Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Emily Trên Dải Cầu Vồng

Chương 13: Bến cảng

Tác giả: Lucy Maud Montgomery

Khi ta đang mơ màng trong giấc ngủ, văng vẳng bên tai khúc thánh ca của các vị thần mà rồi lại bị đánh thức bởi một cú ngã lộn nhào nhục nhã từ trên đống cỏ khô xuống thì thật chẳng khác gì phút trước còn trên thiên đường, phút sau đã rơi xuống địa ngục. Nhưng ít nhất, sự cố đó đã đánh thức họ vừa kịp lúc để chiêm ngưỡng vầng thái dương nhô lên trên Indian Head, một cảnh tượng đáng để hy sinh vài tiếng đồng hồ dẫu thoải mái nhưng quá nhạt nhòa.

“Thêm nữa, từ trước tới nay tớ chẳng bao giờ biết một cái mạng nhện lóng lánh đính hạt sương đêm hóa ra lại thanh nhã biết nhường nào,” Emily nói. “Nhìn nó mà xem… đu đưa giữa hai nhánh cỏ cao mềm như sợi lông chim kia kìa.”

“Cứ viết một bài thơ ca ngợi nó đi,” Ilse trêu, cô bị dọa cho phát hoảng nên vừa vội làm dấu thánh giá.

“Chân cậu sao rồi?”

“Ôi, không vấn đề gì. Nhưng tóc tớ ướt nhẹp sương.”

“Tóc tớ cũng vậy. Chúng mình cứ bỏ mũ ra một lúc, rồi mặt trời sẽ hong khô luôn ấy mà. Lên đường sớm thì càng tốt. Chúng mình có thể quay trở về thế giới văn minh đúng thời điểm an toàn để gặp gỡ người khác. Chỉ có điều, chúng mình sẽ phải lấy mấy cái bánh quy giòn trong túi để làm bữa sáng thôi. Giờ chúng mình mà đi kiếm bữa sáng thì cũng chẳng ổn, vì đâu có lý do hợp lẽ nào để giải thích xem chúng mình đã nghỉ đêm ở đâu chứ. Ilse, cậu hãy thề là sẽ không bao giờ nhắc đến chuyến phiêu lưu này với bất kỳ người nào nhé. Nó đẹp thật đấy, nhưng nó chỉ giữ được vẻ đẹp ấy chừng nào chỉ có hai đứa mình biết về nó mà thôi. Cậu cứ nhớ lại xem, sau khi cậu kể về vụ tắm trăng của chúng mình thì kết quả ra sao.”

“Người ta có lối tư duy kinh tởm như thế đấy,” Ilse càu nhàu, trượt xuống khỏi đống cỏ.

“Ôi, nhìn Indian Head kìa. Ngay giây phút này, có lẽ tớ sẵn lòng làm một tín đồ phụng thờ mặt trời.”

Ngọn núi Indian Head tắm trong dòng ánh sáng huy hoàng chói lọi. Những rặng đồi xa xăm chuyển sang màu đỏ tía tuyệt đẹp dưới nền trời rực rỡ. Ngay cả đường Hardscrabble trống trải, xấu xí cũng đã biến hình, tỏa sáng lấp lánh trong tấm màn sương màu bạc. Những cánh đồng, những rừng cây đáng yêu xiết bao trong ánh sáng ngọc trai nhàn nhạt.

“Mỗi sớm bình minh, thế giới luôn được trẻ lại trong chốc lát,” Emily lầm bầm.

Rồi cô rút cuốn sổ Jimmy ra khỏi túi xách để viết lại câu này!

Ngày hôm đó, hai cô gái đã trải qua những trải nghiệm thông thường mà hết thảy những người chào hàng trên khắp thế giới này đều đã trải qua. Có người từ chối đặt báo, một cách chẳng hề nhã nhặn; có người đặt báo với thái độ lịch sự; có người từ chối đặc báo bằng thái độ thân ái đến độ mang lại ấn tượng vô cùng dễ chịu; lại có người đồng ý đặt báo nhưng lại bằng thái độ cấm cảu đến nỗi Emily chỉ ước sao họ từ chối luôn đi cho xong. Nhưng nhìn chung, hai cô gái khá thích thú buổi sáng đó, nhất là khi một bữa trưa sớm tuyệt hảo trong một trang trại hiếu khách trên đường Tây đã lấp đầy cái dạ dày trống rỗng vốn vẫn quặn lên sau cả buổi tối nằm trên đống cỏ khô, chỉ có vài cái bánh quy lót dạ.

“Chắc là hôm nay các cháu không tình cờ gặp đứa trẻ đi lạc nào nhỉ?” vị chủ nhà hỏi.

“Không ạ. Có ai bị lạc hay sao ạ?”

“Cậu bé Allan Bradshaw, con trai Will Bradshaw, ở hạ lưu sông chỗ mũi Malvern đã mất tích từ sáng thứ Ba. Sáng đó cậu bé ra khỏi nhà, vừa đi vừa hát, thế rồi kể từ đó chẳng ai nhìn thấy hay nghe tin gì về cậu ấy nữa.”

Emily và Ilse nhìn nhau bàng hoàng.

“Cậu ấy bao nhiêu tuổi ạ?”

