Thomas là người cuối cùng ngồi vào bàn ăn sáng. Lisa không muốn ăn gì hết và Mary đã phải vội vàng dọn dẹp phòng bếp. Những chiếc bánh kem mứt bọc trong lớp giấy nhôm đã được xếp ngay ngắn trong cốp xe. Philip nhấn những hồi còi ngắn để mọi người nhanh chóng lene. Tiếng máy xe đã bắt đầu kêu ro ro khi chiếc đai lưng cuối cùng được thắt lại. Từ nhà đến trường chưa đầy mười phút, Mary không thấy có lý do gì để sốt ruột như thế. Trên đường đi, thỉnh thoảng anh lại đưa mắt nhìn trong kính chiếu hậu. Vẻ bực bội của anh lộ rõ đến mức Mary buộc phải hỏi chồng mình có chuyện gì; anh cố gắng một cách khổ sở để nén lại sự bực dọc của mình và nói với Lisa:
– Từ hai ngày nay, tất cả mọi người đều ăn không ngon ngủ không yên để chuẩn bị cho lễ bế giảng năm học của cháu, và người duy nhất có vẻ như chẳng mảy may bận tâm lại chính là cháu.
Đang mải nhìn qua kính xe để ngắm mây, Lisa chẳng thèm trả lời anh.
– Đúng là cháu hoàn toàn có lý do để im lặng như thế, Philip nói tiếp, quả thực là chẳng có lý do gì để vui mừng với kết quả học tập của cháu. Chú hi vọng là năm tới cháu sẽ chú tâm vào học tập nhiều hơn, nếu không thì nhiều nghề sẽ vượt qua khỏi tầm tay của cháu.
– Đối với công việc mà cháu muốn làm, điểm học của cháu như vậy là đủ rồi!
– Ái chà, thật là một tin tốt lành, hay đúng hơn là cuối cùng cháu cũng có được một mong ước đấy chứ, quả là chẳng bao giờ nên đánh mất hi vọng quá sớm! Mọi người có nghe thấy không? Cuối cùng cũng nghe được một mong ước.
– Cả hai làm sao vậy, Mary lên tiếng, hai người có chịu bình tĩnh lại không?
– Cảm ơn sự hỗ trợ của em. Thế cái nghề hay ho đang dang rộng cánh tay đợi cháu và chỉ cần một kết quả học tập hạng trung cũng có thể làm được là cái nghề gì vậy, chú rất nóng lòng muốn biết đây?
Nói lí nhí trong miệng, cô bé trả lời rằng khi nào đủ tuổi trưởng thành, cô bé sẽ gia nhập vào đội quân Peace Corps và sẽ đến Honduras, để làm công việc giống như mẹ của mình. Trái tim đột nhiên thắt lại, Mary ngoảnh mặt ra phía cửa sổ để không ai đọc được những cảm xúc hiện lên trên gương mặt mình. Tiếng bánh xe siết trên mặt đường kêu chói tai và chiếc xe đột ngột dừng lại bên lề đường. Thomas ngồi thụt sâu, ép sát vào lưng ghế, hai tay nắm chặt lấy dây thắt an toàn. Philip quay người lại, giọng run lên vì giận dữ:
– Tự cháu nảy ra cái suy nghĩ này đấy hả? Những gì cháu mới nói quả thật là một sự đền đáp tuyệt vời dành cho chúng ta đấy, bởi vì cháu tưởng rằng đó là lòng cao thượng thực sự ư? Cháu tưởng rằng chạy trốn cuộc đời của chính mình là một cách thể hiện của sự dũng cảm ư? Cháu có biết điều đó sẽ dẫn đến đâu không? Đó là cái cách sống lý tưởng của cháu đấy ư? Đâu rồi, đâu là những nhân chứng hạnh phúc mà nó đã để lại phía sau? Cháu sẽ không bao giờ đến đó hết, cháu nghe chú nói không? Cháu có muốn chú giải thích cho cháu nghe chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta từ bỏ cuộc sống của chính mình không ……
Mary nắm chặt cổ tay của chồng mình.
– Anh đừng nói nữa! Anh hoàn toàn không có quyền nói với con bé những lời như vậy! Anh đâu có phải đang nói với Susan, anh có ý thức được điều đó không?
Philip ra khỏi xe và đóng sập cửa phía sau lưng. Mary quay lại phía Lisa, đưa tay vuốt ve khuôn mặt với đôi mắt đỏ lên vì những giọt nước mắt sợ hãi của cô bé, bằng một giọng nói nhẹ nhàng, thẳng thắn, cô an ủi em.
– Cô thì cô tự hào về cháu. Những điều cháu muốn làm với cuộc sống của cháu sẽ đòi hỏi rất nhiều sự can đảm. Chưa gì, cháu đã rất giống mẹ cháu, và cháu có mọi lý do trên đời này để mong muốn như vậy, bởi vì đó là một người phụ nữ đáng khâm phục. Sau vài giây im lặng, cô nói thêm:
– Cháu thật may mắn, cô ước gì ở tuổi của cháu, cô cũng có thể ngượng mộ cha mẹ của mình đến mức muốn được trở thành người giống họ như cháu bây giờ.
Mary bấm còi xe từng hồi cho đến khi Philip chiu quay trở lại cầm lái. Ngay lập tức cô yêu cầu anh cho xe chạy, bằng một giọng khiến cho người ta chẳng thể cãi lại. Cô lại áp mặt mình vào cửa kính, một ánh buồn thoáng qua đôi mắt cô.
