Theo thói quen thường ngày, tôi đến bên một gốc lựu, khom lưng đánh răng. Tôi mang theo bàn chải đến đây, chỉ tiếc không có kem đánh răng, vì sợ nhiễm xạ, nên chỉ có đánh răng bằng nước muối. Tắm rửa xong, Rajiva tựa cửa quan sát. Tôi mỉm cười với chàng, rồi ngửa cổ lên trời, súc miệng sòng sọc.
Còn nhớ một phẩm vui mà tôi từng xem. Anh con trai hỏi bạn gái: “Lấy anh nhé!”. Cô gái lắc đầu từ chối. Anh ta rất ngạc nhiên: “Chúng ta thân mật thế này rồi, sao em không chịu lấy anh?”. Cô gái đáp: “Vì em không muốn đánh răng, súc miệng trước mặt anh”.
Đúng vậy, có câu: “Kẽ sỉ có thể chết vì tri kỷ. Người con gái làm dáng vì kẻ yêu mình” (Sử kí Tư Mã Thiên). Phụ nữ muốn mình luôn xinh đẹp trong mắt người yêu, âu cũng là lẽ thường tình. Nhưng nếu phải giống như phụ nữ Nhật Bản, trang điểm xinh đẹp trước khi chồng thức giấc, ở nhà cũng phải ăn mặc chải chuốt, trang điểm dịu dàng. Tôi không nghĩ như thế là đang sống, mà họ đang xem cuộc sống như một nghề. Nếu bạn không muốn người bạn yêu nhìn thấy bộ dang lôi thôi, lếch thếch, nhem nhuốc, thảm hại của bạn, điều đó chứng tỏ tình yêu của bạn chưa sâu sắc và như vậy thì đừng bàn đến chuyện sống chung. Yêu thật sự, không có nghĩa bạn phải yêu khuyết điểm của người kia. Mà là yêu con người giản dị, chân chất đằng sau lớp trang sức màu mè bên ngoài.
Tôi thì sao? Khi hạn nộp luận văn sắp đến, tôi không buồn rửa mặt đánh răng, đầu bù tóc rối, ngồi ôm chiếc máy tính. Ngày cuối tuần, tôi nằm dài trên giường, ngủ nướng cho đến khi cơn đói ập đến, khiến đầu óc tôi quay cuồng. Mùa đông giá lạnh, tôi cắn răng nhìn đống quần áo chất cao như núi, ngâm trong chậu giặt suốt mấy ngày liền, sau đó xử lí chúng bằng tốc độ nhanh nhất và ẩu nhất có thể. Nhiều lúc tôi còn ngồi chồm hổm trong nhà vệ sinh, dán mắt vào một cuốn sách cho đến khi bàn chân tê dại, muốn đứng dậy mà không đứng nổi. Liệu tôi có đủ can đảm để phô bày sự lôi thôi, lếch thếch, vẻ thảm hại, những tật xấu đó của mình ra trước Rajiva?
Còn chàng thì sao? Khi bước xuống từ bục cao, phải chăng chàng cũng có những thói quen xấu, không muốn bị ai phát hiện? Và liệu chàng có bằng lòng phô bày những tật xấu đó trước mặt tôi?
Khi màn ân ái kết thúc, người ta phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống chung. Chúng tôi phải tìm cách điều hòa lối sống của hai con người ở hai thời đại khác nhau, mà sự khác nhau ấy đã kéo dài suốt mấy chục năm. Phải tìm ra cách để thích ứng với nhau, chấp nhận nhau. Mà điều này thì khó hơn ân ái rất nhiều.
Đánh răng xong. Tôi ngước nhìn bầu trời trong xanh, trong lòng không khỏi dâng lên những xúc cảm. Chốn lồng son này, vô hình trung đã đặt chúng tôi vào hoàn cảnh phải suy tính đến những vấn đề của một cuộc sống chung, điều mà trước đó chứng tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Rajiva lặng lẽ đứng bên tôi, ngước nhìn chàng, chợt nhớ đến một chuyện, khiến tôi phì cười.
