TIẾNG ĐẠI BÁC GẦM LÊN BÊN TAI TÔI, mùi khói hăng hắc và rất kích thích tinh thần. Tôi quan sát trong khi sáu người lính phe Liên bang ngã xuống. Phía sau tuyến đầu, quân Áo Xanh nạp lại đạn.
“Cái này thật quái gở,” Margaret lẩm bẩm, đưa thuốc súng để tôi nạp lại khẩu đại bác của mình.
“Ôi, im đi,” tôi mắng yêu. “Bọn em đang tôn vinh lịch sử. Và đừng có phàn nàn nữa. Chị sẽ chết sớm thôi. Đi chết đi, Ngài Lincoln!” Tôi gào lên, âm thần xin lỗi ngài Abe hòa nhã, vị tổng thống vĩ đại nhất mà đất nước được thấy. Chắc chắn là ngài sẽ thứ lỗi cho tôi thôi, khi thấy tôi có một mô hình thu nhỏ của Đài tưởng niệm Lincoln trong phòng ngủ và có thể (cũng thường thực hiện) đọc thuộc nằm lòng bài diễn văn Gettysburg.
Nhưng hội Anh Em Chống Anh Em chiến đấu rất nghiêm túc. Chúng tôi có khoảng 200 người tình nguyện và mỗi cuộc đụng độ đều được lên kế hoạch để đúng với lịch sử hết mức có thể. Quân lính Yankee nổ súng, và Margaret ngã nhào xuống đất, đôi mắt xanh lục màu biển của chị đảo một vòng. Tôi xốc mội người lên vai, hét lên và ngã xuống bên cạnh chị. “Em sẽ phải mất hàng tiếng nữa mới chầu trời được,” tôi bảo chị mình. “Nhiễm độc máu do chị. Không có lựa chọn cứu chữa, thật đấy. Thậm chí em được đưa tới bệnh viện chiến trường, chắc chắn là em vẫn chết. Nên cách nào cũng thế, lâu la và đau đớn.”
“Chị nhắc lại. Cái này thật quái gở,” Margaret nói, lật điện thoại di động lên để kiểm tra tin nhắn.
“Không bóp méo lịch sử!” tôi gào lên.
“Cái gì?”
“Cái điện thoại! Chị không được có bất cứ đồ hiện đại nào trong một buổi tái hiện hết. Và nếu cái này quá quái gở thì sao chị lại tới?” tôi hỏi.
“Bố cứ liên tục quấy rầy Junie…” – thư ký pháp lý đau khổ lâu năm của Margaret – “…cho tới khi cuối cùng thì cô ấy phải van nài chị đồng ý chỉ để khiến bố ngừng gọi điện và tạt qua. Vả lại, chị cũng muốn ra khỏi nhà.”
“Rồi, giờ chị đang ở đây, nên đừng có cằn nhằn nữa,” Tôi với lấy tay chị, hình dung một chiến sĩ quân Nổi dậy đang tìm kiếm nguồn an ủi từ người anh vữa ngã xuống của mình. “Chúng ta đang ở ngoài, hôm nay trời thật đẹp, chúng ta đang nằm lăn lóc trên bãi cỏ ba lá tỏa hương ngọt ngào.” Margaret không trả lời. Tôi liếc qua. Chị ấy lại đang cắm đầu vào cái điện thoại, vẻ mặt cau có, đây không phải là biểu hiện khác thường với chị, nhưng môi chị run lên một cách đáng ngờ. Như thể chị sắp phát khóc. Tôi ngồi bật dậy. “Margs? Mọi chuyện ổn chứ?”
“Ồ, ngon lành cả,” chị trả lời.
“Chẳng phải đáng lý con chết rồi sao?” bố hỏi, sải bước về phía chúng tôi.
“Xin lỗi bố. Ý con là, xin lỗi, thưa Đại tướng Jackson,” tôi ngoan ngoãn lại buông mình xuống bãi cỏ.
“Margaret, xin chị. Bỏ thái độ đó đi. Nhiều người đã phải làm việc cực nhọc để khiến cuộc tái hiện này được chân thực đấy.”
Margaret đảo mắt. “Bull Run ở Connecticut. Chân thực quá đi mất.”
Bố rít lên vẻ ghê tởm. Một sĩ quan cùng phe vội vã chạy lại phía bố. “Chúng ta làm gì bây giờ, thưa ngài?” anh ta hỏi.