“Mới bảy tuổi thôi, lại là con một. Nghe đồn người mẹ tội nghiệp của cậu bé đã quẫn trí hoàn toàn rồi. Suốt hai ngày nay, toàn bộ cánh đàn ông ở mũi Malvern đều tham gia vào cuộc tìm kiếm, nhưng người ta chẳng hề phát hiện ra bất kỳ dấu vết nào của cậu bé hết.”

“Cậu ấy đã gặp chuyện gì mới được chứ!” Emily nói, tái nhợt vì hoảng loạn.

“Đó vẫn là một bí ẩn. Có người cho là cậu bé đã ngã khỏi cầu tàu ở mũi đất, chỗ đó chỉ cách nhà cậu bé một phần tư dặm và cậu bé vốn vẫn thích ngồi đó ngắm tàu thuyền. Nhưng sáng đó, chẳng ai nhìn thấy bóng dáng cậu bé lảng vảng quanh cầu tàu hay trên cầu. Ở phía Tây trang trại Bradshaw có rất nhiều đầm lầy, vô khối các bãi lầy và ao hồ. Có người cho là cậu bé chắc hẳn đã lang thang ra đó rồi lạc đường và chết mất rồi… các cháu nhớ không, tối thứ Ba vừa rồi trời rét căm căm ấy. Mẹ cậu bé cũng nghĩ là cậu bé đã ra chỗ đó, và nếu các cháu muốn hỏi ý kiến của tôi, thì tôi tin là bà ấy đoán đúng đấy. Nếu ở bất kỳ nơi nào khác thì hẳn bao nhiêu đoàn tìm kiếm kia đã tìm thấy cậu bé ấy rồi. Họ chẳng xới tung khắp cả vùng này rồi con gì.”

Câu chuyện ám ảnh Emily suốt từ lúc đó cho đến tận cuối ngày, và dẫu đi đến đâu cô cũng đều bị đè dưới cái bóng đen của nó. Bất kỳ chuyện gì kiểu như thế này đều khiến cô day dứt mãi không yên. Cô không tài nào chịu nổi mỗi khi nghĩ về người mẹ đáng thương ở mũi Malvern. Lại còn cậu bé kia nữa… cậu đang ở đâu? Tối hôm qua, khi cô đang nằm đó ngất ngây tận hưởng những giờ phút tự do phiêu lãng thì cậu đã ở đâu? Tối đó không lạnh… nhưng tối thứ Tư thì có. Và cô không tránh khỏi rung mình khi nhớ lại buổi tối hôm thứ Ba, khi cơn bão mùa thu dữ dội quần thảo cho tới tận bình minh, mưa đá quăng tới tấp, nước mưa quất vào người như kim châm. Có phải cậu đã ở ngoài trời giữa lúc đất trời như thế không, cậu bé mất tích đáng thương?

“Ôi, tớ không chịu đựng nổi chuyện này!” cô rên rỉ.

“Kinh khủng quá,” Ilse đồng ý, trông sắc mặt cô không tốt chút nào, “nhưng chúng mình đâu thể làm gì được. Cô nghĩ mãi đến nó thì cũng chẳng ích lợi gì. Ôi.” – Ilse đột nhiên giậm chân thình thịch – “cha đã đúng khi ngày xưa không tin vào Chúa. Một chuyện khủng khiếp đến như thế này… chuyện này làm sao có thể xảy ra nếu có Chúa thật cơ chứ… nghĩa là một vị Chúa đúng đắn ấy?”

“Chúa chẳng liên quan gì đến chuyện này hết,” Emily nói. “Cậu cũng thừa biết vị Chúa Quyền năng đã tạo nên buổi tối hôm qua sẽ không đời nào mang đến điều tàn ác này.”

“Nhưng mà Người đã không ngăn cản nó,” Ilse – vốn đang thấy khổ sở đến độ chỉ muốn bắt cả vũ trụ này phải chịu trách nhiệm cho nỗi đau đớn của cô.

“Có lẽ người ta chỉ chưa tìm thấy cậu bé Allan Bradshaw thôi… cậu ấy phải được tìm thấy,” Emily kêu lên.

“Có tìm thấy thì cậu ấy cũng chẳng còn sống nữa,” Ilse giận dữ kêu. “Không, đừng nói với tớ về Chúa nữa. Cũng đừng nó nói với tớ về chuyện này nữa. Tớ phải quên nó đi thôi… nếu không làm thế tớ sẽ phát điên lên mất.”

Ilse giậm chân thêm lần nữa để gạt vấn đề này ra khỏi tâm trí, trong khi Emily cũng cố gắng không nghĩ về nó nữa. Nỗ lực dẫu chẳng thành công nhưng cô vẫn ép mình hời hợt quan tâm đến công việc trong ngày, nhưng cô biết rõ câu chuyện đáng sợ này vẫn lẩn khuất nơi sâu thẳm ý thức của cô. Chỉ có một lúc cô thực lòng quên bẵng nó đi, đó là khi họ rẽ vào một đường nhánh giữa đường Sông Malvern và nhìn thấy một ngôi nhà nhỏ được dựng lên giữa bờ một con vịnh khum khum bé xíu, một đồi cỏ thoai thoải đang nhô lên từ phía sau. Rải rác trên đồi, những cây linh sam non đủ mọi dáng hình đẹp đẽ đứng đơn độc như những ngọn kim tự tháp tí hon màu xanh bị kéo dãn ra mãi. Chẳng còn ngôi nhà nào khác lọt vào trong tầm mắt. Bao quanh nó là khung cảnh mùa thu tĩnh mịch, đáng yêu với dòng sông xanh nhợt uốn lượn ngoằn ngoèo và những mũi đất viền vân sam đỏ.

