi trò may rủi. Cậu sẽ trắng tay đấy,” Peeta nói.
Mặt tôi đỏ bừng bừng. “Được thôi, tớ sẽ đi, và cậu không cản tớ được đâu!”
“Tớ sẽ đi theo cậu. Đến đâu hay đến đấy. Có thể tớ không thể đến được Cornucopia, nhưng nếu tớ hét tên cậu lên, tớ dám cá là sẽ có kẻ tìm thấy tớ. Và chắc chắn tớ sẽ bị giết,” cậu nói.
“Cậu sẽ không thể rời khỏi đây quá một trăm mét với cái chân này,” tôi nói.
“Thì tớ sẽ lết,” Peeta nói. “Cậu đi thì tớ cũng đi.” Peeta quả rất cứng đầu, mà xem ra cậu cũng đủ sức để làm như những gì đã nói. Cứ đi theo và gào tên tôi trong rừng. Không kẻ này thì kẻ khác cũng sẽ tìm thấy cậu. Cậu không thể chống cự. Chắc tôi phải trói cậu trong hang để có thể đi một mình mất. Nhưng khi Peeta đã nỗ lực thì biết thế nào được?
“Thế tớ phải làm sao đây? Cứ ngồi đây và nhìn cậu chết?” tôi nói. Peeta phải biết đó không phải một lựa chọn hợp lý. Khán giả sẽ căm ghét tôi. Mà thật sự là, tôi cũng sẽ căm ghét bản thân mình nếu như không thử đến đó.
“Tớ sẽ không chết. Tớ hứa. Chỉ cần cậu hứa sẽ không đi,” cậu nói.
Chúng tôi như bị dồn vào chân tường. Tôi không cãi vì biết không thể thuyết phục cậu ấy trong chuyện này. “Vậy cậu phải làm những gì tớ dặn. Uống nước, đánh thức tớ đúng lúc và ăn cho bằng hết tô xúp, dù nó có dở thế nào chăng nữa!” tôi giận dữ.
“Đồng ý. Bắt đầu được chưa?” Peeta hỏi.
“Chờ ở đây,” tôi nói. Không khí đã trở nên lạnh hơn dù mặt trời vẫn chưa khuất hẳn. Tôi đã đoán đúng việc Ban Tổ chức đang làm nhiễu nhiệt độ. Không biết cái thứ mà ai đó đang rất cần kia có phải một tấm chăn không nhỉ. Món xúp vẫn còn thơm ngon và nóng hổi trong chiếc tô sắt. Thực sự là nó không đến nỗi nào.
Peeta ăn mà không kêu ca gì, thậm chí còn húp sùm sụp để thể hiện sự thèm thuồng. Hẳn tôi sẽ cho đây là một sự khích lệ nếu không biết thừa rằng đó chỉ là kết quả của trận sốt. Haymitch vẫn lảm nhảm kiểu như vậy trước lúc bị rượu làm cho trở nên lú lẫn hẳn. Tôi cho Peeta uống thêm một liều hạ sốt trước khi cậu ngủ say như chết.
Trong lúc xuống dưới suối tắm rửa, trong đầu tôi chỉ luẩn quẩn duy nhất một chuyện, rằng Peeta sẽ chết nêu tôi không đến cuộc phá cỗ đó. Nếu tôi cứ để thế thì sớm muộn vài ngày nữa bệnh nhiễm trùng sẽ đi vào tim, lên não hoặc tới phổi, lúc đó thì đành bất lực. Tôi sẽ ở lại đây trong cô độc. Một lần nữa. Chờ đợi kẻ khác đến lấy mạng.
Tôi mải mê suy nghĩ đến nỗi suýt nữa bỏ qua chiếc dù cứu hộ, mặc dù nó đang lơ lửng ngay cạnh mình. Tôi bập ngay tới, kéo chiếc dù vào bờ, xé toạc lớp vải màu bạc phủ ngoài một chiếc lọ. Haymitch đã làm được rồi! Ông đã có lọ thuốc – tôi không biết bằng cách nào, có lẽ là thuyết phục những kẻ khờ khạo mê chuyện diễm tình nào đấy bán trang sức của họ chăng – và tôi có thể cứu Peeta! Dù vậy, lọ thuốc nhỏ xíu. Nó hẳn phải công dụng lắm mới chữa được thứ bệnh nặng như của Peeta. Trong tôi thoáng gợn nỗi nghi ngờ. Tôi mở nắp lọ và ngửi một hơi sâu. Tôi thất vọng trước mùi thơm ngọt ngào đến quái đản. Để chắc ăn, tôi chấm một giọt lên đầu lưỡi. Không còn nghi ngờ gì nữa, nó là xi rô gây ngủ. Thứ thuốc thường thấy ở Quận 12. Rẻ, như những loài thuốc thường, nhưng dễ nghiện. Hầu như ai cũng từng uống nó một vài lần. Nhà tôi cũng có một chai thuốc đó. Mẹ tôi dùng nó gây ngủ cho những bệnh nhân bị kích động để khâu một vết thương nặng hoặc làm cho họ trấn tĩnh, hoặc đơn giản là giúp ai đó trải qua một đêm không vật vã vì đau đớn. Liều lượng của lọ thuốc có thể khiến Peeta ngủ nguyên ngày, nhưng việc đó có ích gì? Tôi cáu tiết đến mức định ném phần quà cuối cùng của Haymitch xuống suối ngay khi nghĩ đến điều đó. Nguyên ngày à? Thế thì nhiều hơn tôi cần.
Tôi nghiền nát một nắm dâu để át mùi thuốc ngủ và thêm vào vài lá bạc hà cho chắc ăn. Rồi tôi trở lại hang đá. “Tớ làm món này cho cậu đây. Tớ vừa tìm được một bụi dâu về phía xuôi dòng suối một chút.”
Peeta ăn ngay miếng đầu tiên không do dự. Cậu nuốt, nhưng rồi hơi cau mày. “Ngọt quá.”
“Đúng rồi, dâu ngọt mà. Mẹ tớ dùng làm mứt. Cậu chưa ăn bao giờ à?” Tôi nói, đút thìa tiếp theo cho cậu.
“Không phải,” Peeta nói, tỏ vẻ thắc mắc. “Nhưng vị của chúng quen lắm. Dâu ngọt à?”
“Ừ, ở chợ không bán nhiều vì chúng chỉ mọc dại,” tôi nói. Thêm một thìa nữa. Chỉ còn thìa cuối cùng.
“Như xi rô ấy,” cậu nói, cho vào miệng thìa cuối cùng. “Xi rô.” Mắt Peeta mở to khi nhận ra sự thật. Tôi ghì chặt tay lên miệng và mũi cậu, buộc cậu phải nuốt chứ không được nhổ ra. Peeta cố tìm cách nôn hết ra, nhưng đã quá trễ, cậu đang mất dần tỉnh táo. Ngay cả khi cậu đã lịm đi, tôi vẫn có thể thấy trong đôi mắt ấy sự không dung thứ cho những gì tôi vừa làm.
Tôi ngồi trở lại, nhìn Peeta, trong lòng vui buồn lẫn lộn. Một chút dâu vương trên cằm cậu. Tôi lau nó đi. “Ai là người không biết nói dối, hả Peeta?” Tôi nói, dù cậu không còn nghe nữa.
Chuyện đó đâu còn quan trọng với tôi. Nhưng với những người Panem thì có.