Đã mười rưỡi và Emily thở dài nhận ra đã đến lúc đi ngủ. Khi từ bữa tiệc may vá của Alice Kennedy trở về lúc chín rưỡi, cô đã xin phép bà Ruth ngồi thêm nửa giờ để hoàn thành một bài tập đặc biệt. Bà Ruth chấp thuận với thái độ miễn cưỡng và hoài nghi, rồi đi ngủ một mình, kèm theo lời cảnh báo vặt rằng hãy cẩn thận để ý nến diêm. Emily cần mẫn học trong bốn mươi lắm phút và dành mười lăm phút viết thơ. Bài thơ hừng hực khao khát được hoàn thành, nhưng Emily vẫn kiên quyết đẩy cặp giấy tờ sang một bên.
Đến lúc đó, cô mới nhớ ra mình đã để cuốn sổ Jimmy trong cặp sách ở phòng ăn. Thế này thì không ổn rồi. Buổi sáng, bà Ruth sẽ xuống nhà trước cô và thể nào cũng sẽ khám xét cặp sách, tìm thấy cuốn sổ Jimmy và đọc nó cho xem. Trong cuốn sổ Jimmy có những thứ không nên để bà Ruth đọc được. Cô phải lên xuống dưới nhà mang nó lên mới được.
Cô hết sức khẽ khàng mở cửa và rón rén leo xuống cầu thang, thót tim trước mỗi tiếng bước chân cọt kẹt. Bà Ruth, đang ngủ trong phòng ngủ lớn cuối hành lang, chắc chắn sẽ nghe thấy những tiếng cọt kẹt này. Chúng đủ sức dựng cả người chết dậy ấy chứ. Tuy nhiên, chúng lại không đánh thức bà Ruth, và Emily tiến được tới phòng ăn, tìm thấy cặp sách, và đúng lúc định quay trở về phòng thì cô tình cờ liếc mắt về phía bệ lò sưởi. Ở đó, dựa vào cạnh đồng hồ, là một bức thư gửi cho cô có vẻ như đã được đưa đến vào chuyến thư tối; một bức thư mỏng đẹp đẽ ghi địa chỉ của một tờ tạp chí ở góc. Emily để cây nến lên trên bàn, xé mở phong bì, tìm thấy thông báo chấp thuận một bài thơ và tấm séc ba đô la. Những thư chấp thuận – đặc biệt thư chấp thuận kèm theo séc – vẫn là những sự kiện quá hiếm hoi đối với cô bé Emily của chúng ta đến mức luôn khiến cô bé hơi quá phấn khích. Cô bé quên luôn bà Ruth… cô bé quên luôn cái thực tế đã gần mười một giờ đêm rồi: cô bé thất thần đứng đó, đọc đi đọc lại bức thư ngắn ngủi của tòa soạn… ngắn ngủi, nhưng, chao ôi, ngọt ngào xiết bao! “Bài thơ hấp dẫn của cô”… “chúng tôi rất mong được đọc thêm nhiều tác phẩm của cô”… Ôi chao, đúng vậy, quả tình, họ nên được đọc thêm nhiều tác phẩm nữa.
Emily quay ngoắt người lại. Có phải có tiếng gõ nhẹ trên cửa không nhỉ? Không phải… ở cửa sổ. Ai vậy? Cái gì vậy? Ngay lúc đó, cô bé nhận thấy Perry đang đứng bên hiên, toét miệng cười với cô qua ô cửa sổ. Cô bé lập tức bước lại bên cửa sổ và vẫn đang chìm đắm trong niềm hân hoan vì tác phẩm được chấp thuận, không hề ngừng lại suy nghĩ, cô bé lướt tới bên chốt cửa và đẩy cửa sổ lên cao. Cô bé biết Perry đã ở đâu, và vẫn thèm muốn đến chết được biết cậu ấy xử lý mọi chuyện như thế nào. Cậu đã được mời đến ăn tối cùng tiến sĩ Hardy tại ngôi nhà đẹp đẽ trên phố Queen. Đây được xem như một vinh dự lớn lao mà chẳng mấy học sinh được nhận. Perry nhận được lời mời nhờ bài diễn thuyết xuất sắc tại cuộc thi hùng biện liên trường. Tiến sĩ Hardy đã nghe được tin này và quyết định rằng đây là một chàng trai có triển vọng.