“Ngôi nhà đó thuộc về tớ,” Emily nói.

Ilse trợn mắt.

“Thuộc về cậu?”

“Đúng vậy. Tất nhiên tớ không sở hữu nó. Nhưng chẳng phải thỉnh thoảng cậu vẫn nhìn thấy những ngôi nhà mà cậu biết rõ nó thuộc về cậu bất chấp ai là người sở hữu chúng?”

Không. Ilse không như thế. Cô không mảy may ý thức được Emily đang nói gì.

“Tớ biết ai là chủ nhân ngôi nhà đó đấy,” cô nói. “Chính là ông Scobie ở Kingsport. Ông ấy xây nó là nhà nghỉ mát. Tớ đã nghe dì Net kể về nó lần ở Wiltney vừa rồi. Nó được hoàn thành cách đây mấy tuần. Đó là một căn nhà nhỏ xinh xắn, nhưng nó quá nhỏ so với tớ. Tớ thích nhà rộng cơ. Tớ không muốn có cảm giác bí bách ngột ngạt… nhất là vào mùa hè.

“Một ngôi nhà rộng rãi chẳng mấy khi có tính cách,” Emily trầm ngâm nói. “Nhưng gần như ngôi nhà nhỏ nào cũng có. Ngôi nhà đó đậm đặc tính cách. Không một lối đi, một ngóc ngách nào lại không ôm ấp của một kho chuyện. và những ô cửa sổ hai cánh mới đáng yêu biết chừng nào; nhất là ô cửa sổ nhỏ cao tít nằm ngay dưới mái hiên nhô ra phía bên trên cửa chính. Nhất định nó đang mỉm cười với tớ đấy. Nhìn nó đang lấp lánh dưới ánh mặt trời như viên ngọc sáng gắn trên mái nhà thẫm màu kìa. Ngôi nhà nhỏ đang chào đón chúng mình. Bạn thân mến ơi, tôi yêu bạn… tôi hiểu bạn. Nói theo cách của Già Kelly đó, ‘Hẳn không bao giờ có giọt nước mắt nào rơi dưới mái nhà của bạn.’ Người sắp tới sống trong lòng bạn chắc hẳn phải là người tử tế, nếu không họ đã chẳng bao giờ nghĩ đến vậy. Nếu tôi sống trong lòng bạn, bạn yêu dấu ạ, tối nào tôi cũng sẽ đứng bên ô cửa sổ phía Tây kia, vẫy chào ai đó đang bước về nhà. Đây chính là ý nghĩa của ô cửa sổ đó đấy… một khung cửa dành cho tình yêu và sự chào đón.”

“Nói xong về ngôi nhà của cậu rồi thì tốt hơn hết chúng mình nên rảo chân lên thôi,” Ilse cảnh báo, “Sắp có bão rồi đấy. Nhìn mây kia kìa… và cả đàn mòng biển kia nữa. Mòng biển chẳng bao giờ bay xa đến thế này trừ phi sắp bão. Có thể mưa bất cứ lúc nào đấy. Tối nay chúng mình sẽ không ngủ trên đống cỏ khô đâu nhé, bạn Emily.”

Emily thơ thẩn bước qua ngôi nhà nhỏ, ánh mặt lưu luyến mãi cho tới tận khi nó khuất hẳn khỏi tầm nhìn. Chốn nhỏ này thực thân thương xiết bao, với những đầy hồi trơn bóng, những phiến ngói màu nâu ấm áp cùng bầu không khí mật thiết thường vẫn được khơi lên nhờ chia sẻ cùng nhau những trò đùa cợt và bí mật. Trên đường leo lên sườn đồi thoai thoải, cô ngoái lại nhìn nó đến cả chục lần, và chẳng kìm nổi tiếng thở dài khi cuối cùng ngôi nhà cũng chìm khuất dưới tầm nhìn.

“Tớ chẳng muốn bỏ nó lại chút nào. Tớ có một cảm giác kỳ cục khôn xiết, Ilse ạ, rằng nó đang vẫy gọi tớ; rằng tớ phải quay trở lại với nó.”

“Đừng có ngốc thế,” Ilse sốt ruột nói. “Đấy… giờ thì mưa đã rơi lác đác rồi đây này! Nếu cậu không mất bằng đấy thời gian nhìn nhìn ngó ngó cái túp lều bé tí dở hơi của cậu thì bây giờ chúng mình đã ở trên đường cái, và còn tìm được chỗ trọ đến nơi rồi ấy chứ. Ôi chao, lạnh quá đi mất!”

“Đêm nay sẽ đáng sợ lắm cho xem,” Emily khẽ nói. “Ôi, Ilse, tối nay cậu bé mất tích tội nghiệp kia ở đâu được chứ? Tớ chỉ ước gì mình có thể biết được liệu họ đã tìm thấy cậu ấy hay chưa.”

“Thôi đi!” Ilse phũ phàng nói. “Đừng có nói thêm bất kỳ lời nào về cậu ta nữa. Đáng sợ thật đấy… ghê rợn thật đấy… nhưng chúng mình làm gì được chứ?”