“Thưa ngài, chúng ta sẽ cho chúng biết thế nào là lưỡi lê!” bố quát lên. Môt cơn xúc động rần rật chạy qua người tôi khi nghe những lời nói đã đi vào lịch sử: Thế mới là chiến tranh chứ! Hai sĩ quan hội ý với nhau, rồi bước đi, nhập hội với những tay súng ở sườn đồi.
“Có lẽ chị cần tránh gặp Stuart một thời gian.” Margaret nói.
Tôi ngồi thẳng dậy lần nữa, vướng phải một anh bạn phe miền Nam đang loay hoay đặt lại vị trí khẩu đại bác của tôi. “Xin lỗi,” tôi nói với anh ta. “Đi hạ chúng thôi.” Anh chàng và một người khác nhấc khẩu đại bác lên và lăn nó đi giữa làn đạn lác đác cùng tiếng la thét của các vị sĩ quan chỉ huy. “Margaret, chị nghiêm túc đấy à?”
“Chị cần một chút khoảng cách,” chị trả lời.
“Có chuyện gì vậy?”
Chị thở dài. “Chẳng có gì. Đó chính là vấn đề. Bọn chị đã cưới nhau được bảy năm, đúng không? Và chẳng có gì khác đi cả. Ngày nào bọn chị cũng làm những việc giống nhau. Về nhà. Nhìn nhau suốt bưa tối. Gần đây, khi anh ấy nói chuyện về công việc hay chuyện gì đó trên bản tin, chị nhìn anh và chỉ nghĩ là, ‘Chỉ thế này thôi ư?’”
Một com bướn non đậu lên cái khuy đồng trên bộ đồng phục của tôi, gập cánh lại rồi bay đi mất. Một sĩ quan miền Nam ào tới. “Không phải mấy cô chết rồi à?” anh ta hỏi.
“À, phải, đúng thế. Xin lỗi.” Tôi lại nằm xuống, kéo tay Margaret cho tới khi chị ấy làm theo. “Còn gì nữa không Margs?” tôi hỏi.
“Không.” Mắt chị tránh không nhìn tôi, tố cáo sự không trung thực những lời nói của chị. Nhưng Margaret không phải là người nói ra điều gì đó trước khi chị sẵn sàng. “Chỉ là… chị chỉ băn khoăn liệu anh ấy có yêu chị thật không. Liệu chị có thực sự yêu anh ấy. Liệu có phải đây chính là hôn nhân hay liệu chỉ là bọn chị đã chọn nhầm người.”
Chúng tôi nằm trên cỏ, không nói thêm gì nữa. Cổ họng tôi như thắt lại. Tôi quý Stuart, một người thầm lặng, dịu dàng. Tôi phải thừa nhận, tôi không biết rõ về anh. Lâu lâu tôi mới gặp anh một lần ở trường, thường là từ xa. Học sinh trường Manning quý anh, đó là điều chắc chắn. Nhưng các bữa tối gia đình thường xoay quanh những cuộc cãi vã của bố mẹ, hoặc những màn độc thoại của nội về những điều tồi tệ đang xảy ra với thế giới ngày nay, thường thì Stuart không xen vào một lời nào. Nhưng điều tôi thực sự biết là anh tử tế, thông minh và rất ân cần với chị tôi. Có người còn nói rằng, anh ngưỡng mộ chị hơi quá, chiều theo chị trong gần như bất cứ việc gì.
Âm thanh của quân lính Liên bang đang tháo chạy và tiếng hét của quân Nổi dậy chiến thắng vang khắp không gian.
“Giờ chúng ta đi được chưa?” Margaret hỏi.
“Chưa. Bố vừa lắp ráp được khẩu súng thứ mười ba. Xem đây này… Xem đây này…” Tôi chống khuỷu tay, rướn người lên để nhìn, hồi hộp cười toe toét.
“Đại tướng Jackson đứng kia, một bức tường thành đích thực!” tiếng hét của Rick Jones, đang đóng vai là Đại ta Bee, dội đến.
“Hu ra! Hu ra!” mặc dù đáng ra phải chết rồi, tôi không thể ngăn được mình cùng hòa vào tiếng hét. Margaret lắc đầu, nhưng chị cười tươi hết cỡ.
“Grace, em đúng là cần phải có một cuộc sống đi,” chị đứng dậy, nói.
“Thế Stuart thì nghĩ sao?” tôi hỏi, nắm lấy bàn tay đang chìa ra của chị.
