Vanessa vẫn cảm thấy buồn bã. Đó không phải là tâm trạng cô cho phép mình lạm dụng thường xuyên. Hầu như lúc nào cũng có việc gì đó để làm, người nào đó để trò chuyện, điều gì đó cần ngẫm nghĩ, thứ gì đó để đọc hòng cải thiện tâm trạng của cô. Và hầu như lúc nào cũng có chuyện gì đó để cho cô ngạc nhiên, để vui thích, để bật cười.
Tiếng cười tốt cho tâm hồn hơn hẳn sự ủ rũ.
Nhưng có đôi lúc nỗi phiền muộn sừng sững như một bức tường đá. Thường là do có nhiều hơn một nguyên nhân và gần như không cách nào tránh được.
Tuần trăng mật của cô đã đi đến hồi kết. Và mặc dù niềm hạnh phúc không mong đợi đã lấp đầy những ngày và đêm của cô ở căn nhà bên hồ nước chắc chắn có thể theo cô về ngôi nhà chính và tới London ngày mai, cô không thể bắt mình dứt bỏ cái ý niệm là giờ đây tất cả đã thay đổi, rằng cô và Elliott sẽ không bao giờ gần gũi được như ba ngày qua nữa.
Nếu mọi chuyện chỉ có thế, dĩ nhiên, thì cô sẽ dứt khoát rũ khỏi bất cứ tâm trạng ảm đạm nào đang đe dọa. Liệu cuộc hôn nhân của cô sẽ đi về đâu hoàn toàn phụ thuộc vào cô. Nếu cô cho rằng có những chuyện sẽ thay đổi theo chiều hướng tệ hơn, thì chắc chắn là chúng sẽ như thế.
Nhưng Elliott đã đi vắng cả buổi chiều để coi sóc một vài công việc của điền trang. Chuyện ấy hoàn toàn dễ hiểu. Cô không mong là anh sẽ đi dạo và chèo thuyền và hái hoa thủy tiên với cô vào mọi buổi chiều trong suốt quãng đời còn lại của họ. Nhưng chiều hôm nay là một thời điểm tồi tệ đối với cô để bị bỏ lại một mình.
Crispin Dew đã lấy một cô gái bản xứ ở Tây Ban Nha.
Meg hẳn là vô cùng suy sụp, nhưng không có một chút gì Vanessa có thể làm được để giúp cô. Nỗi đau của một người yêu thương mình đôi khi còn nặng nề hơn nỗi đau của bản thân vì nó còn để lại một cảm giác bất lực. Cô biết điều đó từ kinh nghiệm cay đắng của mình.
Và tất nhiên cái ý nghĩ ấy, ý nghĩ về Hedley, đã khiến cô chạy lên phòng ngủ và lục lọi chiếc rương lớn của mình, được mang từ Warren Hall sang nhưng vẫn chưa dỡ ra vì nó sẽ được mang đi London ngày mai. Ngay chỗ cô đã tự tay đặt vào sau khi bọc lại cẩn thận, cô tìm thấy món đồ mà cô suýt chút nữa đã định bỏ lại. Chỉ tới phút cuối cùng cô mới nhét nó xuống góc rương bên trái.
Cô ngồi xuống một chiếc ghế xô pha đôi và giở lớp vải nhung bảo vệ món đồ quý khỏi bị hư hại. Và cô nhìn xuống bức tiểu họa đóng khung của Hedley mà Lady Dew đã trao cho cô sau khi anh mất.
Nó được vẽ hồi anh hai mươi tuổi, hai năm trước khi Vanessa lấy anh, và chỉ vừa trước khi việc anh ốm nặng trở nên không thể che giấu được nữa.
Mặc dù vậy những triệu chứng là rất rõ ràng.
Cô lướt một ngón tay quanh khung tranh hình ô van.
Đôi mắt anh mở to, gương mặt hao gầy. Nó cũng sẽ xanh xao nữa nếu người họa sĩ không tô thêm màu sắc cho đôi má của anh.