“Chẳng làm được gì hết. Chuyên đó mới kinh khủng. Cậu bé ấy vẫn đang mất tích, ấy vậy mà chúng ta vẫn tiếp tục công việc của mình, tiếp tục mời chào người ta mua báo, chẳng phải độc ác quá sao.”

Đến lúc này, họ đã ra đến đường cái. Bầu không khí thiếu thoải mái cứ vướng vất cho tới tận cuối buổi chiều. Thỉnh thoảng, mưa đổ xuống quất vào da thịt như kim châm; những lúc ngớt mưa, không khí vừa lạnh giá vừa ẩm ướt, cộng thôm trận gió không ngừng trằn trọc rền rĩ từng cơn dưới bầu trời sầm sì báo hiệu điềm gở. Cứ ghé vào bất kỳ ngôi nhà nào, hai cô gái lại nghe nhắc đến đứa bé mất tích, vì dẫu đồng ý hay từ chối đặt báo thì cũng chỉ có phụ nữ đón tiếp họ, hết thảy nam giới đã rời nhà tìm kiếm cậu hết rồi.

“Nhưng bây giờ thì chẳng ích lợi gì nữa rồi,” một người phụ nữ rầu rĩ nói, “chỉ mong sao họ tìm được thi thể bé bỏng của cậu nhóc ấy. Đã lâu đến thế này rồi thì thằng bé làm sao mà sống nổi chứ. Cứ nghĩ đến người mẹ tội nghiệp của nó, tôi lại chẳng tài nào ăn uống hay nấu nướng được. Nghe bảo cô ấy phát điên rồi… cũng chẳng lấy gì làm lạ.”

“Nghe nói bà cụ Margaret McIntyre khá bình tĩnh trước chuyện này,” người phụ nữ đứng tuổi hơn đang chần chăn bên cửa sổ nói, tay vẫn không ngừng chắp các ô vải lại với nhau. “Tôi cứ tưởng bà ấy cũng phát điên lên chứ. Bà ấy có vẻ yêu quý cậu bé Allan lắm.”

“Ôi, kể từ hồi cậu con trai Neil của bà ấy chết vì lạnh ở Klondyke, năm năm nay rồi đối với chuyện gì mà bà ấy chẳng tỏ ra bình thản. Dường như kể từ ngày đó, mọi cảm xúc của bà ấy cũng băng lạnh mất rồi… từ dạo đó đầu óc bà ấy thành ra hơi có vấn đề. Bà ấy chẳng mảy may lo lắng gì về chuyện này đâu. Bà ấy sẽ chỉ mỉm cười bảo chính bà ấy đã tét mông nhà vua đấy.”

Cả hai người phụ nữ cũng bật cười. Vốn rất giỏi đánh hơi các câu chuyện, Emily lập tức ngửi thấy mùi một câu chuyện, dẫu vậy cô không có cơ hội lần lữa săn đuổi nó cho đến cùng vì Ilse đã thúc giục lên đường.

“Chúng mình phải đi tiếp thôi, Emily, nếu không chúng mình sẽ chẳng đến được St.Clair trước khi trời tối đâu.”

Chẳng mấy chốc, hai cô gái đã nhận ra họ sẽ không đến nơi trước khi trời tối. Đến khi hoàng hôn phủ bóng, hai cô gái vẫn còn cách St.Clair ba dặm đường, và hết thảy mọi dấu hiệu đều chỉ ra tối nay sẽ không hề yên ả.

“Chắc chắn chúng mình không đến được St.Clair rồi,” Ilse nói. “Chẳng mấy mà trời sẽ mưa không ngớt, và chỉ mười lăm phút nữa là trời sẽ tối đen như cả triệu con mèo đen ấy. Tốt hơn hết, chúng mình hãy tạt vào ngôi nhà kia hỏi thử xem chúng mình có ở nhờ qua đêm được không. Nhìn nó có vẻ ấm cúng và đứng đắn… tuy nhiên chỗ đó chắc chắn rất hẻo lánh.”

Ngôi nhà Ilse vừa chỉ, một ngôi nhà cũ quét vôi trắng lợp mái xám, nằm ngay trước một ngọn đồi, giữa cánh đồng cỏ ba lá xanh mơn mởn. Một con đường ẩm ướt màu đỏ ngoằn ngoèo chạy lên trên đồi dẫn tới ngôi nhà. Một vạt vân sam rậm rịt chắn ngang tầm nhìn từ ngôi nhà ra bờ vịnh, và đằng sau khoảnh rừng đó, nhờ một hõm đất nhỏ xíu, một vạt biển xám hình tam giác tung bọt trắng xóa thấp thoáng lúc mờ lúc tỏ. Gần đó, thung lũng róc rách suối chảy ken đặc đám vân sam non được cơn mưa nhuộm màu xanh thăm thẳm. Những đám mây xám nặng như chì treo lơ lửng phía trên. Bất chợt, trong một thoáng diệu kỳ, vầng mặt trời xé toang màn mây ló ra nơi phương trời phía Tây. Ngay lập tức, đồi cỏ ba lá bừng sáng một màu xanh rạng rỡ đến khó ngờ. Vạt biển hình tam giác lung linh sắc tía phớt xanh. Trên nền đồi màu ngọc lục bảo, dưới bầu trời tối đen như mực đang vây phủ tứ bề, ngôi nhà cũ kỹ chẳng khác gì khối cẩm thạch trắng nhợt nhòa.