Ở trường, Philip không tham gia vào bất cứ hoạt động vui chơi nào, từ chối không ngồi dự buổi lễ trao giải và không nói một lời nào trong suốt bữa ăn, và cứ như thế trong suốt cả khoảng thời gian còn lại của buổi chiều. Anh không hề nhìn Lisa, thậm chí anh từ chối ngay cả khi cô bé chìa tay ra làm lành với anh vào cuối bữa ăn trưa. Mary làm mọi cách để anh mỉm cười bằng cách nhướn lông mày lên nhưng không thành công. Cô thấy thái độ của anh rất trẻ con. Cô nhận xét với Thomas như vậy và dành thời gian còn lại để chăm sóc cho Lisa, cô biết rằng đối với con bé, ngày hôm nay đã trở thành ngày thực sự tồi tệ. Trên đường trở về, không khí trong xe hoàn toàn trái ngược hẳn với không khí vui tươi của ngày hội vừa khép lại.
Vừa về đến nhà, ngay lập tức Philip bỏ lên phòng làm việc và giam mình trong đó. Mary dùng bữa tối với bọn trẻ trong bầu không khí nặng nề. Sau đó khi đã đắp chăn ấm cho hai đứa trẻ, cô đi về phòng nằm một mình, để buột ra một tiếng thở dài khi cô kéo chăn lên trùm kín vai. Buổi sáng, khi cô mở mắt ra, chiếc giường đã trống hoang. Trên bữa ăn trong phòng bếp, cô tìm thấy mẩu lời nhắn của Philip, anh đã đi đến phòng làm việc và tối nay sẽ về trễ, không cần phải đợi anh.
Cô làm bữa sáng và chuẩn bị tinh thần để đón nhận những ngày nghỉ cuối tuần lạ lùng. Giữa trưa, cô ra khỏi nhà mua sắm một số thứ, để hai đứa trẻ ở nhà xem tivi.
Khi ở trong siêu thị, trong lòng cô bỗng dâng lên một cảm giác cô đơn; cô không muốn để cho mình chìm đắm trong cảm giác ấy, cô điểm lại ngay tại chỗ cuộc sống của mình: những người cô yêu quý đều khỏe mạnh, cô có một mái nhà để trú chân, và một người chồng hầu như không bao giờ nổi giận, chẳng có lý do gì để cô phải khủng hoảng vào một trong những ngày Chủ nhật tồi tệ này.
Cô nhận ra mình đang nói chuyện một mình khi một bà cụ đi ngang qua gần chỗ cô đứng hỏi xem cô đang tìm gì. Cô mỉm cười trả lời bà: “Tìm nguyên liệu để làm bánh xèo.” Cô đẩy chiếc xe hàng về phía trước và tiến về phía quầy bán bột và đường. Cô trở về nhà lúc 18 giờ, hai tay trĩu nặng đồ, bởi vì nổi hứng mua sắm thật nhiều thường là cách cô tự vá lành các vết thương trong lòng. Cô đặt các gói đồ lên bàn ăn trong bếp và quay về phía Thomas đang ngồi chơi trong phòng khách.
– Các con ở nhà ngoan đấy chứ?
Cậu bé gật đầu. Mary bắt đầu dỡ các gói đồ ra.
– Lisa ở trong phòng hả con? Cô hỏi tiếp.
Mải chơi quá nên Thomas không trả lời.
– Mẹ vừa hỏi con một câu hỏi đấy, trong trường hợp con hoàn toàn không để ý thấy?
– Đâu có đâu, chị ấy đi cùng với mẹ mà!
– Sao lại thế được, sao Lisa lại đi cùng với mẹ?
– Cách đây hai tiếng, chị ấy ra khỏi nhà, và chị ấy nói: Chị đi gặp mẹ!
Mary buông rơi những trái cây cô cầm trên tay và nắm lấy vai cậu con trai.
– Chị ấy nói thế à?
– Mẹ ơi, mẹ làm con đau! Thì con vừa nói với mẹ đó, chị ấy ra khỏi nhà và chỉ nói chị ấy đi gặp mẹ.
Giọng nói của Mary lộ rõ sự lo lắng. Cô buông lỏng bàn tay đang nắm chặt vai con.
– Chị ấy có mang theo cái túi nào không?
– Thật ra con cũng chẳng để ý nhìn nữa. Có chuyện gì vậy mẹ?
– Con chơi tiếp đi, mẹ sẽ quay lại!
Cô vội vã leo lên các bậc thang, vào phòng của Lisa và tìm con thỏ bông đựng tiền tiết kiệm bình thường vẫn được đặt trên chiếc kệ gỗ sơn trắng. Con thỏ nằm trên bàn, trong bụng nó trống trơn. Mary cắn môi, vội vã chạy vào phòng mình, lao lên giường vào nhoài người ra với lấy chiếc điện thoại. Cô bấm ngay số điện thoại của Philip, anh không trả lời. Cô nhớ ra hôm nay là ngay cuối tuần và trong tâm trạng căng thẳng, cô bấm tiếp số máy trực tiếp của anh; anh nhấc điện thoại khi chuông reo đến hồi thứ tư.
– Anh phải về nhà ngay, Lisa bỏ nhà đi rồi, em gọi điện báo cảnh sát đây.
Philip đậu xe phía sau xe của cảnh sát Montclair. Anh chạy vội theo lối đi. Trong nhà, anh thấy Mary đang ngồi trên bộ sa-lông trong phòng khách, cạnh đó, sĩ quan Miller đang ghi chép.
Viên cảnh sát hỏi anh có phải là bố của cô bé không. Philip liếc nhìn về phía Mary và gật đầu trả lời. Nhân viên điều tra mời anh đến cùng trao đổi với họ. Trong suốt mười phút dài, ông ta hỏi họ về điều gì theo họ có thể là nguyên nhân dẫn đến việc bỏ nhà đi này. Cô bé có bạn trai không, gần đây cô bé có chia tay anh bạn trai đó không, có điều gì trong thái độ gần đây của cô bé có thể coi là dấu hiệu báo trước hành động này không?