“Anh ấy bảo sẽ làm bất cứ điều gì chị cần để sắp xếp lại suy nghĩ của chị.” Margaret lắc đầu, không biết vì khâm phục hay ghê sợ. Biết Margaret rồi, thì sẽ thấy đấy rất có thể là ghê sợ. “Thế nên, Grace, em nghe này. Em có nghĩ chị có thể ở cùng em một hai tuần được không? Có thể lâu hơn một chút?”
“Được chứ,” tôi nói. “Bao lâu cũng được.”
“Ồ, và này, nghe cái này nữa. Chị đang định ghép đôi em với anh chàng này. Lester. Chị gặp anh ấy trong buổi trưng bày của mẹ tuần trước. Anh ta là thợ rèn hay cái quái quỷ kiểu như vậy.”
“Một người thợ rèn ấy à? Tên là Lester?” tôi hỏi. “Ôi, Margaret, thôi nào.” Rồi tôi khựng lại. Chắc chắn là anh ta không thể tệ hơn ông bạn cựu chiến binh của tôi. “Anh ta dễ thương không?”
“À, chị không biết. Không hẳn là dễ thương, nhưng hấp dẫn theo cách riêng.”
“Lester người thợ rèn, hấp dẫn theo cách riêng. Nghe có vẻ chẳng hứa hẹn gì cả.”
“Thế sao nào? Ăn mày thì không thể kén chọn. Và em nói em muốn gặp ai đó, thế thì em sẽ gặp ai đó. Được chưa? Được rồi. Chị sẽ bảo anh ta gọi.”
“Tốt thôi,” tôi lẩm bẩm. “Này, Margs, chị đã xem qua cái tên em gửi cho chị chưa?”
“Tên nào?”
“Tên cựu tù? Callahan O’Shea, người sống bên cạnh em ấy? Anh ta biển thủ hơn một triệu đô la.”
“Không, chị chưa động gì tới chuyện đó cả. Xin lỗi. Tuần sau chị sẽ cố gắng. Biển thủ. Như thế cũng không quá tệ, phải không?”
“Thật ra, như thế là không tốt, Margs. Và hơn một triệu đô la đấy.”
“Vẫn còn tốt hơn là hiếp dâm giết người,” Margs vui vẻ nói. “Xem kìa, có bánh vòng. Tạ ơn Chúa, chị đang chết đói đây.”
Và như thế, chúng tôi lại lê bước xuống phía cánh đồng nơi phần còn lại của đội quân đang đứng, uống Starbucks và ăn bánh vòng kem giòn. Vẫn biết, nó chẳng đúng theo lịch sử, nhưng chắc chắn là ăn đứt thịt la và bánh bột ngô.
TỐI HÔM ĐÓ, tôi dành một tiếng đồng hồ để trau chuốt lại vẻ ngoài xù xì và vận lên mình bộ đồ mới. Tôi có hai cuộc hẹn liền nhau qua trang eCommitment… ừ thì, không hẳn là hẹn hò, mà là gặp gỡ để xem liệu có lý do gì để thử hẹn hò không. Cuộc gặp đầu tiên là với Jeff, người này quả thực có vẻ hứa hẹn. Anh ta sở hữu công ty riêng trong lĩnh vực giải trí, và ảnh của anh ta trông rất dễ chịu. Giống như tôi, anh ta cũng thích đi bộ đường dài, làm vườn và các bộ phim lịch sử. Ôi chao, bộ phim yêu thích của anh ta là 300, vậy cái đó nói lên điều gì? Nhưng tôi quyết định bỏ qua nó vào lúc này. Anh ta kinh doanh cái gì, tôi không chắc lắm. Ngành giải trí… hừm. Có thể anh ta là một người đại diện hay gì đó. Hoặc sở hữu một nhãn hiệu ghi âm hay một câu lạc bộ. Thực sự, nghe cũng có vẻ hấp dẫn.
Jeff và tôi gặp nhau và đi uống ở Farmington, rồi sau đó tôi sẽ chuyển sang ăn nhẹ với Leon. Leon là một giáo viên khoa học, vậy nên tôi đã biết chúng tôi sẽ có rất nhiều điều để nói… thực ra, ba bức thư điện tử của chúng tôi cho đến giờ đã nói rất nhiều vẻ dạy học, những niềm vui cũng như những góc tối, nên tôi mong đợi được nghe nhiều hơn về đời tư của anh ta.