Nhưng dù vậy anh vẫn đẹp trai, cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng. Anh có một vẻ đẹp thanh nhã. Anh chưa bao giờ khỏe mạnh. Anh chưa bao giờ tham gia những trò chơi dữ dội của đám trẻ con hàng xóm. Nhưng kì lạ thay anh chưa từng bị chúng chế giễu hay bắt nạt. Anh được phần lớn mọi người yêu quý.
Cô đã yêu anh.
Cô sẽ chết cùng một nơi với anh nếu có thể được.
Đôi mắt to, sáng ngời ấy giờ đây đang nhìn lại cô từ trong tranh. Tràn đầy niềm tin và hi vọng.
Hi vọng. Anh đã không từ bỏ nó cho đến giây phút cuối, và khi cuối cùng anh đã buông tay, cũng là với sự khoan dung và lòng tự trọng.
“Hedley,” cô thì thầm.
Cô chạm một ngón tay vào môi anh.
Và cô nhận ra một điều. Ngoại trừ một khoảnh khắc thoáng qua trong đêm tân hôn, cô đã không hề nghĩ đến anh trong suốt ba ngày bên hồ nước.
Dĩ nhiên là không rồi. Sẽ thật quá đáng nếu cô làm thế. Cô đã ở đó với người chồng mới của mình, người cô mang nợ lòng trung thành trọn vẹn.
Nhưng dù là thế…
Cho tới mãi gần đây dường như vẫn thật khó tưởng tượng là có ngày nào trôi qua mà cô lại không nghĩ tới anh ít nhất một trăm lần.
Vậy mà giờ đây đã ba ngày trôi qua.
Ba ngày cô sống trong niềm hạnh phúc với một người đàn ông thậm chí chẳng yêu cô. Mà cô cũng không yêu người đó.
Dù sao đi nữa cũng không bằng tình yêu của cô dành cho Hedley. Sẽ không bao giờ cô yêu được người đàn ông nào khác bằng người chồng đầu tiên của mình.
Nhưng với Hedley cô chưa bao giờ biết tới loại hạnh phúc ân ái mà cô vừa trải qua cùng Elliott. Thời điểm họ kết hôn thì bệnh tình của anh đã khiến cho anh gần như bất lực. Nó đã là nỗi tuyệt vọng khủng khiếp của anh, dù cho cô đã học nhiều cách để xoa dịu và thỏa mãn anh.
Và giờ cô đã tìm thấy sự thỏa mãn xác thịt với người đàn ông khác.
Cô đã không nghĩ về Hedley trong cả ba ngày qua – không, đến giờ là bốn ngày.
Đến cuối cùng cô có quên anh hoàn toàn không?
Cô có coi như anh chưa từng tồn tại không?
Cô cảm thấy từ trong sâu thẳm một nỗi đau buồn trào lên cùng sự day dứt nhói buốt của tội lỗi, đó là tất cả những gì tồi tệ nhất cho cái sự thật nghe khá là nghịch lý. Sao cô lại cảm thấy có lỗi vì đã bỏ lại đằng sau những hồi ức về người chồng đầu tiên của mình khi cô đi bước nữa? Sao cô lại cảm thấy như thể cô đang ăn ở hai lòng với một người đã khuất? Sao cô lại cảm thấy như là mình đang làm tổn thương anh?
Cô cảm thấy tất cả những điều đó.
Em phải tiếp tục cuộc sống của mình, Nessie, anh đã nói với cô trong suốt những ngày cuối cùng của đời mình trong lúc cô nắm tay anh và lau khuôn mặt hầm hập sốt của anh bằng một chiếc khăn ướt. Em phải yêu và phải hạnh phúc trở lại. Em phải kết hôn và phải sinh những đứa con. Nghe không. Hứa với anh đi?
Cô đã gọi anh là đồ ngốc nghếch dại dột và kiên quyết từ chối đưa ra bất kì lời hứa nào.
Ôi, xin em, Nessie, anh không phải là ngỗng cái, anh đã nói. Một con ngỗng đực, nếu có thể, nhưng không phải ngỗng cái. (Ở đây Hedley chơi chữ: goose vừa là ngỗng cái vừa có nghĩa là ngốc nghếch)
Cả hai cùng phá lên cười.