“Ôi,” Emily hào hển, “tớ chưa từng nhìn thấy bất kỳ thứ gì tuyệt vời đến thế!”

Cô quơ quàng như điên trong túi, chộp lấy cuốn sổ Jimmy. Dùng cột trụ của cánh cổng trên đồng làm bàn, Emily đưa lưỡi nhấm ướt cây bút chì đậm nét và hăm hở viết. Ilse ngồi xổm trên một hòn đá ở góc hàng rào, chờ đợi với vẻ kiên nhẫn đầy phô trương. Ilse biết rõ, một khi Emily lộ ra vẻ mặt đó thì sẽ chẳng tài nào lôi cô đi đâu được cho đến khi chính cô sẵn sàng lên đường. Khi Emily buông tiếng thở dài mãn nguyện, cất cuốn sổ Jimmy trở vào trong túi, vầng mặt trời đã khuất bóng và mưa lại bất đầu rơi.

“Tớ phải nắm bắt được nó, Ilse ạ.”

“Chẳng nhẽ cậu không thể đợi cho tới khi đến được chỗ khô ráo rồi viết lại theo trí nhớ à?” Ilse càu nhàu, vươn người rời khỏi tảng đá.

“Không được… đến lúc đó thì thể nào tớ cũng bỏ lỡ phần nào mùi vị mất. Giờ thì tớ nắm bắt nó một cách trọn vẹn… và bằng những từ ngữ chuẩn xác tuyệt đối. Đi nào, tớ sẽ chạy thi với cậu tới chỗ ngôi nhà. Ôi, hãy ngửi mùi gió kia mà xem… trên đời này chẳng có thứ gì giống như làn gió biển mặn mòi… một làn gió biển mặn mòi hoang dã. Xét cho cùng, trong cơn bão vẫn có thứ gì đó thú vị. Luôn luôn có một thứ gì đó, sâu thẳm trong tâm hồn tớ, dường như trỗi dậy, nhảy vọt ra ngoài hội ngộ cùng cơn bão, quay cuồng cùng cơn bão.”

“Thỉnh thoảng tớ cũng có cảm giác đó đấy, nhưng tối nay thì không,” Ilse nói. “Tớ mệt lắm rồi, lại còn đứa bé tội nghiệp kia…”

“Ôi!” Cảm giác hân hoan hớn hở của Emily tan biến theo tiếng kêu chất chứa nỗi khổ sở. “Ôi, Ilse, tớ nhất thời quên mất… sao tớ lại thế được cơ chứ! Cậu bé đó có thể ở chỗ nào được nhỉ?”

“Chết rồi,” Ilse cay nghiệt nói. “Thà nghĩ thế cho xong… còn hơn là nghĩ rằng đứa bé đó vẫn đang còn sống… tối nay đang ở ngoài đường. Đi nào, chúng mình phải kiếm chỗ nào đó để ghé vào thôi. Giờ bão nổi mạnh lên rồi đấy, chẳng còn mưa lâm râm nữa đâu.”

Một phụ nữ gầy trơ xương, quấn mình trong chiếc tạp dề trắng hồ bột dày cộp này đến độ có lẽ chẳng cần phải mặc thêm món đồ nào khác, ra mở cửa mời hai cô vào nhà.

“Ồ, có chứ, hẳn là các cháu có thể nghỉ lại đây được,” bà nói, không mấy niềm nở, “miễn là các cháu có thể bỏ qua cho những lộn xộn bất tiện. Mọi người ở đây đang gặp chuyện buồn.”

“Ôi… cháu rất tiếc,” Emily lắp bắp, “Chúng cháu sẽ không quấy rầy nữa đâu… để chúng cháu đi sang chỗ khác vậy.”

“Ồ, nếu cháu không thấy phiền vì chúng tôi thì chúng tôi cũng không lấy làm phiền vì các cháu đâu. Có một phòng trống đấy. Các cháu cứ tự nhiên nhé. Trời dông bão thế này thì các cháu làm sao đi ngoài đường được… đi đường nào thì cũng chẳng có ngôi nhà nào khác đâu. Các cháu nên nghỉ lại đây là hơn. Tôi sẽ chuẩn bị bữa ăn nhẹ cho cáu cháu. Tôi không sống ở đây, tôi chỉ là hàng xóm qua giúp họ một tay thôi. Tên tôi là Hollinger, bà Julia Hollinger. Phu nhân Bradshaw không phải kiểu người đểnh đoảng đâu, có lẽ các cháu đã nghe nhắc đến đứa con trai bé bỏng của cô ấy rồi.”

“Là chỗ này sao ạ? Người ta vẫn chưa tìm thấy cậu bé sao?”

“Chưa… sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được đâu. Tôi không đả động gì với cô ấy” – kèm theo cái liếc mắt ra sau lưng nhìn xuôi theo hành lang – “nhưng theo ý tôi cậu bé đã lọt vào vùng cát lún dưới vịnh rồi. Tôi thì tôi nghĩ thế đấy. Vào trong nhà rồi cởi đồ ra đi nào. Hẳn là các cháu sẽ không thấy phiền nếu ăn trong bếp chứ. Phòng lạnh đấy, chúng tôi vẫn chưa đặt lò sưởi trong phòng đâu. Nếu có đám tang thì sẽ phải sớm bố trí lò sưởi thôi. Nhưng nếu cậu bé lọt vào giữa vùng cát lún thì có lẽ sẽ chẳng có đám tang đâu. Không có xác thì tổ chức tang lễ làm sao được chứ, phải vậy không?”