Tôi lái xe tới điểm hẹn, một trong những chuỗi nhà hàng gần một khu thương mại với rất nhiều hàng nhái hãng Tiffany và các kỷ vật thể thao. Tôi nhận ra Jeff nhờ tấm ảnh – anh thấp và khá dễ thương, tóc nâu, mắt nâu, một lúm đồng tiền rõ nét trên má trái. Chúng tôi trao nhau một cái ôm kiểu dựa vào người khá gượng gạo, chúng tôi không biết nên đi xa tới đâu và cuối cùng thì chạm má nhau kiểu xã giao của mấy bà mệnh phụ. Nhưng Jeff chấp nhận tình thế khó xử đó với một nụ cười, việc đó khiến tôi thấy thích anh. Chúng tôi theo người điều phối tới một chiếc bàn nhỏ, gọi một ly rượu và bắt đầu bằng mấy câu chuyện phiếm, và đó là lúc mọi chuyện bắt đầu xấu đi.
“Vậy, Jeff, tôi vẫn thắc mắc về công việc của anh. Chính xác thì anh làm gì?” tôi hỏi, nhấp một chút rượu.
“Tôi kinh doanh riêng,” anh trả lời.
“Vâng. Loại gì?” tôi hỏi.
“Giải trí.” Anh ta cười tủm tỉm và dựng thẳng lại mấy lọ tiêu và muối.
Tôi ngừng lại. “À. Và chính xác thì anh giải trí thế nào?”
Anh ta ngoác miệng cười, “Như thế này!” anh ta nói, ngửa người ra sau. Rồi, với một cú vung tay và một cái búng tay đột ngột, gọn gàng, anh ta đốt cái bàn cháy phừng phừng.
Lát sau, sau khi lính cứu hỏa đã dập lửa và cho rằng đã an toàn để trở lại nhà hàng, thì một phần diện tích đáng kể của chỗ này đã bị lớp bọt chất hãm lửa dùng để dập tắt màn “giải trí” phủ kín, Jeff quay sang tôi khẩn khoản. “Không còn ai thích ảo thuật nữa sao?” anh ta hỏi, nhìn tôi với vẻ bối rối như một con cún bị đá đít.
“Anh có quyền giữ im lặng,” một sĩ quan cảnh sát nói một cách bài bản.
“Tôi không cố tình để lửa cháy to như thế,” Jeff nói với anh cảnh sát, anh này có vẻ không quan tâm lắm.
“Vậy ra anh là nhà ảo thuật?” tôi hỏi, lấy tay nghịch mất ngọn tóc bị bén lửa, nó đã hơi sém.
“Đó là ước mơ của tôi,” anh ta nói trong khi bị viên sĩ quan còng tay. “Ảo thuật là cả cuộc đời tôi.”
“À,” tôi nói. “Chúc anh may mắn.”
Là tại tôi, hay là quả thật có nhiều người ra đi với cái còng tay khi có tôi quanh quẩn xung quanh? Đầu tiên là Callahan O’Shea, bây giờ là Jeff. Tôi phải công nhận điều này ở Callahan – khi bị khống chế, anh này trông giống hệt con chồn bị nhốt trong lồng. Phải, khi có dính tới còng tay thì Callahan O’Shea rất… tôi dừng đoàn tàu suy nghĩ đó lại. Tôi còn một cuộc hẹn nữa. Leon chàng giáo viên là người tiếp theo, vậy là tôi lên đường, mừng vì lính cứu hỏa của Farmington làm việc hiệu quả đến nỗi tôi thậm chí không hề bị muộn.
Leon hứa hẹn hơn nhiều. Hói theo kiểu hấp dẫn của Ed Harris, mắt sáng lấp lánh tuyệt vời và tiếng cười trẻ trung, anh ta có vẻ hài lòng với tôi, tất nhiên điều đó làm tôi thấy cảm động. Chúng tôi nói chuyện chừng nửa giờ đồng hồ, thi nhau nói về công việc giảng dạy, kêu ca về những phụ huynh ồn ào và tán tụng đầu óc sáng láng của bọn trẻ.
“Vậy,Grace này, cho tôi hỏi cô vài điều nhé,” anh ta nói, gạt món khoai tây nhồi sang một bên để chạm vào tay tôi, khiến tôi thấy vui vì tuần này đã vung tiền đi sửa móng tay móng chân. Mặt anh ta trở nên nghiêm túc, “Cô nói xem điều gì là qua trọng nhất đời cô?”
“Gia đình tôi,” tôi trả lời. “Chúng tôi rất gần gũi. Tôi có hai chị em gái, một người lớn hơn, một…”
“Tôi hiểu. Còn gì nữa, Grace? Điều gì tiếp theo?”