Mất hết kiên nhẫn, Philip đứng lên. Họ sẽ không thể tìm ra con gái anh với trò chơi trả lời câu hỏi này, con bé đâu có trốn trong phòng khách và ngồi ở đây như thế này, họ đã để mất quá nhiều thời gian rồi. Anh thét lên rằng chí ít cũng có một người đi tìm cô bé rồi bỏ ra ngoài sau khi đóng sập cửa sau lưng. Viên cảnh sát ngồi sững sờ. Mary đành kể cho ông ta nghe hoàn cảnh đặc biệt của Lisa, và cho ông biết rằng chồng cô đã có một cuộc cãi vã với cô bé ngày hôm trước, và rằng đây là lần đầu tiên chuyện này xảy ra kể từ khi cô bé đến sống với họ. Mary không nói gì đến những điều cô đã nói với cô bé trong xe hơi. Lúc đó cô chỉ muốn nói điều gì đó để an ủi cô bé, nhưng bây giờ thì cô đang bắt đầu ngờ rằng chính những lời nói ấy đã khiến cho cô bé bỏ nhà đi.
Viên thanh tra cất cuốn sổ đi, xin phép ra về và mời Mary đến gặp ông tại văn phòng. Ông cố trấn an cô: trong tình huống xấu nhất, cô bé sẽ ngủ qua đêm ở bên ngoài và sáng sớm mai sẽ trở về nhà, các cuộc bỏ trốn khỏi nhà kiểu này thường vẫn kết thúc như vậy.
Buổi đêm đang xuống sẽ rất dài. Philip trở về nhà tay không, giọng nghẹn lại, anh đến bên vợ, cô đang ngồi bên chiếc bàn ăn trong bếp. Anh cầm lấy hai bàn tay cô trong tay mình và thì thầm nói với cô tâm trạng rối bời của anh. Anh dựa đầu lên vai cô, hôn cô rồi lên gác nhốt mình trong phòng làm việc. Mary nhìn theo anh. Cô cũng đi lên gác và vào phòng mà không cần gõ cửa.
– Em thấy rõ là anh không làm chủ được hoàn cảnnh này, và em có thể hiểu điều đó. Nhưng một trong hai chúng ta phải làm được điều đó. Anh hãy ở đây, anh sẽ chuẩn bị bữa tối cho Thomas và trả lời điện thoại. Nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra, hãy gọi em ngay lập tức vào số điện thoại trong xe hơi, em sẽ đi xem họ tìm đến đâu rồi.
Cô không để cho anh có thời gian để đáp lại; qua ô cửa sổ trong phòng mình, anh nhìn thấy cô chạy vội theo lối đi, chiếc xe hơi mất hút sau góc phố.
° ° °
Vẻ mặt của Miller chẳng báo trước tin gì tốt đẹp; ngồi đối diện với ông, cô bỗng cảm thấy thèm hút một điếu thuốc kinh khủng khi nhìn ông châm thuốc. Nhiều đội tuần tra đã xem xét kỹ những nơi thanh niên vẫn thường tụ tập, cảnh sát đã liên lạc với một vài người bạn của Lisa để hỏi thăm thông tin, và bây giờ, cảnh sát nghĩ rằng cô bé đã lên một chuyến tàu hay một chiếc xe khách để đến Manhattan. Thanh tra Miller đã gửi fax đến trung tâm Port Authority của New York[29], trung tâm này sẽ chuyển thông báo tìm đứa trẻ bỏ trốn đi khắp các đồn cảnh sát của thành phố.
– Rồi sao nữa? Cô hỏi.
– Thưa bà, trung bình mỗi thanh tra có khoảng bốn mươi hồ sơ tương tự trên bàn của mình. Phần lớn những đứa trẻ vị thành niên đều trở về nhà sau ba hay bốn ngày, tôi biết bà lo lắng nhưng cần phải kiên nhẫn. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm khắp nơi trong thành phố Montclair, nhưng New York nằm ngoài quyền hạn của chúng tôi, chúng tôi không có quyền can thiệp vào địa phận đó.
– Nhưng tôi không cần biết đến chuyện phân chia ranh giới hành chính của các ông. Ai sẽ là người trực tiếp chịu trách nhiệm tìm lại con gái tôi?
Miller hiểu tâm trạng khủng hoảng của cô, nhưng ông không thể làm gì hơn. Cuộc nói chuyện đã kết thúc, Mary vẫn không đủ sức đứng dậy khỏi chiếc ghế. Miller lưỡng lự vài giây, mở ngăn kéo và lôi ra một tấm danh thiếp, ông đưa nó cho cô.
– Ngày mai cô hãy đến gặp người đồng nghiệp này và nói rằng tôi giới thiệu cô đến, ông ấy là thám tử tại Midtown South Squad, tôi sẽ gọi điện báo trước cho ông ấy.
– Tại sao ông không gọi ngay bây giờ?
Miller nhìn thẳng vào mắt cô và nhấc máy điện thoại lên. Có tiếng hộp thư thoại trả lời cuộc gọi. Ông đã định đặt máy xuống, nhưng do Mary nhất định yêu cầu nên cuối cùng, ông để lại một mẩu tin nhắn tóm tắt lý do ông gọi đến. Cô hết lời cảm ơn ông và rời đồn cảnh sát.
Cô lái xe lên đến tận đỉnh đồi Montclair, từ đó, người ta có thể nhìn thấy thành phố New York trải dài đến vô tận. Đâu đó dưới một trong số hàng triệu bóng đèn đang nhấp nháy dưới kia, một cô gái nhỏ mười bốn tuổi đang chìm vào trong đêm tối đầy bất trắc. Mary xoay chìa khóa nổ máy xe đi theo con đường dẫn đến Trái Táo Lớn[30].