– Có chuyện gì mà nàng vui thế?
– Em muốn hỏi chàng câu này.
Tôi khoác tay chàng.
– Khi nãy, em không được thơm cho lắm, đúng không?
– Sao lại không thơm?
– Vì em chưa đánh răng…
Lúc nãy tôi đã hôn chàng khi chưa đánh răng, không biết chàng có để ý chuyện này không.
– Không sao cả…
Chàng tủm tỉm cười, ngập ngừng:
– Hôm đó, ta say rượu, còn nôn cả ra nữa, chắc chắn là khó ngửi hơn nhiều. Nàng có khó chịu không?
– Vâng, đúng là rất khó ngửi.
Tôi nghiêng đầu nhớ lại:
– Nhưng khi ấy em chẳng bận tâm chuyện đó.
Tôi nhìn chàng, ánh nắng rực rỡ mùa hạ tỏa rạng gương mặt chàng, nụ cười ấy đã quét sạch những điều bất an, trăn trở trong lòng tôi. Hai chúng tôi sẽ hạnh phúc, phải không? Cho dù thói quen sinh hoạt và thói quen ăn uống của chúng tôi khác xa nhau một trời một vực, cho dù quan niệm sống của chúng tôi cách biệt nhau hàng ngàn năm thời gian, nhưng sợi dây tình yêu kỳ diệu, không có gì có thể phá vỡ nổi, sẽ gắn kết chúng tôi lại. Chàng, là người em muốn ôm hôn ngay cả khi chưa đánh răng, là người em sẵn sàng phô bày vẻ lôi thôi, lếch thếch của mình, là người em muốn ngày rộng tháng dài sẽ thấy hết những tật xấu của em, là người sẽ nỗ lực kiếm tìm điểm tương đồng, để cân bằng đời sống của hai chúng ta.
Và điểm cân bằng ấy, bắt đầu từ nhu cầu cơ bản nhất của con người – giấc ngủ.
Chúng tôi vừa mới bắt đàu cuộc sống chung, nên vẫn còn rất nhiều trở ngại về tâm lý. Đêm thứ hai, tôi đã thử ngủ trên chiếc giường lớn lộng lẫy, nhường giường nhỏ cho chàng. Nhưng hai chúng tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được. sau cùng không biết quỷ thầy xui khiến thế nào, tôi đã trở lại chiếc giường nhỏ với chàng. Kể từ hôm đó, chúng tôi không tiếp tục những giằng có vô nghĩa ấy nữa, mà mặc nhiên nằm cạnh nhau.
Bởi vậy, vòng một, tình yêu chiến thắng!
Chúng tôi đều khao khát cơ thể của đối phương. Nhưng Rajiva đã sống hai mươi tám năm nơi cửa Phật. Sắc dục vốn là điều đại kị của người tu hành. Quan niệm đó đã ăn sâu bắt rễ trong tâm trí họ. Bởi vậy, dù chúng tôi cùng nằm trên một chiếc giường và dù ham muốn của chàng hết sức mãnh liệt, chàng vẫn không nguôi đấu tranh tư tưởng, nội tâm giằng xé, mâu thuẫn. Tuy vậy, sau cùng thì lí trí vẫn phải đầu hàng cơ thể. Thời gian khắc chế bản thân của chàng càng ngày càng ngắn lại. Hết lần này đến lần khác lí trí phải giương cờ đầu hàng dục vọng. Chí ít, sau mười ngày sống chung, tôi nhận thấy, chàng đã dần đón nhận và chấp nhận tình dục theo cách riêng của chàng và hoan hỉ tận hưởng nó.
Bởi vậy, vòng hai, tình yêu chiến thắng!