“Ừm, thì… tôi đoán là, học sinh của tôi. Tôi rất yêu chúng, và tôi muốn chúng cảm thấy thích thú với môn lịch sử. Chúng nó…”
“Ừ hử. Còn gì nữa, Grace?”
“À,” tôi nói, hơi phật lòng khi bị ngắt lời hai lần liền. “chắn chắn rồi. Ý tôi là, tôi có làm tình nguyện với một nhóm công nhân lớn tuổi, chúng tôi cùng khiêu vũ với bạn tôi, Julian, anh ấy là giáo viên dạy khiêu vũ. Đôi khi tôi đọc sách cho họ, những người không thể tự đọc ấy.”
“Cô có phải người mộ đạo không?” Leon hỏi.
Tôi dừng lại. Tôi chắc chắn thuộc số những người tự liệt mình vào dạng tinh thần chứ không phải là mộ đạo. “Cũng có hơi hơi. Có. Tôi tới nhà thờ, ồ, có lẽ là khoảng một lần một tháng, và tôi…”
“Tôi băn khoăn không biết cảm giác của cô về Chúa thì thế nào?”
Tôi chớp mắt. “Chúa ấy ư?” Leon gật đầu. “Ừm, à, Chúa thì, thật ra là, Ngài vĩ đại.” Tôi tưởng tượng ra cảnh Chúa đảo mắt về phía mình. Thôi nào, Grace. Ta phán, “Phải có ánh sáng chứ,” và ten ten! Liền có ánh sáng! Con không thể làm gì tốt hơn. “Ngài vĩ đại” sao, vì Chúa? Hiểu chưa? Vì Chúa ấy? (Tôi luôn tưởng tượng rằng Chúa rất có khiếu hài hước. Ngài phải như thế chứ, đúng không?)
Đôi mắt xanh sáng rực (cuồng tín) nheo lại. “Phải. Ngài vĩ đại. Cô có phải người Cơ Đốc giáo không? Cô đã chấp nhận Chúa Jesus là đấng cứu thế của riêng mình chưa?”
“À vâng… chắc rồi.” Phải công nhận rằng, tôi chưa bao giờ nhớ được có ai trong gia đình mình (những hậu duệ nhà Mayflower, bạn nhớ chứ?) từng sử dụng khái niệm đấng cứu thế của riêng mình cà… Chúng tôi là những người ủng hộ phái Tin Lành tự quản, và mọi thứ có xu hướng triết học hơn một chút. “Chúa Jesus cũng rất là… tốt.” Và giờ thì tôi thấy Jesus ngẩng đầu lên trên cây thập giá. Chà. Cám ơn, Grace. Đó là những gì ta nhận được cho việc chết trên này đây sao?
“Chúa Jesus là người chắp cánh cho tôi,” Leon nói đầy tự hào. “Grace, tôi muốn đưa cô tới nhà thời của tôi để cô có thể trải nghiệm được ý nghĩa thực sự của sự thần thánh.”
Tính tiền! “Thực ra, Leon này, tôi có nhà thờ rồi,” tôi nói, “Nhà thờ đó rất tốt. Tôi không thể nói là mình có hứng thú đi bất cứ chỗ nào khác.”
Đôi mắt xanh cuồng tín nheo lại. “Tôi không có ấn tượng là cô thực sự trân trọng Chúa, cô Grace.” Anh ta nghiêm mặt.
Được rồi. Thế là đủ. “À, Leon. Hãy thẳng thắn nhé. Anh mới biết tôi được bốn mươi phút. Làm thế quái nào mà anh biết được tôi thế nào?”
Đúng tại từ Q-U-Á-I, Leon lồng lên. “Đồ báng bổ!” anh ta rít lên. “Tôi xin lỗi, Grace! Chúng ta không có tương lai với nhau rồi! Cô rồi sẽ đi thẳng xuống cái chỗ cô-biết-là-đâu-rồi-đấy cho xem.” Anh ta đứng bật dậy.
“Đừng có phán xét,” tôi nhắc anh ta. “Rất vui vì được gặp anh, và chúc anh tìm được ai đó,” tôi nói. Tôi khá chắc là Chúa sẽ tự hào đây. Không chỉ trích một câu trong Kinh Thánh thế tục, mà còn đưa cái mã còn lại(1) ra và đủ thứ nữa.
(1) Nguyên văn: Turn the other cheek – Lời chúa dạy về việc khi bị người ta tát má bên này thì hãy đưa nốt má bên kia cho người ta tát.
An toàn trong xe, tôi thất vọng nhận ra mới có tám giờ. Mới tám giờ mà tôi đã dính một đám cháy và bị đày xuống địa ngục… và vẫn không có bạn trai. Tôi thở dài đánh thượt.