Perry hãnh diện vô cùng vì lời mời này và khoe khoang hết lời về nó với Teddy và Emily – không phải với Ilse, vốn vẫn chưa chịu tha thứ cho cậu ấy vì cách cư xử không hề khéo léo trong buổi tối diễn ra cuộc thi hùng biện đó. Emily mừng cho cậu, nhưng vẫn cảnh báo Perry phải cẩn thận mọi đường đi nước bước khi ở nhà tiến sĩ Hardy. Cô bé không khỏi có đôi chút e ngại đối với cách ứng xử xã giao của Perry, nhưng cậu chàng lại chẳng cảm thấy gì sất. Cậu sẽ ổn cả thôi, cậu ngạo mạn tuyên bố. Perry ngồi vắt vẻo trên bệ cửa sổ còn Emily ngồi trên góc ghế sofa phía dưới, tự nhủ rằng có lẽ chỉ mất một phút thôi.
“Lúc đi qua tớ nhìn thấy có ánh sáng bên cửa sổ,” Perry nói. “vậy nên tớ nghĩ cứ thử ngó nghiêng bên cạnh xem liệu có phải là cậu không. Chỉ muốn kể cho cậu nghe mọi chuyện khi nó vẫn còn nóng hôi hổi. Phải nói, Emily ạ, cậu đã đúng… đ…ú…n…g! Tớ nên mỉm cười. Cho dù có các một trăm đô thì tớ cũng sẽ không trải qua buổi tối này một lần nữa.”
“Cậu đã xử lý mọi chuyện như thế nào?” Emily lo lắng hỏi. Theo một nghĩa nào đó, cô bé cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm cho cung cách ứng xử của Perry. Cung cách ứng xử của cậu đều là được rèn luyện từ Trăng Non cả.
Perry toét miệng cười.
“Chuyện não lòng lắm. Tớ đã bớt đi được vô khối tính tự phụ rồi đây này. Tớ đoán cậu sẽ thấy chuyện thế là tốt.”
“Có thể cậu vẫn còn để sót lại chút ít đấy,” Emily lạnh lùng nói.
Perry nhún vai.
“Được rồi, tớ sẽ kể hết mọi chuyện cho cậu, miễn là cậu không nói lại với Ilse hay Teddy. Tớ sẽ không để họ cười vào mũi tớ đâu. Tớ đến chỗ phố Queen đúng giờ… tớ vẫn nhớ như in tất cả mọi chuyện cậu dặn dò và giày ủng, cà vạt, móng tay, khăn tay và lúc tớ ở bên ngoài thì đều ổn thỏa cả. Đến lúc tớ tới ngôi nhà thì rắc rối bắt đầu xuất hiện. Ngôi nhà lớn và lộng lẫy đến độ tớ thấy kỳ kỳ… không phải sợ đâu… lúc đó tớ không thấy sợ… mà chỉ hơi giật mình như thể tớ chỉ chực nhảy phắt đi ấy… giống như một con mèo xa lạ khi cậu tìm cách vỗ về nó ấy. Tớ rung chuông; tất nhiên, nó bị kẹt và cứ thế kêu như điên ấy. Tớ có thể nghe thấy tiếng nó vang khắp hành lang, và tớ nghĩ, ‘Rồi họ sẽ cho là mình chẳng biết làm gì ra hồn ngoài việc cứ giữ chuông reo không ngừng cho tới tận khi có người đến cho xem,’ và thế nên tớ thấy bối rối quá. Cô hầu còn làm tớ bối rối hơn nữa. Tớ không biết liệu có nên bắt tay cô ấy hay không.”
“Ôi, Perry!”
“Ôi, tớ không biết thật mà. Trước đây đã bao giờ tớ có mặt ở ngôi nhà nào có một người hầu như thế đâu, ăn diện bảnh bao với mũ vải và tạp dề nhỏ nhắn cầu kỳ. Nhìn cô ấy, tớ cảm thấy mình thật rẻ rúng.”
“Cậu có bắt tay cô ấy không?”
“Không.”
Emily thở dài nhẹ nhõm.