Sau những ngày đam mê, quấn quít, chàng dường như không mấy mặn mà. Tôi có thể hiểu điều này. Vì chàng chưa khi nào dành thời gian tìm hiểu về phụ nữ nên chàng không biết rằng, khi ân ái, điều người phụ nữ khao khát nhất, không phải là quá trình, mà là cảm giác gắn kết giữa hai con người, hai linh hồn. Những tri thức này, tôi sẽ hướng dẫn chàng dần dần. Nhưng, chàng lại muốn nằm riêng một mình một chăn, điều này khiến tôi rất bực mình. Chàng nói rằng hơn ba mươi năm qua đã quen ngủ một mình, nay có thêm tôi ở bên, chàng e ngại dáng vẻ khi ngủ của chàng ảnh hưởng đến tôi. Thế là tôi lại phải kiên nhẫn giải thích với chàng, hai người yêu nhau, được gối đầu bên nhau mang lại cảm giác hạnh phúc. Tôi cũng đã ngủ một mình hơn hai mươi năm và bộ dạng khi ngủ cũng rất khó coi. Nhưng tôi rất thích câu nói “sống chung tổ, chết chung mộ”. Sự gần gũi ấy cho tôi cảm giác, tôi đã thực sự hòa nhập và trở thành một phần không thể tách rời trong đời sống của chàng.
Bởi vậy, vòng ba, Ngải Tình chiến thắng!
Kể từ khi cuộc tranh luận nho nhỏ đó, chúng tôi ôm nhau ngủ mỗi đêm. Nhưng một vấn đề khác lại nảy sinh. Điệu bộ của chàng khi ngủ quả rất khó coi. Chàng thích nằm co người, giống hệt một con tôm khổng lồ. Trong khi tôi lại rất thích được nép sát vào người chàng, để cảm nhận hơi ấm của cơ thể chàng. Vậy là chiếc giường đã rất hẹp, hai chúng tôi lại co cụm vào góc nhỏ, khiến nửa đêm, tôi thấy toàn thân tê lạnh, thì ra chàng đã cuốn hết chăn về phía mình. Tôi ra sức kéo lại, nhưng dù đã chìm trong giấc ngủ say sưa, chàng vẫn nhất quyết không chịu buông. Sau vài lần diễn ra cuộc chiến giành chăn, chàng đã phải tìm cách giải quyết vấn đề này. Chàng cố gằng nằm thẳng người, như thế, tôi vừa có thể thoải mái tự vào vai chàng, lại vừa có thể tránh được tình trạng chăn bị cuốn đi. Chỉ khổ cho chàng, mỗi sáng tỉnh dậy lại phải xoa bóp hai vai, vận động xương cổ cho bớt tê dại. Tôi thấy xót xa, nhưng chàng chỉ cười dịu dàng, nói rằng: sẽ quen thôi!
Bởi vậy, vòng bốn, Ngải Tình chiến thắng!
Vẫn còn một vấn đề nữa cần điều chỉnh, đó là thời gian ngủ nghỉ.
Giống như nhiều bạn bè ở thế kỷ XXI, tôi đã quen thức khuya dậy muộn. Có lúc tôi thức trắng đêm để làm luận văn. Nhưng khi trở về thời cổ đại, thói quen sinh hoạt làm việc và nghỉ ngơi của tôi có nhiều thay đổi. tôi đi ngủ từ mười giờ hoặc mười một giờ, bởi vì, tôi chỉ có thể ghi chép lại nội dung công việc khảo sát và buổi tối. Nhưng tật ngủ nướng thì vẫn không sửa được. Bảy, tám giờ sáng vào thời đại này đã là rất muộn rồi, nhưng tôi vẫn ngủ thêm ngủ nếm, vớt vát được chút nào hay chút ấy. Rajiva đã quen với thời gian biểu: bảy, tám giờ tối đi ngủ, bốn giờ sáng thức giấc. Mấy đêm đầu chung sống, Rajiva ngủ trước, tôi ngồi viết nhật ký đến hơn mười giờ. Nhưng tôi nhận thấy, khi tôi lên giường ngủ, chàng vẫn còn thức. Gặng hỏi mãi, chàng mới mới nói vì chàng rất mẫn cảm với ánh sáng và tiếng động, nên phải chờ khi tôi tắt đèn đi ngủ, chàng mới ngủ yên. Để đảm bảo chất lượng giấc ngủ cho chàng, tôi đành theo chàng đi ngủ khi trời vừa sẩm tối. Rồi tôi xót xa phát hiện ra rằng, mình chẳng thể tiếp tục làm con mèo lười được nữa. Bốn giờ sáng, Rajiva thức dậy và đặt một nụ hôn nhẹ lên trán tôi là tôi liền tỉnh giấc, ngủ thêm sẽ nhức đầu. Sau đó thì chàng sẽ vừa tụng kinh vừa kinh ngạc khi thấy tôi tập thể dục buổi sáng, chạy huỳnh huỵch, thở hồng hộc trong sân.