Chậc, tôi biết một liều thuốc tốt cho sự cô đơn, và tên của nó là Golden Meadows. Hai mươi phút sau tôi đã ngồi trong phòng số 403.
“Chiếc váy lót bằng xa tanh trượt xuống sân trong tiếng thì thầm mời gọi.” Tôi ngưng lại, liếc nhìn vị thính giả duy nhất của mình, rồi tiếp tục. “Mắt anh xanh thẫm mày khao khát, bụng dưới anh run lên khi nhìn thấy chiếc áo hở cổ màu kem của nàng. ‘Em là của chàng, chủ nhân của em’, nàng nói, môi nàng mọng lên những hứa hẹn đầy nhục cảm. Lần tới khuôn ngực nàng, tâm trí anh náo loạn… Được rồi, đây là một lỗi đặt phân từ không đúng chỗ. Cháu đảm bảo là tâm trí anh ta không lần tới ngực cô nàng.”
Một cái liếc khác về phía ông Lawrence cho thấy mức độ chú ý y như trước – nói thế nghĩa là, không có gì hết. Ông Lawrence hoàn toàn câm lặng, một người nhỏ thó, teo tóp với mái tóc trắng và đôi mắt vô hồn, hai bàn tay lúc nào cũng giật giật quần áo và tay chiếc ghế dựa. Trong suốt những tháng tôi đọc sách cho ông, tôi chưa nghe thấy ông nói bao giờ. Hy vọng rằng, ở mức độ nào đó ông cũng thích những buổi đọc sách của chúng tôi và không gào thét lên đòi đọc James Joyce. “Rồi. Trở lại với câu chuyện của chúng ta. Tâm trí anh náo loạn. Thách thức anh giữ lấy lời hứa về niềm đam mê bị cấm đoán và cất đi khát khao mãnh liệt đối với thiên đường kho báu mềm mại và bí ẩn của nàng.”
“Tôi nghĩ là anh ta nên tiến tới.”
Tôi nhảy dựng lên, đánh rơi cả cuốn sách lòe loẹt của mình. Callahan O’Shea đứng bên ngưỡng cửa, làm căn phòng bé hẳn lại. “Người Ireland! Anh làm gì ở đây?” tôi hỏi.
“Tôi phải là người hỏi câu đấy mới đúng.”
“Tôi đang đọc sách cho ông Lawrence. Ông ấy thích nó.” Hy vọng là ông Lawrence không lập cập chui ra khỏi hai năm im lặng và phủ nhận câu đó. “Ông ấy là một phần trong chương trình đọc sách của tôi.”
“Đúng thế không? Ông ấy cũng là ông tôi đấy.” Callahan nói, khoanh tay lại.
Đầu tôi bật ngửa ra kinh ngạc. “Đây là ông anh ư?” tôi hỏi.
“Phải.”
“Ồ. Vậy thì, đôi khi tôi có đọc sách cho… cho các bệnh nhân.”
“Cho tất cả mọi người sao?”
“Không,” tôi trả lời. “Chỉ là những bệnh nhân không có…” Tiếng tôi đứt quãng nửa chừng.
“Những người không có ai đến thăm,” Callahan nói nốt.
“Phải,” tôi thừa nhận.
Tôi đã bắt đầu chương trình đọc sách nho nhỏ của mình bốn năm trước, khi nội mới chuyển tới đây. Có người đến thăm là một biểu tượng cho địa vị lớn ở Golden Meadows, và một ngày nọ, tôi lang thang vào khu vực này – khu vực an ninh – và nhận thấy rằng có rất nhiều người cô đơn, gia đình họ ở quá xa để ghé thăm thường xuyên hoặc đơn giản là không thể chịu được sự buồn thảm của mé bên này. Thế là tôi bắt đầu đọc. Phải công nhận, cuốn Đam mê dục vọng của hầu tước của tôi không phải là một tác phẩm kinh điển – ít nhất là theo nghĩa văn chương – nhưng có vẻ như nó giữ cho thính giả của tôi chú ý. Bà Kin ở phòng 39 đã thực sự khóc thút thít khi Hầu tước Barton bất ngờ đặt câu hỏi cho Clarissia.
Callahan rời khỏi ngưỡng cửa và đi vào phòng. “Cháu chào ông,” anh ta nói, hôn lên trán ông mình. Ông của anh ta không nhận ra cháu mình. Mắt tôi cay cay khi Cal nhìn ông già ốm yếu đang, như mọi khi, mặc quần dài và áo khoác gọn gàng.