Tại bến đỗ trung tâm của hệ thống xe bus, cô chìa bức ảnh chụp Lisa mà cô để trong ví cho tất cả nhân viên tại đây xem. Chẳng có ai nhận ra cô bé. Cô chợt nhớ ra cửa hàng dịch vụ photocopy nơi cô đến đóng luận văn trước đây khi cô sống tại thành phố này. Cửa hàng này mở cửa suốt đêm, cô lập tức đi tới đó. Một cô sinh viên khoảng hai mươi tuổi với mái tóc uốn xoăn đang trực tại cửa hàng vắng vẻ. Mary giải thích cho cô gái mục đích cô đến đây; có vẻ rất đồng cảm, cô gái trẻ lấy một ly cà phê mời cô và tới ngồi vào trước một máy vi tính. Cô gái đánh dòng chữ “Mất tích”, ghi rõ phía dưới tất cả các thông tin liên quan mà Mary đưa cho. Khi tờ giấy được in ra, cô gái giúp Mary dán tấm hình lên và đưa vào máy photo thành một trăm bản. Mary ra khỏi cửa hàng, cô sinh viên dán một tờ thông báo lên mặt kính trước cửa tiệm.
Cô lái xe đi chầm chậm qua hết khu phố này đến khu khố khác. Mỗi khi cô bắt gặp một chiếc xe cảnh sát đi tuần trên đường, cô lại chặn họ lại đưa cho các nhân viên cảnh sát một tờ thông báo và xin họ hãy để ý giúp cô. Đúng bảy giờ sáng, cô có mặt tại đồn cảnh sát số 7, chìa cho viên cảnh sát mặc đồng phục tại quầy hướng dẫn tấm danh thiếp mà sĩ quan Miller đã đưa cho cô. Anh ta cầm tấm danh thiếp; cô phải ngồi chờ hoặc trở lại sau, đến 8 giờ vị trung úy này mới bắt đầu làm việc. Cô ngồi xuống một chiếc ghế băng, vui vẻ nhận ly cà phê trong chiếc cốc giấy mà nửa tiếng sau viên cảnh sát mang đến cho cô.
° ° °
Viên cảnh sát hình sự đậu xe vào bãi rồi đi lên bằng lối vào phía sau tòa nhà. Ông đã gần đến tuổi ngũ tuần, mái tóc dầy của ông đã bắt đầu điểm bạc. Ông vào văn phòng, vắt áo vest lên lưng ghế và để khẩu súng lục vào ngăn kéo bàn. Đèn hiệu trên hộp trả lời điện thoại tự động của ông chớp liên tục, ông vừa nhấn nút vừa lầm bầm bực bội. Tin nhắn đầu tiên là của người chủ ngôi nhà ông đang thuê, anh ta đòi thanh toán tiền thuê nhà và dọa sẽ báo cho cấp trên của ông, lời nhắn thứ hai là của mẹ anh, như mọi lần, bà vẫn than phiền về người nằm chung phòng trong bệnh viện, tin nhắn thứ ba và tin nhắn duy nhất làm tỉnh thức ánh mắt ngái ngủ của ông đến từ một cô bạn động nghiệp cũ, cô này đến sống tại San Francisco ngay sau khi họ chia tay nhau, hay cũng có thể do ông không muốn đi cùng cô nên họ đã chia tay? Tin nhắn thứ tư và cũng là tin nhắn cuối cùng của một trong những người bạn khá thân của ông, sỹ quan Miller làm việc tại đồn cảnh sát Montclair. Khi đoạn băng quay trở lại từ đầu, ông đi xuống lấy một ly cà phê tại máy pha cà phê tự động nằm ở tầng trệt: từ vài tháng nay, Nathalia không còn ở đó để nhân tiện đi lấy một lý cà phê cho ông khi cô đi lấy cho mình. Mary đang thiu thiu ngủ, ông lay vai cô. Cô mở mắt và thấy trước mặt mình là một người đàn ông với gương mặt tối lại vì bộ râu để nhiều ngày không cạo.
– Tôi là trung úy George Pilguez, người ta đã báo cho tôi biết là cô đến. Cô đã không mất thời gian vô ích, hãy đi theo tôi. (Mary cầm lấy túi xách và ly cà phê uống dở). Cô có thể để lại đó, tôi sẽ mời cô một ly cà phê nóng.
Pilgiuez nhìn chăm chú hồi lâu vào gương mặt người phụ nữ ngồi xuống trước mặt ông. Cô không hề cố gắng để tỏ ra nhã nhặn với ông, điều này làm cho ông cảm thấy mến cô ngay lập tức. Ông nghe cô kể đầu đuôi câu chuyện của cô, vừa nghe vừa xoay xoay chiếc ghế đang ngồi. Ông lấy khoảng ba mươi hồ sơ đựng trong các bìa các-tông từ trên tủ xuống và quẳng xuống bàn.
– Đây là hồ sơ của các trẻ vị thành niên bỏ trốn khỏi nhà, chỉ riêng của tuần vừa rồi, hãy nói cho tôi biết vì sao tôi phải quan tâm đến đứa trẻ này hơn những đứa trẻ khác?
– Bởi vì nó là con gái của tôi! Cô trả lời bằng một giọng cả quyết.
Ông đẩy ghế lùi ra phía sau, và cuối cùng trên mặt ông xuất hiện một nét gì đó giống như một nụ cười.
– Tôi đang ở trong tâm trạng vui vẻ. Tôi sẽ chuyển thông báo tìm kiếm đến tất cả các đội tuần tra và sẽ gọi điện đến một số đồn cảnh sát khác trong thành phố. Cô hãy về nhà đi, tôi sẽ báo cho cô nếu có tin gì mới.
– Tôi sẽ ở lại trong thành phố, tôi sẽ đi tìm con bé.
– Trong tình trạng mệt mỏi như cô hiện nay, tôi sẽ buộc phải rút lại bằng lái của cô; tôi sẽ dẫn cô đi uống một ly cà phê đúng kiểu, và đừng tranh luận gì nữa, tôi sẽ phạm vào tội không cứu giúp người đang gặp nguy hiểm, đi theo tôi nào!