“Cô ấy giữ cửa mở và tớ bước vào trong nhà. Lúc đó, tớ không biết phải làm gì nữa. Phỏng chừng tớ cứ đứng đó tới mọc rễ ra cho tới tận khi đích thân tiến sĩ Hardy đang đến – đã đến – băng qua hành lang. Ông ấy bắt tay tớ và chỉ cho tớ chỗ cất mũ và áo khoác rồi dẫn tớ vào phòng khách gặp vợ ông ấy. Sàn nhà trơn như băng ấy… và đúng lúc tớ đặt chân lên tấm thảm nhỏ cửa phòng khách nó trượt khỏi chân tớ và tớ ngã xuống trượt trên sàn nhà, chân đi trước đầu theo sau, dừng lại ngay cạnh bà Hardy. Tớ nằm ngửa, chú không úp sấp xuống, nếu không thì đầu đã u một cục rồi ấy chứ nhỉ?”
Emily không cười nổi.
“Ôi, Perry!”
“Tức điên lên được mất, Emily ạ, có phải lỗi của tớ đâu cơ chứ. Tất tật phép xã giao trên đời này cũng chẳng thể ngăn cản chuyện đó xảy ra được. Tất nhiên, tớ thấy mình chẳng khác gì tên ngốc, nhưng tớ vẫn đứng dậy và cười phá lên. Ngoài tớ ra chẳng ai cười hết. Tất cả bọn họ đều tỏ vẻ nhã nhặn lịch sự. Bà Hardy dịu dàng như nước vậy – hy vọng tớ không tự gây thương tích cho bản thân, còn tiến sĩ Hardy nói ông ấy không chỉ một lần trượt ngã đúng theo cách đó từ sau hồi họ bỏ loại thảm to bám dính sàn để dùng thảm nhỏ và sàn gỗ cứng. Tớ sợ không dám di chuyển, vậy nên tớ ngồi xuống cái ghế gần nhất, mà trên đó lại có sẵn một con chó rồi… con Peke do bà Hardy nuôi. Ôi, tớ không làm nó chết đâu… giữa tớ với nó thì chính tớ mới là kẻ sợ mất mật. Đến lúc tớ chuyển được sang một cái ghế khác tị nạn thì bồ hôi… mồ hôi mồ kê vã ròng ròng trên mặt. Đúng lúc đó có thêm mấy người nữa đến, vậy nên đại loại đã giúp tớ thoát khỏi cơn nguy khốn, và tớ có thời gian chỉnh lại tác phong của mình. Tớ thấy tay chân thừa thãi quá. Còn ủng của tớ thì vừa quá khổ vừa tồi tàn. Rồi tớ phát hiện ra mình đút hai tay vào túi quần và đang huýt sáo.”
Emily dợm giọng, “Ôi, Perry,” nhưng rồi dừng lại, nuốt lời định nói vào trong lòng. Còn biết nói bất kỳ điều gì được nữa?
“Tớ biết hành động đó không thích hợp chút nào, vậy nên tớ ngừng lại và rút tay ra khỏi túi… rồi bắt đầu gặm móng tay. Cuối cùng, tớ nhét tay xuống dưới mông và ngồi đè lên trên. Tớ quặp chân dưới ghế, và cứ ngồi như thế cho tới tận khi bọn tớ đi ăn tối… vẫn ngồi như thế khi một bà béo lạch bạch bước vào và tất cả mọi người đều đứng dậy. Tớ không đứng… chẳng thấy có lý do gì để làm thế cả… có cả đống ghế ra đấy còn gì. Nhưng sau đó tớ chợt hiểu ra rằng đó là một trò xã giao và tớ cũng phải đứng dậy. Tớ có nên đứng dậy không?”
“Tất nhiên rồi,” Emily nói, vẻ mệt mỏi. “Cậu không nhớ Ilse thường rầy la cậu như thế nào về chính vấn đề đó à?”