“Chà, tôi sẽ để hai người lại một mình,” tôi nói và đứng dậy.
“Grace.”
“Vâng?”
“Cám ơn cô vì đã tới thăm ông tôi.” Anh ta ngần ngừ, rồi nhìn lên tôi và mỉm cười, tim tôi căng lên. “Hồi xưa, ông thích đọc tiểu sử.”
“Được rồi,” tôi nói. “Cá nhân mà nói, tôi nghĩ Hầu tước và cô gái điếm thì tạo hứng thú nhiều hơn một chút, nhưng nếu anh nói vậy thì…” tôi ngừng lại. “Hai người trước có gần gũi nhau không?” tôi bất chợt hỏi.
“Có,” anh trả lời. Biểu hiện của Callahan không thể đoán được, mắt anh nhìn khuôn mặt của ông mình khi ông già giật giật cái áo len. Callahan đặt tay mình lên tay ông, làm dịu đi khoảnh khắc căng thẳng, bất động. “Ông nuôi chúng tôi lớn. Anh trai tôi và tôi.”
Tôi ngập ngừng, muốn giữ lịch sự, nhưng cơn tò mò đã chiến thắng. “Chuyện gì xảy ra với ba mẹ anh?” tôi hỏi.
“Mẹ tôi mất khi tôi lên tám,” anh trả lời. “Tôi chưa bao giờ gặp bố.”
“Tôi xin lỗi.” Anh gật một cái tỏ ý chấp nhận. “Còn anh trai anh thì sao? Anh ấy có sống gần đây không?”
Mặt Cal đanh lại. “Tôi nghĩ anh ấy ở phía Tây. Anh ấy… xa lánh tôi. Chỉ có mình tôi thôi.” Anh ngừng lại, nét mặt dãn ra khi anh nhìn ông mình.
Tôi nuốt nước bọt. Bỗng dưng, gia đình tôi lại có vẻ tuyệt vời quá đi mất, bất chấp những cuộc cãi vã liên miên của bố mẹ, hay hàng tràng phê phán của nội. Những cô dì chú bác, cả bà chị họ Kitty bủn xỉn… và chị em tôi, tất nhiên, cái tình yêu nguyên sơ, mãnh liệt ấy tôi dành cho cả hai người. Tôi không thể hình dung ra việc bị một trong hai người đó xa lánh, không bao giờ.
“Tôi rất tiếc.” Tôi nói lần nữa, gần như một lời thì thầm.
Cal nhìn tôi, rồi bật ra một tràng cười hối tiếc. “Thật ra, tôi đã có một tuổi thơ đủ bình thường. Chơi bóng rổ. Đi cắm trại. Đi câu cá. Mấy trò thông thường của bọn con trai.”
“Thế thì tốt,” tôi nói. Má tôi nóng bừng. Tiếng cười của Callahan dội lại trong ngực tôi. Không thể phủ nhận được O’Shea quá sức hấp dẫn.
“Thế cô đến đây thường xuyên không?” Callahan hỏi.
“Ồ, thường một hoặc hai buổi một tuần. Tôi dạy lớp Khiêu vũ với Người cao tuổi cùng anh bạn Julian của tôi. Mỗi thứ Hai, bảy rưỡi tới chín giờ.” Tôi mỉm cười. Có khi anh ấy sẽ ghé qua. Nhìn thấy tôi dễ thương thế nào trong bộ váy xòe, duyên dáng lướt đi, làm say mê những người có mặt ở đó. Có khi…
“Lớp khiêu vũ hử?” anh nói. “Cô trông không giống kiểu đó.”
“Và thế nghĩa là làm sao?” tôi hỏi.
“Cô không ra dáng một vũ công,” anh ta bình luận.
“Có lẽ anh nên ngừng nói đi được rồi đấy,” tôi khuyên.
“Hơi thừa thịt dính vào xương so với những cô gái cô thấy trên ti vi.”
“Chắc chắn là anh nên ngừng nói đi được rồi đấy.” Tôi lườm. Anh ta cười phá lên.
“Và chẳng phải vũ công rất duyên dáng sao?” anh ta tiếp. “Không có xu hướng đánh người bằng cào và mấy thứ tương tự?”
“Có khi ở anh có điều gì đó mời gọi gậy hockey thôi,” tôi chua ngoa gợi ý. “Rốt cuộc thì tôi đã đánh Wyatt bao giờ đâu.”