Chuyện này đúng là kinh khủng quá. Emily và Ilse sẵn lòng đi kiếm chỗ khác… nhưng bão đã bùng nổ cơn cuồng nộ trọn vẹn, bóng tối dường như đang từ biển khơi cuồn cuộn trút xuống khắp đất trời biến dạng. Hai cô gái cởi lớp áo mũ đã ướt nhẹp rồi theo bà kia vào bếp, một căn phòng sạch sẽ lỗi thời có vẻ tương đối vui mắt dưới ánh đèn cùng ánh lập bập bùng.

“Đến ngồi cạnh bếp lửa đi. Tôi sẽ cời lửa cháy to hơn chút nữa. Đừng để ý đến cụ Bradshaw. Cụ à, đây là hai cô gác muốn ở lại qua đêm.”

Ông cụ chiếu đôi mắt nhỏ màu xanh mờ mịt, lạnh lùng nhìn họ, không nói một lời.

“Đừng để ý đến ông ấy” – bằng giọng thì thầm – “ông ấy đã hơn chín mươi tuổi rồi và vốn không phải người hay nói. Clara – bà Bradshaw – ở kia kìa” – hất đầu về phía cánh cửa thông với một căn phòng nhỏ có vẻ như là phòng ngủ sát bếp. “Em trai cô ấy đang ở cùng cô ấy – bác sĩ McIntyre từ Charlottetown. Hôm qua chúng tôi đã cho mời ông ấy. Ông ấy là người duy nhất có thể làm được gì đó với cô ấy. Suốt cả ngày cô ấy cứ đi đi lại lại mãi, nhưng chúng tôi đã thuyết phục được cô ấy nằm xuống nghỉ một lát. Chồng cô ấy đã ra ngoài tìm kiếm Allan bé bỏng rồi.”

“Giữa thế kỷ 19 thì một đứa trẻ làm sao mà mất tích được chứ,” cụ Bradshaw nói, một cách đột ngột và quả quyết đến kỳ lạ.

“Nào, nào, cụ ơi, xin cụ đừng có xúc động thái quá mà làm gì. Và giờ đã là thế kỷ 20 rồi. Ông ấy vẫn đang sống ở thời đó. Vài năm trước trí nhớ của ông ấy đã dừng lại rồi. Tên hai cháu là gì ấy nhỉ? Burnley hả? Starr hả? Từ Hồ Blair à? Ồ, thế thì hẳn hai cháu biết nhà Murray chứ nhỉ? Cháu gái à? Ối chà!”

Từ “ối chà” của bà Julia Hollinger thấm đẫm những ẩn ý tinh tế. Lúc nãy bà đã nhanh nhẹn đặt bát đĩa thức ăn lên tấm vải dầu sạch sẽ trải bàn. Giờ bà gạt chúng sang một bên, lôi ra một tấm vải trải bàn cất trong ngăn kéo tủ bếp, lấy từ một ngăn tủ khác mấy cái thìa nĩa bằng bạc, rồi lấy từ trên kệ một cặp lọ đựng muối và hạt tiêu rất đẹp.

“Đừng vì bọn cháu mà phiền hà gì ạ,” Emily nài nỉ.

“Ôi, có phiền hà gì đâu cơ chứ. Giá mọi chuyện ở đây mà êm đẹp cả thì cháu sẽ thấy Bradshaw mừng lắm vì gặp được cháu đấy. Cô ấy vốn rất tốt bụng, người phụ nữ tội nghiệp. Thật khó mà kiềm lòng được khi nhìn cô ấy lâm vào tình cảnh như thế này. Allan là đứa con độc nhất của cô ấy, các cháu thấy rồi đấy.”

“Ta đã bảo rồi, giữa thế kỷ 19 thì một đứa trẻ làm sao mà mất tích được chứ,” cụ Bradshaw nhắc lại, giận dữ chuyên sang nhấn mạnh vào từ khác.

“Không đâu… không đâu,” bằng giọng dịu dàng, “tất nhiên là không rồi, cụ ạ. Bé Allan rồi sẽ khỏe mạnh quay về thôi. Có cốc trà nóng cho cụ này. Cụ nên uống đi thì hơn. Thứ đó sẽ giúp ông ấy bình tĩnh chút ít. Nói thế thôi chứ không phải ông ấy hay om sòm nhặng xị lên đâu; chỉ có điều mọi người đều có chút lo lắng không yên; chỉ trừ bà cụ McIntyre. Từ trước tới nay, chẳng thứ gì làm bà ấy lo lắng không yên cả. Kể ra thế cũng toosrt, chỉ có điều tôi luôn có cảm giác dường như thế thì thật sắt đá quá. Tất nhiên, bà ấy đâu phải người hoàn hảo. Nào, ngồi xuống ăn một miếng đi, các cô gái. Các cháu nghe thấy tiếng mưa kìa chứ? Mọi người sẽ ướt sũng cho xem. Tối nay họ chẳng thể tìm kiếm lâu hơn được nữa… chẳng mấy chốc Will sẽ về nhà thôi. Tôi phần nào thấy sợ đấy… Clara rồi sẽ lại phát điên phát dại khi ông ấy không về cùng bé Allan cho xem. Tối qua chúng ta đến là khổ sở với cô ấy, thật tội nghiệp.”