“Ôi, tớ quên mất rồi… Ilse lúc nào mà chẳng lải nhải hết chuyện này chuyện kia chứ. Nhưng có sống qua thì mới biết. Tớ sẽ không quên lần nữa đâu, cậu có thể cá như vậy đấy. Ở đó có ba bốn người con trai khác – giáo viên tiếng Pháp mới và hai người chủ ngân hàng – cùng với mấy người phụ nữ. Tớ tới chỗ bàn ăn tối mà không ngã lăn ra sàn và ngồi vào chiếc ghế đặt giữa tiểu thư Hardy và bà già tớ mới nhắc đến đấy. Tớ liếc nhìn quanh bàn – và rồi, Emily ạ, cuối cùng tớ cũng biết sợ là gì rồi. Thực lòng mà nói trước nay tớ chưa bao giờ biết sợ. Cảm giác đó thật kinh khủng. Tớ đang sợ hãi một trăm phần trăm. Hồi xưa tớ cứ tưởng cung cách của mọi người ở Trăng Non nhà cậu mỗi khi có khách đã đáng sợ lắm rồi, nhưng tớ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ thứ gì giống như cái bàn đó – hết thảy đều chói lóa, lấp lánh, và đủ thìa nĩa và mọi thứ để chỗ của ai cũng cũng có phần. Có một mẩu bánh mì được bọc trong khăn ăn của tớ và nó rơi ra rồi lăn trên sàn nhà. Tớ có thể cảm thấy cả cổ lẫn mặt mình đều đỏ bừng lên. Chắc hẳn cậu sẽ gọi thế là xấu hổ đến đỏ mặt. Trước nay… trước đây… tớ chưa bao giờ xấu hổ đến đỏ mặt cả – theo tớ nhớ là thế. Tớ không biết liệu tớ có nên đứng dậy đi ra nhặt nó lên hay không. Rồi cô hầu bàn mang đến cho tớ một mẩu bánh khác. Tớ dùng sai thìa để ăn xúp, nhưng tớ đã cố gắng nhớ xem bác Laura đã nói gì về cách ăn xúp đúng chuẩn. Tớ tiếp tục yên ổn ăn thêm một vài thìa đầy nữa… rồi tớ bị thu hút bởi một chuyện mà ai đó đang nói… và rồi nuốt chửng.”
“Cậu có nghiêng đĩa để vét nốt thìa xúp cuối cùng không đấy?” Emily tuyệt vọng hỏi.
“Không, tớ đang định làm thế thì sực nhớ ra hành động đó không thích hợp. Tớ cũng ghét bỏ phí nó lắm. Xúp ngon kinh lên được mà tớ lại đói meo. Bà góa già đứng đắn ngồi cạnh tớ đã làm thế đấy. Tớ xử lý khá ổn món thịt và rau, ngoại trừ một lần. Tớ xiên một nĩa đầy ụ thịt và khoai tây và đúng lúc nhấc nĩa lên thì tớ thấy bà Hardy đang nhìn, và rồi tớ nhớ ra mình không nên xiên nhiều thức ăn như vậy… vậy là tớ giật nảy mình… và nó rơi hết vào trong khăn ăn của tớ. Tớ không biết nếu gạt nó lên bỏ trở lại vào đĩa của tớ thì có đúng phép xã giao không, vậy nên tớ cứ để mặc nó ở đó. Món bánh pudding rất ổn… chỉ có điều tớ dùng thìa để ăn – cái thìa xúp của tớ ấy – trong khi tất cả những người khác thì ăn bằng nĩa. Nhưng ăn bằng cách này hay cách khác thì nó vẫn ngon y như vậy thôi, và tớ dần dần không còn lo lắng nữa. Ở Trăng Non, nhà cậu lúc nào cũng dùng thìa để ăn bánh pudding còn gì.”
“Sao cậu không quan sát xem người khác làm gì rồi bắt chước theo họ?”
“Quá hồi hộp. Nhưng để tớ nói cậu nghe nhé… xem hết mọi loại, đồ ăn không ngon hơn chút xíu nào so với ở Trăng Non của cậu đâu… không hề, ngon bằng cũng không luôn, không đời nào. Tài nấu nướng của bác Elizabeth sẽ vĩnh viễn ăn đứt nhà Hardy – và họ không để cậu ăn bất kỳ món gì quá nhiều! Sau bữa tối, mọi người quay trở lại phòng sinh hoạt – họ gọi nó là phòng khách… và mọi chuyện không đến nỗi quá tệ hại. Tớ chẳng làm gì không hợp quy cách hết, ngoại trừ việc ngã nhào lên một cái giá sách.”