Tôi bắt đầu học theo người cổ đại. thức giấc khi mặt trời mọc và lên giường khi mặt trời lặn. Tự động viên, rồi sẽ quen thôi!
Bởi vậy, vòng năm. Rajiva chiến thắng!
Về thói quen sinh hoạt, cả hai chúng tôi đều cố gắng thích nghi với sự tồn tại của người kia, quan sát lối sống của người kia một cách hiếu kì, cố gắng hi sinh một số nhu cầu và nguyện vọng cá nhân mình vì người kia. Tôi thấy rất hài lòng với cuộc sống chung. Còn Rajiva, tôi cũng có thể cảm nhận được niềm hân hoan của chàng, những bỡ ngỡ, ngạc nhiên của chàng và những thay đổi mau lẹ trong thái độ tiếp nhận sự xuất hiện của một người khác ở bên cạnh mình. Chúng tôi đều đang nỗ lực tạo dựng thế giới của hai người.
Nhưng, đó chưa phải là toàn bộ cuộc sống. Chúng tôi vẫn còn một vấn đề nữa cần giải quyết là lại là vấn đề vô cùng bức thiết: chúng tôi sẽ làm gì những lúc rảnh rỗi trong thời gian bị giam lỏng tại đay? Nếu không bị giam giữ, chắc chắn tôi sẽ ra ngoài vào ban ngày để tiến hành công việc khảo sát. Mọi khung cảnh thuộc về đời sống cổ đại, từ ăn ở cho đến đi lại, đều có thể trở thành nội dung khảo sát của tôi. Còn Rajiva, chàng cũng có rất nhiều việc cần giải quyết khi ở trong chùa. Chỉ bảo đệ tử, giảng kinh thuyết pháp, truyền thụ giáo láy Phật pháp; giao lưu, luận chiến với các tăng sĩ đến từ Ấn Độ, Kabul, Tây vực hay các vùng khác của trung nguyên xa xôi, truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa; đi sâu tìm hiểu đời sống của người dân, tuyên truyền Phật pháp để ngày càng nhiều người hướng thiện, tín Phật.
Nhưng chiếc lồng son này đã đảo lộn đời sống thường nhật của chúng tôi. Đôi lúc ánh mắt chàng nhìn tôi vương chút buồn bã, đôi lúc thấy chàng đứng giữa vườn hoa ngát hương, lặng lẽ ngước lên khoảng không bao la rất lâu, tôi hiểu rằng, tôi phải tạo ra công việc gì đó cho chàng.
Vậy nên, một ngày kia. Sau khi kết thúc bữa sáng, tôi kéo chàng đến bên bàn đọc sách, sau đó lôi giấy bút trong ba lô ra trước sự kinh ngạc của chàng.
– Cơm nước no nê rồi, bây giờ phải làm việc thôi!
– Việc gì vậy?
– Chúng ta đang trong cảnh tù đày, phải nghĩ ra một công việc gì đó để làm, nếu không sẽ rất buồn chán. Bây giờ, chàng hãy chép lại kinh văn, sau đó suy nghĩ xem nên dịch sang tiếng Hán như thế nào.
– Dịch sang tiếng Hán ư?