Họ rời khỏi đồn cảnh sát. Trong quán cà phê nằm ở góc phố, họ ngồi vào bàn và cô kể cho ông nghe câu chuyện về một cô gái nhỏ đã rời khỏi Honduras để bước vào cuộc đời cô trong một ngày Chủ nhật trời mưa. Cô kể xong câu chuyện vào lúc họ đang cùng nhau ăn món trứng ốp-la.
– Thế còn chồng của cô đâu trong tất cả những chuyện này?
– Tôi nghĩ anh ấy phải chịu đứng quá nhiều sự kiện cùng một lúc, anh ấy đang tự kết tội mình vì đã cái vã với con bé khi ở trong xe hơi.
– Phải, nhưng có con để làm gì nếu như người ta không được la mắng chúng nữa?
Cô nhìn ông vẻ sửng sốt.
– Tôi chỉ đùa một chút để cô thư giãn thôi.
– Còn ông, cái gì đã làm cho ông ở trong tâm trạng vui vẻ?
– Đúng là lúc nãy khi ở trong văn phòng tôi đã nói như vậy, cô lắng nghe rất chăm chú đấy.
– Tôi tốt nghiệp ngành phóng viên ra mà!
– Cô vẫn còn đang làm nghề phóng viên chứ?
– Không, với hai đứa con như ông nói, người ta phải biết chọn lựa và chấp nhận hi sinh một số điều trong cuộc sống. Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
– Tôi đang nhận ra rằng tôi đã chán ngán thành phố này đến mức nào.
– Và điều đó làm ông cảm thấy vui vẻ sao?
– Không, điều đó làm cho tôi dễ xử. Đôi khi tôi phải thú nhận rằng tôi nhớ một ai đó nhiều hơn là tôi vẫn tưởng.
– Tôi vẫn không hiểu có cái gì làm ông cảm thấy vui vẻ!
– Có chứ, cuối cùng chắc tôi sẽ có thể ra một quyết định trước khi quá muộn.
– Quyết định gì?
– Xin chuyển công tác!
– Chuyển đến nơi có người phụ nữ mà ông đang nhớ?
– Tôi tưởng cô không còn hành nghề nữa cơ mà?
– Hãy tìm lại Lisa cho tôi, tôi cũng vậy, tôi không nghĩ là tội lại nhớ con bé đến như thế này.
– Tối nay hãy quay lại đây gặp tôi nếu cô còn đứng vững, và hãy cẩn thận khi lái xe.
Mary đứng dậy và định trả tiền nhưng viên cảnh sát đã cầm lấy tờ hóa đơn với một động tác dứt khoát và bằng tay kia, ông ra hiệu cho cô đi đi. Cô cảm ơn ông và ra khỏi quán cà phê. Cô lái xe đi khắp các con đường trong thành phố. Khi cô đi ngang qua chân tòa nhà của tờ New York Times, cô cảm thấy như có cái gì đó nhói lên trong tim. Theo bản năng, cô lái xe đến tận khu SoHo và dừng lại phía dưới cánh cửa sổ căn hộ trước đây của cô. Khu phố không ngừng thay đổi. Soi mình vào tấm kính của một cửa tiệm, cô ngắm mình trong gương và trề môi một cái vẻ khó chịu: “Chính vì vậy mà mình cảm thấy nó xa với đến thế”, cô lẩm bẩm cáu kỉnh. Cô gọi điện cho Philip, anh báo cho cô biết phía Montclair vẫn không có tin gì mới. Hít một hơi thật dài để lấy can đảm, cô uống vội một ly cà phê tại quán Fanelli’s, và lái xe về phía khu phố Mỹ la tinh của thành phố.Buổi chiều sắp trôi qua, đã hai mươi bốn tiếng đồng hồ kể từ khi Lisa biến mất, Mary cảm thấy nỗi lo lắng đang lớn dần lên trong ngực mình. Thêm vào sự căng thẳng là cảm giác mệt mỏi. Cô đứng bất động, sững sờ giữa lối dành cho người đi bộ khi nhìn thấy một bà mẹ cùng với một cô con gái trạc tuổi Lisa đi ngang qua. Người phụ nữ nhìn có vẻ dò xét rồi đi tiếp. Một nỗi buồn choán lấy cô. Đầu buổi tối, cô lái xe về hướng đồn cảnh sát thành phố và trên đường đi, cô gọi điện cho trung úy Pilguez.
Ông bảo đến gặp ông tại quán bar ban sáng. Cô là người đến nơi trước. Phải một lúc mắt cô mới quen được không gian tối bên trong quán. Cô bỏ hết số tiền xu mình có trong túi vào một chiếc máy bán hàng tự động gần toilet để mua cho mình một bao thuốc Winston.
Cô ngồi vào quầy bar, để anh phục vụ quầy châm thuốc cho cô và hít một hơi thật dài. Ngay lập tức cô cảm thấy chóng mặt, cô ho và lảo đảo trên ghế.
Anh phục vụ lo lắng hỏi cô có cảm thấy ổn không? Tiếng cười đứt đoạn và đầy bất ổn phát ra từ cổ họng khàn khàn của cô khiến cho anh bối rối.
Trung úy Pilguez đẩy cửa bước vào, cô đi theo ông đến ngồi tại một bàn được ngăn riêng biệt. Ông gọi một ly bia, cô lưỡng lự rồi cũng gọi một ly giống như vậy.
– Tôi đã dành gần như cả ngày đề giải quyết hồ sơ của con gái cô, chắc chắn bây giờ không còn một nhóm tuần tra nào của New York mà không nắm thông tin này. Tôi đã đến khu phố của người Puerto Rico, tôi đã nói chuyện với tất cả những người cung cấp thông tin riêng của tôi, không có một dấu vết nào của con gái cô. Về một mặt nào đó thì đây có thể coi là một tin tốt, điều đó có nghĩa là con bé chưa bị những tên anh chị đường phố để ý tới và nếu như điều đó có xảy ra thì tôi sẽ được báo ngay lập tức; Lisa nhận được sự bảo vệ của tôi, và tại một số nơi, điều đó gần như còn tốt hơn là mang trên người một thiết bị định vị toàn cầu.