“Perry!”
“Ôi chao, nó vốn đã lung lay rồi. Trong lúc nói chuyện với ông Hardy, tớ dựa người vào nó, và có lẽ tớ dựa hơi mạnh, vì cái món đồ bằng thép đó đã đổ nhào. Nhưng, dường như việc dựng nó đứng lại ngay ngắn và đem sách trả lại chỗ cũ đã giúp tớ buông lỏng tâm tư, và sau đó tớ không đến nỗi im thin thít như ngậm hột thị nữa. Mọi chuyện về sau không đến mức tệ quá… chỉ có điều cứ thỉnh thoảng chưa kịp kiềm chế gì tớ đã lại buột miệng bật ra một từ lóng. Nói cho cậu biết nhé, lúc đó tớ chỉ ước gì đã nghe theo lời khuyên của cậu về chuyện nói tiếng lóng. Một lần, bà béo kia đồng ý với một điều tớ vừa nói… bà ấy thấy không biết liệu bà ấy quả thật có ba cái cằm hay không… và tớ phấn khích quá độ khi phát hiện ra bà ấy ủng hộ mình, đến nỗi chưa kịp nghĩ gì thì tớ đã hứng lên mà nói với bà ấy, ‘Chuẩn không cần chỉnh luôn.’ Với cả tớ đoán là tớ hơi ba hoa. Tớ có ba hoa quá không, Emily?”
Trước đây câu hỏi này chưa bao giờ nảy sinh trong tâm trí Perry.
“Có đấy,” Emily thẳng thắn nói, “và đó là lối cư xử rất không đúng lề thói.”
“Chà, sau khi hành động như thế thì tớ cảm thấy hơi khó chịu. Hẳn là tớ còn vô khối thứ cần phải học hỏi, Emily ạ. Tớ sẽ mua một cuốn sách dạy xã giao và chân thành học từ đầu đến cuối. Trong đời tớ sẽ không còn những buổi tối như thế này nữa. Nhưng đến lúc cuối thì mọi chuyện khá khẩm hơn nhiêu. Ông Jim Hardy dẫn tớ vào phòng riêng rồi chúng tớ chơi cờ với nhau và tớ oánh cho ông ấy thua tơi tả. Tớ nói cho cậu biết nhé, cung cách chơi cờ của tớ không có gì không phù hợp lề thói hết. Và bà Hardy nói bài hùng biện của tớ ở cuộc thi hùng biện là bài nói xuất sắc nhất bà ấy từng được nghe từ một cậu con trai tầm tuổi tớ, và bà ấy muốn biết tớ theo đuổi mục tiêu nào. Bà ấy là một phu nhân nhỏ nhắn vĩ đại và hiểu biết sâu sắc về các phép giao tiếp xã hội. Đó chính là một lý do khiến tớ muốn sau này đến thời điểm phù hợp sẽ cưới cậu, Emily ạ… tớ phải có một người vợ có đầu óc.”
“Đừng có nói nhăng nói cuội, Perry,” Emily nói giọng kiêu ngạo.
“Nhăng cuội cái gì chứ,” Perry bướng bỉnh nói. “Và đã đến lúc chúng mình giải quyết một chuyện rồi. Cậu không cần phải tỏ ra kiêu căng ngạo mạn với tớ vì cậu là một người nhà Murray. Một ngày nào đó tớ sẽ là một vị hôn phu đáng giá… ngay cả với một người nhà Murray đi nữa. Thôi nào, tớ muốn nghe cậu trả lời đến chết đi được rồi đây.”
Emily khinh khỉnh đứng dậy. Giống như hết thảy các cô gái khác, cô bé cũng từng ôm giấc mộng về một tình yêu lãng mạn, nhưng Perry Miller không dự phần trong những giấc mộng đó.
“Tớ không phải một người nhà Murray… và tớ lên lầu đây. Chúc cậu ngủ ngon.”
“Đợi nửa giây thôi,” Perry nói, toét miệng cười. “Khi chuông đồng hồ điểm mười một giờ, tớ sẽ hôn cậu.”