– Phật giáo khởi nguồn từ Thiên Trúc, mọi thư tịch đều được chép bằng tiếng Phạn. Nếu muốn truyền bá rộng rãi Phật giáo đến Trung nguyên, chàng phải dịch sang tiếng Hán để người Hán có thể đọc và hiểu được.
Tôi mỉm cười giải thích:
– Hầu hết các bộ kinh Phật được sử dụng ở Trung Nguyên hiện nay đều được dịch từ các ngôn ngữ cả các quốc gia khác nhau ở Tây Vực. Trong quá trình chuyển dịch từ tiếng Phạn sang ngôn ngữ địa phương Tây Vực, ngữ nghĩa của kính văn vốn đã không còn trọn vẹn, sau đó lại được chuyển dịch lần hai sang tiếng Hán, mức độ khác biệt so với nguyên nghĩa lại càng xa hơn. Sai sót trong quá tình dịch thuật, tam sao thất bản, khiến cho câu chữ trở nên cong vênh, cứng nhắc, ảnh hưởng rất lớn đến việc tuyên truyền giáo lý Phật pháp… Cả hai ngôn ngữ tiếng Phạn và tiếng Hán đều rất phức tạp. Các tăng sĩ từ Thiên Trúc và Tây vực đến Trung Nguyên truyền đạo, muốn phiên dịch kinh Phật đều cần đến sự giúp sức của tăng sĩ Tây Nguyên. Nghe câu đoán ý, dù có thể bảo lưu nguyên nghĩa, nhưng lại mất đi ngữ điệu, vần vè. Cho đến nay, vẫn chưa có ai tinh thông cả hai ngôn ngữ này để có thể thay đổi tình hình. Rajiva, một giáo phái muốn được lưu truyền rộng khắp, trước hết phải làm cho càng nhiều người đọc được các giáo lý của giáo phái đó càng tốt. Chàng sẽ là người thay đổi phương pháp dịch từng câu từng chữ cứng nhắc, thậm chí dịch sai, đang diễn ra phổ biến hiện nay.
Ánh mắt chàng bừng sáng, nhìn tôi chăm chú, không giấu giếm sự ngưỡng mộ. Chàng đã hiểu, muốn truyền bá đạo Phật đến Trung Nguyên, việc phiên dịch những bộ kinh văn sang tiếng Hán với độ chính xác cao. Lại dễ nghe dễ hiểu có tầm quan trọng như thế nào.
– Chỉ e trình độ Hán ngữ có hạn của ta chẳng thể cho ra đời những bản dịch chuẩn xác và thuận tai được.
Chàng nắm lấy tai tôi, ánh mắt chứa chan kì vọng.
– Ngải Tình, giúp ta nhé!
Tôi lắc đầu, xấu hổ. Tôi không phải tín đồ Phật giáo, những kinh văn đó, tôi chỉ nhìn thôi đã thấy hoa mắt chóng mặt. Tuy nhiên, kiến thức mà tôi có, không phải không giúp ích gì cho công việc dịch thuật của Rajiva. Hơn nữa lại được làm việc cùng chàng, điều này khiến tôi vui hơn tất thảy. Chưa biết chừng, tôi cũng là một trong những dịch giả của bộ kinh văn đầu tay của Rajiva ấy chứ! Những thông tin vụn vặt thế này, rất có thể đã bị lãng quên hoặc lắng sâu trong dòng sông lịch sử và không ai biết được thực hư ra sao!
– Vâng, chúng ta có thể luyện tập dần dần, bắt đầu từ bộ kinh văn đơn giản nhất.
– Bộ kinh văn đơn giản nhất?
Chàng đăm chiêu suy tư, rốt cuộc là bộ kinh văn nào đây?
– Rajiva, chàng biết cuốn “Duy Ma Cật kinh” có tên gọi tương ứng với trong tiếng Phạn là gì không?
Tôi hỏi chàng, bởi vì tôi không biết tiếng Phạn gọi thế nào. “Duy Ma Cật” là tên gọi phiên âm và chính chàng là người dịch thành tên gọi này, nên có lẽ chàng sẽ đoán ra được dựa vào phát âm của tôi.