– Tôi không biết phải cảm ơn ông như thế nào, Mary thì thầm.
– Nếu vậy thì đừng làm! Hãy nghe những gì tôi sắp nói với cô đây. Bây giờ cô phải trở về nhà, nếu không thì cô sẽ lăn ra bất tỉnh đấy và điều đó sẽ chẳng giúp ích được gì nhiều khi ta tìm được con bé. Trong khi chờ đợi, cô có thể giúp chúng tôi.
Pilguez nhắc cô nhớ rằng bước chân của một đứa trẻ vị thành niên đi theo những con đường khác với bước chân người lớn. Có thể là Lisa bỏ nhà đi trong một cơn xúc động, nhưng không phải là ra đi một cách ngẫu nhiên. Chắc chắn là cô bé phải đi theo một con đường có một logic nào đó, con đường riêng của em. Tấm thảm có thể dẫn chúng ta đến với em được dệt bởi những sợi dây của ký ức, và phải lục tung trí nhớ của ta lên để tìm cho ra những sợi dây mang một ý nghĩa đặc biệt. Trong một lần dạo chơi nào đó trong công viên, liệu có lần nào cô bé, dù chỉ là thoáng để ý đến một cái cây có thể gợi cho cô bé nhớ đến mảnh đất quê hương của em? Nếu có, rất có thể là giờ này cô bé đang ngồi chờ dưới tán lá của cái cây đó.
– Chúng tôi đã từng cùng nhau đi du lịch ở vùng Núi Đá, cô trả lời.
Mẹ của cô bé có thể từng có một chốn riêng thân thuộc nào đó khi còn nhỏ? Mary nghĩ đến những đỉnh đồi Montclair nơi người ta có thể nhìn thấy cả thành phố, nhưng cô đã đến chỗ đó rồi.
– Vậy thì hãy quay lại đó đi! Pilguez nói.
Cô có nhớ từng nhìn thấy một lá cờ Honduras ở đâu đó, dù chỉ là một lá cờ nhỏ xíu? Có thể cô bé đang ở đó ngồi ngắm lá cờ. Có một lá cờ cô bé đã từng vẽ lên một gốc cây. Liệu có một nơi nào đó mà đối với cô bé, nó như một chiếc cầu vượt nối liền thế giới ở đây với xứ sở đó? Mary nhớ lại chiếc cầu trượt màu đỏ tróc sơn mà Philip từng kể với cô, nhưng lần đó đã cách đây lâu lắm rồi, từ những ngày đầu tiên khi cô bé mới đến ở.
– Nếu như tôi là cô, tôi sẽ lao đến tất cả những nơi này ngay lập tức, rất có thể cô bé đang ở một trong những nơi đó. (Pilguez nói chữa lại)Nhưng dù sao, trong tình trạng của cô, cũng đừng phóng nhanh quá, hãy gọi điện cho tôi, và cô cũng nên nghỉ ngơi một chút đi.
Mary đứng dậy và cảm ơn ông. Trước khi rời khỏi bàn, cô đặt tay lên vai người cảnh sát với vẻ ngoài cục mịch.
– Ông có tin vào khả năng con bé đang ở chỗ chiếc cầu trượt không?
– Chẳng ai biết được, luôn có những may mắn bất ngờ xảy ra! Hãy đi ngay đi!
Cô loại bỏ khả năng cô bé bỏ đi bằng tàu lửa vốn là khả năng khiến cô lo lắng nhất. Phương tiện di chuyển này khá đắt tiền đối với con thỏ của Lisa. Cô quay trở lại nhà ga xe bus trung tâm và lần này cô xin được gặp người phụ trách. Cô nhận viên nhà ga nhận ra cô và mời cô ngồi chờ trên một chiếc ghế băng. Thời gian chờ đợi với cô có vẻ như dài vô tận. Cuối cùng, một người đàn ông tướng người to béo mập mạp cũng đến mời cô vào văn phòng. Căn phòng rất u ám, nhưng người đàn ông có hơi thở hổn hển đó thì rất dễ chịu và sẵn sàng giúp đỡ cô.
Cô đưa cho ông ta xem tấm hình của Lisa và hỏi xem cô bé có thể đi đến tận Trung Mỹ bằng xe khách được không. “Các tuyến xe đi về phía nam của chúng tôi dừng ở Mê-hi-cô”, ông vừa trả lời vừa đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Đã có ba chuyến xe xuất phát kể từ thời điểm đứa trẻ biến mất. Đứng dậy một cách vất vả, ông nhìn đồng hồ và đưa ngón tay chỉ vào tấm bản đồ dán trên tường những vị trí hiện nay của ba chiếc xe. Ông lấy một cuốn danh bạ khổng lồ của hãng từ trên giá xuống để gọi điện thoại đến những điểm dừng chân sắp tới, nơi các hành khách sẽ xuống nghỉ ngơi ăn uống. Cô yêu cầu thông báo đến các tài xế lái xe liên lạc khẩn cấp về nhà ga trung tâm ở New York. Dù có vẻ như điều đó không dễ dàng gì với ông, ông vẫn tiễn cố ra đến tận vỉa hè phía ngoài tòa nhà. Khi cô cảm ơn ông, vẻ rất xúc động, trước khi đi khuất hẳn trên vỉa hè của nhà ga, ông nói thêm rằng ông tin chắc không đời nào ở vào độ tuổi đó, cô bé lại có thể lên xe mà không bị các tài xế lái xe để ý; ông cũng nói thêm rằng dù thế nào đi nữa, cô bé cũng không thể nào đi qua được biên giới!