“Giữa thế kỷ 19 thì một đứa trẻ làm sao mà mất tích được chứ,” cụ Bradshaw nói – và giận dữ quá đâm mắc nghẹn giữa lúc đang uống cốc nước nóng hổi.

“Không… giữa thế kỷ 20 cũng không,” bà Hollinger nói, vỗ vỗ vào lưng ông. “Cụ lên giường ngủ đi thôi, cụ ạ. Cụ đã mệt rồi.”

“Ta không mệt và lúc nào muốn ta sẽ lên giường, Julia Hollinger.”

“Ôi chao, được rồi, cụ ạ. Cụ đừng có cáu kỉnh mà làm gì. Có lẽ tôi nên mang một tách trà vào cho Clara. Có khi bây giờ cô ấy sẽ uống cũng nên. Từ tối thứ Ba đến giờ cô ấy đã ăn uống gì đâu. Thử hỏi cứ thế thì phụ nữ làm sao mà chịu nổi?”

Emily và Ilse cố gắng huy động hết cảm giác ngon miệng để ăn bữa tối dưới ánh mắt soi mói ngờ vực của cụ Bradshaw và giữa sự bủa vây của những âm thanh sầu não đang vọng ra từ căn phòng nhỏ bên trong.

“Tối nay lạnh giá ướt át… thằng bé ở đâu rồi… đứa con bé bỏng của tôi đâu rồi?” một giọng phụ nữ rền rĩ, chất chứa nỗi thống khổ khiến Emily đau đớn y như thể đó là cảm xúc xuất phát từ trong lòng cô.

“Người ta sẽ tìm thấy thằng bé sớm thôi, Clara,” bà Hollinger ai ủi bằng giọng sôi nổi không chút thật tâm. “Chỉ cần cô kiên nhẫn là được… tôi khuyên cô nên chợp mắt đi… chắc chắn họ sẽ sớm tìm thấy thằng bé thôi.”

“Họ sẽ chẳng bao giờ tìm tháya thằng bé đâu.” Giọng nói giờ gần như đã biến thành tiếng kêu gào. “Nó đã chết rồi… nó chết rồi… nó đã chết từ tận cái đêm thứ Ba lạnh buốt da buốt thịt ấy rồi. Ôi Chúa ơi, xin Người rủ lòng thương! Thằng bé còn bé bỏng xiết bao! Mà tôi thì cứ luôn miệng nhắc nhở nó đừng có mở miệng ra nói trừ phi có người nói chuyện với nó trước… nó sẽ chẳng bao giờ nói chuyện với tôi nữa. Trước giờ hễ nó lên giường đi ngủ là tôi đều không cho phép nó để nến sáng… và nó đã chết trong cảnh tối tăm, giữa cô đơn lạnh lẽo. Trước giờ tôi không cho phép nó nuôi chó… mà nó thì lại khát khao có một con chó đến vậy. Nhưng giờ nó chẳng khát khao gì cả… chỉ một nấm mồ và tấm vải liệm mà thôi.”

“Tớ không chịu nổi cảnh này,” Emily lầm bầm. “Tớ không thể, Ilse ạ. Tớ có cảm giác mình sắp kinh hãi đến phát điên lên rồi. Tớ thà ở ngoài giữa trời bão còn hơn.”

Bà Hollinger, dáng người dong dỏng, khuôn mặt toát lên vẻ cảm thông và nghiêm nghị, bước ra khỏi phòng ngủ và đóng cửa lại.

“Thật kinh khủng, phải không! Cô ấy sẽ cứ thế này cả tối cho xem. Các cháu đã muốn đi ngủ chưa? Trời vẫn còn sớm, nhưng hẳn hai cháu mệt rồi và có khi tốt hơn là nên ở chỗ nào mà các cháu không nghe được tiếng cô ấy, thật tội nghiệp. Cô ấy không chịu dùng trà… cô ấy sợ bác sĩ bỏ thuốc ngủ vào trong đó. Cô ấy không muốn ngủ chừng nào còn chưa tìm thấy thằng bé, dẫu sống hay chết cũng mặc lòng. Nếu thằng bé mà bị kẹt ở vùng cát lún rồi thì nhiên người ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nó.”

“Julia Hollinger, nhà chị đúng là đồ ngốc và là con gái của một kẻ ngốc, nhưng chắc chắn ngay cả chị cũng phải hiểu rõ một đứa trẻ không thể mất tích giữa thế kỷ 19 được,” cụ Bradshaw nói.