Hãy giữ nụ cười dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất, anh đã nói. Hứa với anh là em sẽ luôn tươi cười.
Luôn luôn khi có chuyện gì vui vẻ, cô đã hứa như vậy và nắm tay anh áp vào môi mình trong khi anh chìm vào trạng thái lơ mơ kiệt sức.
Cô đã cười thêm vài lần nữa trong mấy ngày tiếp theo nhưng sau đó một thời gian dài cô không cười được.
“Hedley,” lúc này cô lại thì thầm và nhận ra mình không thể nhìn rõ chân dung của anh được nữa. Cô chớp chớp mắt gạt những giọt lệ. “Tha thứ cho em.”
Vì đang làm điều mà anh khẩn cầu cô làm – vì đã trở lại cuộc sống và đang hạnh phúc. Vì đã kết hôn lần nữa. Vì đã cười trở lại.
Và vì đã quên anh trong gần bốn ngày vừa qua.
Cô nghĩ đến cách làm tình mãnh liệt của Elliott và khép lòng bàn tay lại trên bức tranh. Ở một nơi nào đó cô đã băng qua ranh giới giữa suy sụp và một điều gì đó đau đớn hơn, điều gì đó đã siết chặt lồng ngực cô và làm cô ngạt thở.
Nếu Hedley chỉ cần một lần có thể…
Cô nhắm nghiền mắt và người run lên từng hồi.
“Hedley,” cô nói một lần nữa.
Cô hít mũi khi những giọt nước mắt chảy xuống, cố lau khô chúng bằng mu bàn tay, và rồi sờ soạng xung quanh tìm khăn mùi xoa. Cô chẳng tìm được cái nào và đang quá trì trệ để đứng lên đi tìm.
Cô đầu hàng nỗi tuyệt vọng tủi thân khủng khiếp.
Cuối cùng cô lại hít vào sụt sịt, đưa tay cọ mũi, và quyết định phải đứng lên, tìm một cái khăn tay, cho cái mũi của mình sự giải thoát thích đáng, và rồi rửa mặt trong nước lạnh để tẩy sạch những dấu hiệu chứng tỏ mình vừa khóc lóc.
Elliott mà nhìn thấy chúng thì sẽ đáng sợ đến mức nào! Không biết anh ấy sẽ nghĩ gì!
Nhưng khi cô vừa đặt bức hình xuống cái nệm bên cạnh thì một chiếc khăn tay lớn xuất hiện trên lưng ghế, trong một bàn tay rắn chắc.
Bàn tay của Elliott.
Hẳn anh đã đi qua cánh cửa ngăn phòng thay đồ của anh và phòng thay đồ của cô – cánh cửa ở sau lưng cô.
Trong giây phút cô như hóa đá. Nhưng giờ không thể làm gì khác ngoài việc cầm lấy chiếc khăn, dùng nó lau khô nước mắt, xì mũi, và rồi nghĩ ra một lời giải thích hợp lí.
Nhưng ngay khi cầm chiếc khăn từ tay anh cô thấy rõ mồn một bức hình đang nằm ngửa lên trên ghế bên cạnh cô.
Thật sự là có rất ít việc cần làm. Elliott đã làm việc cực nhọc để hoàn thành xong tất cả trước ngày cưới, biết rằng sau đó không lâu anh sẽ đi London và ở lại đó mấy tháng.
Anh xong việc trong chưa đầy một giờ, và chuyến thăm xã giao anh định thực hiện tới nhà một người thuê đất và cũng là bạn anh đã bị rút ngắn hẳn lại khi anh thấy cả hai vợ chồng người bạn đều không có nhà.
Anh khá là hài lòng được trở về nhà sớm hơn dự tính. Ngang với mức độ hài lòng với cuộc hôn nhân của anh. Quả thực, anh đã miễn cưỡng một cách đáng ngạc nhiên khi phải rời khỏi ngôi nhà bên hồ sáng nay. Anh có cảm giác ngớ ngẩn là một câu thần chú nhiệm màu nào đó sắp bị phá vỡ.