“Chưa thôi,” Callahan đáp trả. “À mà anh chàng hoàn hảo đâu rồi? Vẫn chưa thấy anh ta loanh quanh ở khu nhà bao giờ.” Mắt anh ta đầy vẻ giễu cợt, như thể anh ta biết tỏng tòng tong rồi. Bởi vì không có vị bác sĩ phẫu thuật nhi khoa yêu mèo, điển trai nào lại đi theo một cô giáo lịch sử có mái tóc bất trị, thích giả vờ chảy máu đến chết vào các dịp cuối tuần cả. Lòng kiêu hãnh của tôi đã trả lời trước khi đầu óc kịp có cơ hội.
“Tuần này Wyatt ở Boston, trình bày báo cáo về một tiến trình hồi phục mới cho bệnh nhân dưới mười tuổi,” tôi nói. Lạy Chúa lòng lành. Tôi lôi cái thứ đó ở đâu ra vậy? Tất cả những chương trình về sức khỏe trên kênh Discovery rõ ràng đã bắt đầu phát huy tác dụng.
“Ồ.” Anh ta trông có vẻ ấn tượng một cách phù hợp… hay là tôi thấy thế không biết. “Vậy, còn lý do gì để cô ở lại đây à?”
Tôi đã bị bắt bí. “Không. Không hề. Thế. Tạm biệt ông Lawrence. Cháu sẽ đọc nốt cuốn sách khi cậu cháu trai quyến rũ của ông không ở đây.”
“Tạm biệt, Grace,” Callahan nói, nhưng tôi không trả lời, thay vào đó quyết định bước đi lanh lẹ (và duyên dáng, khỉ gió thật) ra khỏi phòng.
Tâm trạng tôi vô cùng khó chịu khi lái xe về nhà. Dẫu Callahan O’Shea hoàn toàn đúng khi nghi ngờ sự tồn tại của Wyatt Dunn, chuyện đó vẫn khiến tôi bực mình. Chắc chắn là, nếu một người như thế tồn tại, anh ấy có thể sẽ thích tôi. Chuyện đó không đến nỗi bất khả thi như vậy chứ, phải không? Có thể, chỉ là có thể thôi, đâu đó ngoài kia có một vị bác sĩ phẫu thuật nhi khoa với má lúm đồng tiền và một nụ cười tuyệt diệu. Không chỉ có mấy anh ảo thuật gia thích gây hỏa hoạn và mấy kẻ cuồng tín cùng mấy tên cựu tù biết-tuốt.
Ít nhất thì Angus cũng tôn thờ tôi. Chắc lúc Chúa tạo ra chó, Ngài có nghĩ đến phụ nữ độc thân. Tôi nhận quà của nó: một cuộn giấy vệ sinh đã hỏng và một chiếc giày đế mềm bị nhai nát, khen ngợi nó vì không phá cái gì khác và chuẩn bị đi ngủ.
Tôi tưởng tượng ra cảnh kể cho Wyatt một ngày của mình. Anh sẽ cười khi nghe về mấy cuộc hẹn tồi tệ – à, tất nhiên, sẽ chẳng có cuộc hẹn tồi tệ nào hết nếu anh là người thật – kể cả thế. Anh sẽ cười và chúng tôi sẽ nói chuyện rồi lên kế hoạch cho cuối tuần. Chúng tôi có một mối quan hệ nhẹ nhàng, ngọt ngào, chín chắn. Chúng tôi chẳng mấy khi cãi nhau. Anh nghĩ tôi là sinh vật đáng yêu bước đi trên trái đất này. Anh thậm chí còn hâm mộ mái tóc của tôi. Anh gửi hoa cho tôi, chỉ để cho tôi biết anh đang nghĩ về tôi.
Và dù rằng tôi biết khá rõ là anh không có thật, tôi vẫn cảm thấy khá hơn. Anh bạn trai tốt bụng đã làm những điều mà anh ấy giỏi nhất. Tôi biết mình là người tốt, thông minh và có giá trị. Nếu quỹ hẹn hò của Connecticut không cho tôi được lựa chọn đáng giá, thế thì, có gì hại nếu tưởng tượng một chút chứ? Chẳng phải các vận động viên Olympic cũng làm thế sao? Hình dung ra một cú nhảy hoặc cú chạm đất hoàn hảo để sau đó thực hiện được nó. Wyatt Dunn cũng là ý tưởng tương tự.
Việc Callahan O’Shea cứ liên tục xuất hiện trong đàu tôi chỉ đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên, tôi chắc chắn thế.