“Ôi chao, nếu không phải cụ mà là bất cứ kẻ nào khác gọi tôi là đồ ngốc, cụ ạ, tôi sẽ phát điên lên cho xem,” bà Hollinger nói, giọng nhuốm chút chanh chua. Bà thắp sáng một cây đèn rồi dẫn hai cô gái lên lầu. “Hy vọng hai cháu sẽ ngủ được. Ta khuyên hai cháu cứ quấn chăn vào đi, mặc dù trên giường có khăn trải giường đấy. Hôm nay chúng đã được đem phơi phóng hết rồi, cả chăn lẫn khăn trải giường. Ta nghĩ tốt hơn hết là đem phơi phóng hết đi phòng khi phải tổ chức đám tang. Ta còn nhớ người nhà Murray ở Trăng Non luôn chú trọng đến việc phơi phóng chăn nệm, vậy nên ta mới nhắc đến chuyện này. Nghe trận gió kia kìa. Có lẽ chúng ta sẽ nghe thấy sự tàn phá khủng khiếp mà cơn bão này gây nên. Ta sẽ chẳng lấy làm ngạc nhiên nếu tối nay mái nhà này bị thổi tốc đi mất. Họa vô đơn chí. Nếu giữa đêm mà nghe thấy tiếng ồn thì ta khuyên các cháu chớ nên lo lắng làm chi. Nếu cánh đàn ông mà mang thi thể về nhà thì rất có khả năng Clara sẽ hành xử như bị ma ám cho xem, thật tột nghiệp. Có lẽ tốt hơn hết các cháu cứ khóa cửa vào. Thỉnh thoảng bà cụ McIntyre vẫn hay đi lang thang khắp nhà đấy. Cụ ấy khá vô hại và nói chung vẫn tương đối tỉnh táo, nhưng dùng gì thì chuyện đó vẫn khiến dân tình phải giật cả mình.”

Hai cô gái thấy nhẹ cả lòng khi cánh cửa đóng lại sau lưng bà Hollinger. Bà là người tử tế, với tư cách hàng xóm làng giềng, những gì nên làm bà đều làm, nhưng bà không hẳn là một người bầu bạn vui vẻ. Hai cô gái nhận thấy mình đang ở trong một “căn phòng dành cho khách” bé tí hin ngay dưới mái hiên thoai thoải, gọn gàng không chê vào đâu được. Phần lớn không gian trong phòng đã bị chiếm dụng chom một cái giường lớn ấm cúng, nhìn cứ như được sinh ra để làm chỗ cho người ta nằm ngủ vậy, và tuyệt nhiên không có chút tác dụng trang trí gì cho căn phòng. Một cửa sổ nhỏ lắp bốn ô kính, được che bởi tấm rèm muslin trắng tinh, bao bọc hai cô gái tránh xa khỏi màn đêm lạnh giá bão dông đang giăng trên mặt biển.

“Eo ơi,” Ilse rung mình, chui ngay vào giường bằng vận tốc tối đa. Emily nối theo sau, có phần chậm hơn một chút, quên béng mất khoản khóa cửa. Vốn đã mệt rũ cả người, Ilse gần như đặt lưng xuống là ngủ ngay lập tức, nhưng Emily thì cứ trằn trọc mãi. Cô khổ sở nằm đó, căng tai ra nghe ngóng tiếng bước chân. Mưa quật vào cửa sổ, không phải từng giọt từng giọt mà trút thành cả dòng, gió gầm gào rú tít. Từ dưới đồi, cô nghe vọng lên tiếng những con sóng trắng xóa đang nghiến ngấu cắn xé dọc bờ biển tối đen thăm thẳm. Liệu có thể nào mới chỉ hai mươi tư giờ đồng hồ trôi qua sau đêm mùa hè huyền ảo trăng sáng vằng vặc trên đống cỏ khô giữa đồng dương xỉ? Chao ôi, ắt hẳn đó phải là cảnh tượng từ một thế giới khác.

Đứa trẻ mất tích tội nghiệp đó đang ở đâu? Trong một nhịp nghỉ giữa chừng của cơn bão, cô mơ hồ tưởng như mình đã nghe thấy tiếng thút thít yếu ớt giữa không trung tối đen cao vọi, như thể một linh hồn bé bỏng cô đơn nào đó mới vừa thoát khỏi thân xác, giờ đang cố gắng tìm đường quay trở lại với gia đình. Cô không cách nào trốn tránh được nỗi đau đang vò xé: những cánh cổng giấc mơ đã đóng sập lại trước mắt cô: cô không thể tách suy nghĩ rời khỏi cảm xúc của mình để mà mang lại kịch tính cho chúng. Trí não cô căng ra như sợi dây đàn. Cô đau đớn đẩy suy nghĩ của mình vào cơn bão ngoài kia để mà tìm kiếm, để mà cật lực chọc thủng tấm màn bí ẩn che phủ nơi đứa bé đang ở. Cậu bé ấy phải được tìm thấy… cô siết chặt hai bàn tay… cậu bé ấy phải như vậy. Người mẹ tội nghiệp!

“Ôi, lạy Chúa, xin hãy để cậu bé được tìm thấy, an toàn… xin hãy để cậu bé được tìm thấy, an toàn,” Emily cầu nguyện trong tuyệt vọng và cố chấp, hết lần này đến lần khác – càng lúc càng tuyệt vọng hơn, cố chấp hơn, vì dường như nó là một lời cầu nguyện có quá ít cơ hội được đáp ứng. Dẫu vậy, cô vẫn không ngừng lặp lại lời nguyện đó, hòng ngăn cản tâm trí mình khỏi nghĩ đến những hình dung khủng khiếp về đầm lầy, về cát lún và sông nước, cho tới tận khi, cuối cùng cô cũng mệt mỏi đến độ sự tra tấn tinh thần không còn đủ sức giữ cô thức chong chong được nữa, và cô chìm vào một giấc ngủ đầy bất an, trong khi cơn bão vẫn thét gào và đoàn tìm kiếm thất bại cuối cùng cũng từ bỏ cuộc truy lùng vô vọng.

Bình luận