Nhất thời, Emily không tin nổi Perry lại nhắc đến dù chỉ là thoáng qua một hành động kiểu đó… mà thế mới thấy cô ngu ngốc làm sao, vì Perry vốn quen thói luôn luôn nói gì làm nấy. Nhưng, tính đến thời điểm đó, cậu chưa bao giờ tỏ ra là con người ủy mị. Cô phớt lờ lời nhắn nhủ của cậu, nhưng lại nấn ná thêm một lúc để hỏi một câu nữa về bữa tối ở nhà Hardy. Perry không trả lời câu hỏi: đúng lúc cô lên tiếng thì đồng hồ đã bắt đầu điểm mười một giờ… cậu vung chân qua bậu cửa sổ và bước vào trong phòng. Emily nhận ra quá muộn rằng cậu thật sự định làm y như đã nói. Chỉ đủ thời gian thụp đầu xuống và nụ hôn mạnh mẽ nồng nhiệt của Perry – các nụ hôn của Perry chẳng mang chút tinh tế nào hết – rơi xuống tai thay vì đậu vào má cô bé.
Đúng lúc Perry hôn cô và trước khi lời phản đối đầy phẫn nộ của cô bé kịp bật ra trên đầu môi, hai chuyện đồng loạt xảy ra. Một cơn gió từ ngoài hiên quét vào phòng thổi tắt ngọn nến nhỏ và cánh cửa phòng ăn bật mở, rồi bà Ruth xuất hiện bên ngưỡng cửa, quấn người trong chiếc váy ngủ bằng vải flannel màu hồng, cầm theo một cây nến khác, ánh sáng của nó hất ngược lên trên, khiến khuôn mặt nghiêm nghị được bao giữa vầng hào quang là những cái lô cuốn tóc toát lên một vẻ thật đáng sợ.
Đây chính là một trong những trường hợp khiến một nhà viết tiểu sử tận tâm nảy sinh cảm nghĩ, theo như lối nói sáng suốt của người xưa, ngòi bút không đủ sức đánh giá đúng hoàn cảnh.
Emily và Perry đứng im như hóa đá. Và, trong một thoáng, chính bà Ruth cũng vậy. Bà đã chắc mẩm sẽ tìm thấy Emily đang viết lách ở đây, y như cô bé đã làm vào một buổi tối hồi tháng trước, khi Emily nảy sinh cảm hứng đúng vào giờ đi ngủ nên đã lén xuống phòng ăn ấm áp để chép lại vào cuốn sổ Jimmy. Nhưng còn cái này! Tôi phải thừa nhận rằng nó quả có vẻ tệ thật. Thật lòng mà nói, tôi cho là chúng ta khó có thể đổ lỗi cho bà Ruth vì sự phẫn nộ chính đáng của bà.
Bà Ruth nhìn cặp đôi thiếu may mắn này.
“Cậu đang làm gì ở dây?” bà hỏi Perry.
Thị trấn Stovepipe mắc phải sai lầm.
“Ồ, đang tìm một món ăn tròn trịa ạ,” Perry đáp lại một cách tự nhiên, đôi mắt đột nhiên sáng rỡ với nét láu cá và sự tinh quái vô thiên vô pháp.
Sự “láo xược” của Perry – bà Ruth gọi nó như vậy đấy, và, thật lòng mà nói, tôi nghĩ cậu quả là xấc láo thật – lẽ tự nhiên đã khiến tình hình càng thêm tồi tệ. Bà Ruth quay sang phía Emily.
“Có lẽ cháu có thể giải thích tại sao cháu lại ở đây, vào giờ này, hôn cậu chàng này trong bóng tối?”
Câu hỏi thô lỗ sống sượng ấy khiến Emily lùi lại như thể vừa bị bà Ruth đánh một cú. Cô bé đã quên mất nếu chỉ dựa vào sự kiện bày ra trước mắt thì chẳng dễ gì oán trách bà Ruth, vậy nên cô để mặc cho một linh hồn ngang ngạnh chui vào ám lấy cô. Cô bé ngạo nghễ ngẩng cao đầu.
“Cháu không có gì để giải thích trước một câu hỏi như thế, bác Ruth ạ.”
“Ta không nghĩ là cháu sẽ có cách giải thích nào.”