Để chống lại cơn buồn ngủ, cô để mở cửa sổ xe trong khi lái. Cô không cho phép mình được lăn ra ngủ vào lúc này. Lúc này 20 giờ 30, bãi đậu xe của quán MacDonald’s vẫn còn chật kín, những chiếc cầu trượt già nua màu đỏ vẫn nằm ngủ một cách bình yên. Cô chạy khắp các lối đi, vừa chạy vừa gọi tên Lisa nhưng chẳng có ai trả lời. Bên trong quán ăn nhanh, cô đưa tấm hình của Lisa cho tất cả các nhân viên xem nhưng chẳng ai nhận ra cô bé. Cô lái xe theo con đường dẫn đến khu đồi trên cao của thành phố, rẽ vào một con đường đất và dừng xe lại ngay trước tấm thanh chắn ngăn không cho cô đi xa hơn nữa. Cô tiếp tục đi bộ theo con đường mòn và leo lên đến tận đỉnh đồi. Trong ánh sáng nhàn nhạt cuối ngày, cô tiếp tục hét gọi tên Lisa, nhưng không có tiếng vọng lại đáp lời cô. Cô cảm thấy muốn nằm lăn ra đất. Khi đêm tối buông xuống, cô thấy mình đã gần như kiệt sức, đành quyết định trở về nhà.
Thomas đang ngồi trên sàn nhà trong phòng khách; cô nói với con vài lời âu yếm rồi đi thẳng lên phòng mình. Khi bước lên cầu thang, Mary mới nhận ra là tầng trệt hoàn toàn yên ắng. Cô nhìn về phía sau và nhìn thấy màn hình tivi tối đen. Thomas đang ngồi nhìn chăm chăm vào cái màn hình tivi đã tắt. Cô bước xuống trở lại các bậc thang, quỳ xuống bên cạnh con và ôm cậu vào lòng.
– Mấy hôm nay mọi người không chăm sóc được cho con phải không, ếch nhỏ của mẹ.
– Mẹ có nghĩ là chị ấy sẽ trở về không? Cậu bé hỏi.
– Mẹ không phải là chỉ nghĩ, mẹ tin chắc như vậy.
– Có phải tại hôm trước cãi nhau với bố mà chị ấy bỏ đi không?
– Không, tại mẹ thì đúng hơn. Mẹ nghĩ rằng mẹ đã không làm cho chị ấy cảm thấy thoải mái trong cuộc sống.
– Mẹ có yêu chị ấy không?
– Tất nhiên rồi, sao con lại hỏi như vậy?
– Bởi vì không bao giờ mẹ nói ra điều đó.
Mary sững người không nói được lời nào.
– Con đừng ngồi đó như vậy, con đi chuẩn bị cho hai mẹ con mình hai cái sandwich đi, mẹ lên phòng thay đồ xong sẽ xuống ăn tối với con. Con có biết bố con đang ở đâu không?
– Bố đến chỗ đồn cảnh sát rồi, một tiếng nữa bố sẽ về.
– Vậy thì con làm ba cái sandwich nhé… à không, bốn cái!
Cô lại leo lên các bậc thang, bám tay vào thành cầu thang để dựa người, và tiếp tục đi như vậy đến tận phòng làm việc của Philip.
Căn phòng đang chìm trong bóng tối, cô chạm nhẹ tay vào chiếc đèn đặt trên bàn làm việc, chỉ cần chạm ngón tay vào cái cấu trúc bằng kim loại của cây đèn là nó bật sáng.
Cô đi về phía kệ sách, cầm khung ảnh và đưa lại gần mặt mình. Trên tấm hình, gương mặt của Susan rạng rỡ với một nụ cười đã thuộc về quá khứ. Bằng một giọng rất nhẹ, Mary bắt đầu nói với cô:
– Tôi cần có chị. Chị thấy đó, tôi đang đứng đây như một con ngốc ở giữa căn phòng này, và chưa bao giờ trong đời tôi cảm thấy cô đơn đến thế. Tôi đến để nhờ chị giúp. Bởi vì từ nơi chị đang ở, chắc chắn chị sẽ nhìn thấy cô bé. Chị biết đấy, tôi không thể một mình làm tất cả. Tôi rất hiểu những gì chị có thể nghĩ, nhưng đừng gửi cô bé đến cho tôi nếu như chị không muốn tôi gắn bó với cô bé đến như thế này. Tôi chỉ xin chị cho phép tôi có quyền được tiếp tục yêu thương nó. Hãy giúp đỡ tôi mà không cần phải lo sợ điều gì hết, bởi vì chị vẫn sẽ mãi là mẹ của nó, tôi xin thề với chị điều đó. Hãy cho tôi biết một dấu hiệu, chỉ một dấu hiệu rất nhỏ thôi, một cái hích tay, chị có thể làm điều đó mà, phải không?
Và những giọt nước mắt mà cô đã nén lại giờ chảy dài trên má cô. Ngồi trong chiếc ghế bành của chồng, tấm hình của Susan ép vào ngực, cô gục đầu xuống bàn. Khi ngẩng lên, cô nhìn chăm chăm vào chiếc hộp nhỏ bằng gỗ đặt giữa bàn, vẻ mặt đầy suy nghĩ; chìa khóa để ngay bên cạnh. Cô đứng bật dậy và lao xuống cầu thang.
Đứng ngay ngưỡng cửa nhà, cô nói với Thomas:
– Con không ra khỏi nhà nhé, con xem tivi, ăn hết chiếc bánh sandwich và, khi bố về đến nhà, con nói với bố rằng mẹ sẽ gọi cho bố sau, nhất là con đừng mở cửa cho ai đấy nhé, con hiểu không?
– Con có thể biết chuyện gì đang xảy ra được không?
– Để sau đi con yêu, lúc này mẹ thực sự không có thời gian, hãy làm đúng những điều mẹ nói, mẹ hứa sẽ bù lại cho con thời gian đã mất này.