Duy Ma Cật là một cư sĩ giàu có, thông hiểu Phật pháp, nhiều vị bồ tát từng đến thỉnh giáo ngài.
Cuốn kinh này làm một trong những tác phẩm dịch thật quan trọng của Rajiva, có thể xem là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Địa Thừa, bên cạnh “Địa Bát Nhã kinh”. Cuốn kinh này có sức ảnh hưởng rất lớn đối với người Hán ở Trung Nguyên. Bởi vì “tu tại gia” đã trở thành một trào lưu phổ biến ở đất Hán. Văn hóa Trung Nguyên coi trọng hiếu đạo: “Trong ba tội bất hiếu, không có con nỗi dõi là tội lớn nhất” (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại). Việc xuất gia tu hành đã gây nên mỗi xung đột với luân thường đạo lý và lễ giáo truyền thống của Trung Nguyên. Bên cạnh đó, xuất gia có nghĩa là phải từ bỏ rất nhiều lạc thú của cuộc đời, điều này đối với người Hán mà nói, sẽ là một sự lựa chọn hết sức khó khăn. Bởi vậy, trong mắt các tín đồ Phật giáo người Hán, một người vừa có thể tận hưởng vinh hoa phú quí của đời sống nhân gian, vừa có thể đạt được những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực Phật học như Duy Ma Cật, một tấm gương sáng để noi theo.
– A, là bộ kinh văn này!
– Rajiva đọc lên mấy từ tiếng Phạn, cách phát âm rất giống nhau.
– Nhưng bộ kinh văn này không hề đơn giản!
Tôi chỉ cười không đáp. Chàng dịu dàng nắm tay tôi, cất giọng trầm ấm:
– Ngải Tình, ta hiểu ý nàng. Nàng muốn mượn gương đại trí của Duy Ma Cật để khuyên nhủ ta đúng không?
Chàng đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Trầm tư giây lát, rồi ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt rạng ngời vẻ thông tuệ:
– Bồ Tát từng hỏi Duy Ma Cật: “Ngài là một đại Bồ Tát, nhưng lại có gia đình vợ con, liệu ngài có được thảnh thơi?” Duy Ma Cật đáp rằng: “Mẹ ta là trí tuệ chói ngời, cha ta cứu độ chúng sinh, vợ ta là niềm vui tu hành, con gái ta là đại diện của lòng từ bi, con trai ta là đại diện của tính thiện. Ta có gia đình, nhưng cửa nhà ta được dựng lên bởi Phật tín. Đệ tử của ta là mọi chúng sinh. Bạn bè ta là các giáo phái tu hành khác nhau. Ngay cả các ca kỹ quanh ta cũng là những sứ giả của công cuộc giáo hóa, thu phục chúng sinh”.
Tôi mỉm cười gật đầu. Quả nhiên, chỉ cần nhắc đến cuốn kinh văn này, Rajiva sẽ hiểu được ý định của tôi.
– Rajiva, Duy Ma Cật có vợ con và sống cuộc đời thế tục, nhưng ông vẫn lưu danh “không tì vết” và đạt được sự giải thoát.
Ánh mắt chàng rực sáng, nhưng vương chút thắc mắc:
– Ngải Tình, nàng biết “Duy Ma Cật” nghĩa là “không tì vết” từ khi nào vậy?