Bà Ruth bật lên một tiếng cười lộ vẻ khó chịu rõ ràng, phảng phất một âm thanh nghịch tai hàm chứa sự đắc thắng. Người ta hẳn có thể nghĩ rằng, ẩn sâu dưới cơn giận dữ của bà, một điều gì đó đã khiến bà Ruth hài lòng. Nó chính là sự hài lòng khi chứng minh được một ý kiến mà chúng ta vẫn luôn luôn ấp ủ trong lòng về bất kỳ ai. “Chà, có lẽ cháu sẽ rộng lượng trả lời một vài câu hỏi. Làm sao anh chàng này lại đến được đây?”
“Cửa sổ ạ,” Perry nói ngắn gọn, nhận thấy Emily không có ý định trả lời.
“Tôi không hỏi cậu, thưa cậu. Đi đi,” bà Ruth nói, chỉ về phía cửa sổ với vẻ rất kịch.
“Cháu sẽ không nhấc chân bước ra khỏi căn phòng này trừ phi cháu thấy rõ bà định làm gì Emily,” Perry bướng bỉnh nói.
“Tôi,” Ruth nói, với vẻ thờ ơ đáng sợ, “sẽ không làm gì Emily hết.”
“Bà Dutton, bà hãy cư xử theo đúng tinh thần thượng võ đi ạ,” Perry ngon ngọt khẩn cầu. “Toàn bộ chuyện này là lỗi của cháu… thực sự như vậy đấy ạ! Emily không đáng bị khiển trách. Bà thấy đấy, chuyện như thế này ạ…”
Nhưng Perry đã quá muộn.
“Ta đã yêu cầu cháu gái của ta giải thích nhưng nó từ chối. Ta không muốn nghe cậu.”
“Nhưng…” Perry vẫn kiên trì.
“Cậu đi đi thì hơn, Perry,” Emily nói, khuôn mặt vẫn tản mát những dấu vết giận dữ. Cô nói khẽ khàng, nhưng ngay cả những người đậm chất Murray nhất trong số những người nhà Murray cũng không thể diễn đạt một yêu cầu kiên quyết hơn. Trong yêu cầu ấy có một sắc thái đặc biệt nào đó khiến Perry không dám phản đối. Cậu ngoan ngoãn lồm cồm bò ra ngoài cửa sổ lẫn vào trong màn đêm. Bà Ruth tiến lên phía trước và đóng chặt cửa lại. Rồi, triệt để phớt lờ Emily, bà oai vệ hướng thân hình bé nhỏ bọc trong chiếc váy flannel hồng đi lên trên tầng.
Tối đó Emily không ngủ ngon… và tôi phải thừa nhận cô không xứng đáng được một giấc ngủ say. Sau khi cơn giận dữ bột phát của cô đã tiêu tan, nỗi xấu hổ như một ngọn roi quất vào tâm hồn cô. Emily nhận ra quả là vô cùng ngu ngốc thì mới từ chối giải thích với bà Ruth. Khi một tình huống kiểu thế phát sinh dưới chính mái nhà của bà, bà có quyền được nghe giải thích, không cần biết cách bà đòi hỏi nó có đáng ghét và khó chịu đến mức nào. Tất nhiên, bà sẽ không tin lấy một lời; nhưng Emily, nếu đã giải thích, sẽ không làm lối suy diễn sai lầm của bà phức tạp thêm.
Emily tuyệt đối tin chắc mình sẽ bị tống cổ về Trăng Non trong nỗi nhục nhã. Bà Ruth sẽ không chút lưu tình mà từ chối giữ một đứa con gái như thế ở lại nhà mình lâu hơn nữa… bà Elizabeth sẽ tán thành ý kiến của bà… bà Laura sẽ tan vỡ trái tim. Thậm chí, lòng trung thành của ông Jimmy liệu có còn duy trì được không? Viễn cảnh cay đắng xiết bao. Cũng chẳng có gì lạ khi Emily phải trằn trọc cả đêm. Cô bé khổ sở đến nỗi mỗi nhịp tim đập dường như cũng đều khiến cô đau đớn. Và, tôi phải nói lại lần nữa, một cách rõ ràng tột bực, cô bé xứng đáng phải nhận điều đó. Tôi không có bất kỳ lời cảm thông hay biện hộ nào dành cho cô.