Cô lao vào xe và cuống cuồng tra chìa khóa xe vào ổ công tắc; động cơ xe bắt đầu nổ. Cô phóng xe rất nhanh, vượt qua tất cả những gì nhìn thấy trước mắt, lúc lao qua bên phải, lúc lách qua bên trái, để lại sau lưng tiếng còi xe inh ỏi phản đối nhưng cô chẳng hề mảy may quan tâm. Trong lồng ngực, cô nghe thấy tiếng tim mình đập loạn xạ, mỗi giây phút trôi qua, cô lại tăng tốc thêm chút nữa; cô suýt thì bị trật tay lái trên trục đường dẫn đến cổng ra số 47 nhưng rồi cô giữ vững được tay lái. Mười phút sau, cô bỏ lại chiếc xe bên lề một vỉa hè. Cô chẳng thèm trả lời viên cảnh sát đang gọi cô mà chạy thẳng vào bên trong tòa nhà. Cô lấy hết sức chạy thật nhanh, thở hổn hển khi leo lên các bậc thang của một cầu thang hình xoắn ốc. Ở cuối một hành lang, cô dừng trước một cánh cửa, trong lúc dừng lại để lấy hơi, cô nhìn qua ô cửa kính nhỏ trên cánh cửa để quan sát căn phòng, rồi chầm chầm, cô đẩy cửa bước vào.
= 0 =
Cuối căn phòng của quán bar tại khu vực nhà ga số 1 của sân bay Newark, một mình bên một chiếc bàn, một cô bé gái mười bốn tuổi đang ngồi nhìn qua ô cửa kính rộng, hướng về phía đường băng bên dưới.
Mary chầm chậm bước dọc theo lối đi và đến ngồi trước mặt em. Lisa đã cảm thấy sự có mặt của cô, nhưng mắt em vẫn nhìn đăm đăm về phía những chiếc máy bay. Không nói một lời, Mary đặt bàn tay lên tay em, để em ngồi trong yên lặng. Vẫn không quay người lại, Lisa nói:
– Chính từ đây mà mẹ đã ra đi phải không?
– Đúng rồi, Mary thì thầm, từ đây. Hãy nhìn cô đi, chỉ một lát thôi, cô có điều này quan trọng muốn nói với cháu.
Lisa chầm chậm quay đầu lại và nhìn sâu vào mắt Mary.
– Khi cô nhìn thấy cháu lần đầu tiên trong bộ quần áo ướt sũng và quá chật đối với cháu, với chiếc túi xách và quả bóng của cháu, cô không tưởng tượng được rằng một đứa trẻ bé nhỏ như vậy lại có thể chiếm một vị trí lớn đến thế trong trái tim cô. Cô nghĩ rằng chưa bao giờ cô từng lo sợ đến như thế trong đời, cho đến tận ngày hôm nay. Cô muốn chúng ta trao đổi với nhau một lời hứa, một bí mật của riêng chúng ta. Cháu đừng tìm cách bỏ đi lần nữa, và đến ngày cháu tốt nghiệp trung học, khi cháu đã đủ mười tám tuổi, nếu cháu vẫn cảm thấy “nơi đó” là nơi của cháu, nếu cháu vẫn muốn đi, lúc đó chính cô sẽ dẫn cháu đến sân bay này, cô thề với cháu đấy. Cháu ngồi ở đây suốt thời gian vừa rồi mà không ai để ý ư?
Nét mặt Lisa giãn ra với một nụ cười bẽn lẽn nở trên đôi môi em.
– Không ạ. Chúng ta về nhà chứ? Cô bé nói, giọng nghe nhỏ xíu.
Hai người đứng dậy. Mary để lại vài đô-la trên bàn và cả hai cùng đi ra khỏi quán bar. Ra đến ngoài lề đường, Mary cầm lấy tờ giấy phạt để trên kính trước xe lên và vướt qua vai ra phía sau. Lisa đặt cho cô một câu hỏi:
– Cô là ai đối với cháu?
Mary lưỡng lự giây lát rồi trả lời:
– Cô là điều mâu thuẫn của cháu.
– Điều mâu thuẫn là gì?
– Tối nay, khi cháu lên giường nằm, cô sẽ giải thích cho cháu nghe. Ngay bây giờ, cô hơi ngại đôi mắt của cô, và cháu thì chẳng có đủ đồ để làm bánh xèo trong xe hơi đâu!
Trên chiếc điện thoại gắn trên bảng điều khiển của xe, Mary quay số ở nhà, đầu kia Philip lập tức nhấc máy.
– Cô bé đang ở với em, bọn em đang trở về nhà, em yêu anh.
Sau đó cô gọi cho một viên thanh tra cảnh sát, người mấy ngày nữa sẽ điền vào đơn xin chuyển công tác đến đồn cảnh sát hình sự ở San Francisco; thành phố thực sự rất đẹp, người ta đồn thế, ông biết được điều này từ một cô Nathalia nào đấy đang làm việc ở đó.
Khi họ về đến nhà, Thomas lao ngay ra chỗ Lisa, em ôm chặt cậu bé trong lòng, hai người lớn đến bên cô bé với một đĩa trái cây trên tay. Em không đói, em chỉ mệt và muốn đi ngủ.
° ° °
Trong phòng, Mary ngồi xuống bên thành giường và vuốt ve mái tóc của em thật lâu. Cô hôn lên trán em và khi cô chuẩn bị ra khỏi phòng, cô nghe thấy tiếng cô bé đặt cho cô câu hỏi lần thứ hai trong ngày:
– Điều mâu thuẫn là gì hả cô?
Tay vẫn đặt trên nắm cửa, Mary mỉm cười, một nụ cười đầy xúc động.
– Điều mâu thuẫn, đó là cô sẽ không bao giờ trở thành mẹ của cháu, nhưng cháu sẽ mãi mãi là con gái của cô. Bây giờ cháu ngủ đi, mọi chuyện đều tốt đẹp.