Tôi lại mắc bệnh “chưa đẻ đã đặt tên” rồi! Huyền Trang cũng từng dịch bộ kinh văn này, nhưng ngài đặt tên sách là “Thuyết vô cấu xưng kinh[29]”. Nhưng tôi hiểu được ý nghĩa tên tiếng Phạn của Duy Ma Cật là nhờ vào Vương Duy[30]. Bởi vì Vương Duy rất sùng bái Duy Ma Cật. Ông tên Duy, tự “Ma Cật” (chính là mượn tên gọi của Duy Ma Cật để đặt tên cho mình). Tập thơ của ông có tên “Vương Ma Cật tập”. Nhưng Vương Duy không hiểu tiếng Phạn. Ông không biết rằng, “Duy” trong tiếng Phạn nghĩa là “không có”, “Ma” nghĩa là “vết bẩn”, còn “Cật” nghĩa là “đồng đều”. Như vậy, Vương Duy nghĩa là Vương không có, tự “Ma Cật” tức là bẩn đều, bẩn toàn bộ. Khi đọc đến đoạn giải nghĩa trên đây của Tiền Huyền Trung trong cuốn “Huyền Trang Tây du ký” tôi đã cười lăn cười bò. Vì thế, tôi đã nhớ rất kỹ biệt danh “không tỳ vết” này.
– Ngải Tình, nàng không biết tiếng Phạn, nhưng lại hiểu được một số ý nghĩa tiếng Phạn trong kinh Phật. Nàng chưa từng đến Kabul, Khotan, nhưng lại biết ở đó có những Phật tích gì. Dường như nàng có thể biết trước được một vài điều trong tương lai, nhưng lại không thể mô tả tường tận. Hai mươi năm qua, dung mạo của nàng không hề thay đổi, ta tin nàng chính là tiên nữ. Nhưng vì sao tiên nữ lại hiểu biết nửa vời như vậy. Lẽ ra tiên trên trời thì phải thông tỏ mọi điều, biết trước mọi điều chứ? Hay là…
Chàng ôm vai tôi, mỉm cười đầy ý tứ:
– Vì nàng lười nhác, bỏ bê việc tu hành, nên quyền năng yếu kém?
Không ngờ, trí tưởng tượng của Rajiva lại phong phú đến vậy. Chàng đã lập tức suy luận ra hình ảnh một nàng tiên lười nhác dựa trên bản tính của tôi.
– Rajiva, em không phải tiên nữ…
Chàng lắc đầu, ngắt lời tôi:
– Ngải Tình, mối nghi hoặc này đã quẩn quanh trong đầu ta suốt hơn hai mươi năm qua. Nhưng tiết lộ thiên cơ là một trong trọng tội của tiên giới. Thế nên, ta tuyệt đối không ép nàng nói ra sự thật đâu.
– Rajiva, chàng là người thân thiết nhất của em, em không muốn giấu chàng thân thế của mình. Nhưng xin hãy cho em thêm thời gian, được không?
Tôi ngước lên nhìn đôi mắt sâu thăm thẳm của chàng, trãi bày lòng mình:
Em cần suy nghĩ thấu đáo xem nên giải thích với chàng như thế nào.
– Không, không cần đâu…
Chàng đưa tay ra kéo tôi vào lòng.
– Ta biết, Phật tổ thương ta, đã gửi nàng đến để cứu ta thoát khỏi kiếp nạn này.
Trong vòng tay ấm áp của chàng, tôi cảm nhận được âm thanh sống động từ nhịp đập mạnh mẽ của trái tim chàng. Tôi chắc chắn chàng đã bắt đầu nghi ngờ về thân thế đặc biệt của tôi từ năm chàng mười ba tuổi. Nhưng dẫu chàng có thông minh tuyệt đỉnh đến đâu, cũng vẫn chịu sự giới hạn của thời đại, lịch sử. Chàng đã phân tích và lý giải sự tồn tại của tôi bằng cách riêng của mình và hình ảnh tiên nữ là cách giải thích hợp lý nhất. Nhưng tôi yêu chàng, tôi muốn sống trọn đời bên chàng, tôi không nên giấu chàng bất cứ điều gì. Có lẽ đã đến lúc tôi nên nói sự thật với chàng. Nhưng, phải nói thế nào đây? Liệu chàng có thể chấp nhận lai lịch ly kỳ của tôi không?
– Rajiva…
Tôi mân mê chiếc vòng trên cánh tay chàng, chuỗi hạt đã bạt màu và mòn vỡ theo năm tháng, nhưng vẫn tỏa mùi đàn hương ngào ngạt.
Chúng ta làm việc đi thôi!