Không có câu thần chú nào bị phá vỡ cả, tất nhiên, và không có phép thuật nào theo sau trong bất cứ chuyện gì đã xảy ra, anh đã có một bạn cùng giường đáng yêu trong ba ngày và bốn đêm và chuyện chăn gối thì tốt đẹp đến không ngờ. Anh phát hiện ra thân hình người phụ nữ không cần phải khêu gợi mới khơi lên sự khao khát.
Mặc dù đó không chỉ là tình dục. Vợ anh đã quyết định không cãi cọ với anh trong ba ngày đó, và anh tìm thấy ở cô một người bầu bạn hợp cạ.
Trời ạ, anh đã để cho cô chèo một trong những chiếc thuyền – với anh ngồi trên đó – cho dù rõ ràng cô chẳng có bất kỳ năng khiếu nào với mái chèo. Anh đã để cô tàn sát hai lỗ tai anh với những trận cười mà do sự ngẫu nhiên tuyệt đối cô mới ném được hòn đá nhảy ba lần trên mặt hồ. Và anh đã – Chúa giúp anh – gom nhiều hoa thủy tiên hơn mức anh biết về sự tồn tại của chúng ở bất cứ đâu trên trái đất và đã chạy ngược chạy xuôi theo cô khi cô phủ kín ngôi nhà với chúng chỉ một vài giờ trước khi họ rời khỏi đó.
Anh đã mơ hồ bị quyến rũ bởi cô, anh nhận ra.
Và không có lí do gì để những điều đó quay ngoắt đi theo chiều tệ hơn khi bây giờ họ đã quay về nhà chính và sẽ lên đường tới thành phố vào ngày mai.
Có lẽ rốt cuộc họ có thể tận hưởng một cuộc hôn nhân tử tế.
Thế nên thay vì chỉ là trở về nhà sớm, anh đã thực sự vội vã quay về, lờ đi giọng nói trong đầu nhắc nhở anh rằng vẫn còn nhiều người thuê đất khác anh có thể ghé thăm.
Ngày hôm qua họ đã làm tình giữa những bông hoa thủy tiên, anh và Vanessa. Nếu thời tiết vẫn đẹp họ có thể quay lại đó hôm nay – để hái những bông hoa cho ngôi nhà chính. Còn như thế này, thì vẫn có một chiếc giường trong phòng ngủ của cô để lần đầu tiên dùng thử, và còn thời điểm nào tốt hơn để làm chuyện đó hơn một buổi chiều mưa khi chẳng ai trong hai người có việc gì khác để làm.
Cô không ở trong bất kỳ căn phòng nào dưới nhà. Hẳn cô đã ở trong phòng ngủ. Có lẽ cô đang nằm, ngủ nốt giấc ngủ trưa bị bỏ lỡ.
Elliott lao hai bậc một lên cầu thang, nhưng anh đi đến phòng thay đồ của mình trước để lau khô tóc và tháo đôi giày ra mà không rung chuông gọi người hầu. Phòng thay đồ của Vanessa nối liền với phòng anh. Anh đi tắt qua đó, bước chân nhẹ nhàng phòng khi cô đang ngủ – nhưng nó sẽ cho anh niềm vui lớn lao được đánh thức cô trong vài phút nữa.
Cửa vào phòng ngủ của cô khép hờ. Anh mở nó từ từ mà không gõ cửa.
Cô không ở trên giường, cô đang ngồi trên chiếc ghế đôi, quay lưng về phía anh, mái đầu cúi xuống. Đang đọc sách chăng? Anh tính đi nhón chân đến chỗ cô và đặt môi mình lên chiếc gáy lộ ra của cô.
Cô sẽ phản ứng thế nào nhỉ? Với một tiếng hét? Với tiếng cười? Với đôi vai co lại và tiếng thở dài khoan khoái?
Cô đang thút thít.
Một tiếng thút thít sũng nước
Và rồi hoàn toàn rõ ràng là cô đang khóc, cô đang khóc với những tiếng thổn thức sâu và khổ sở.
Elliott đứng lặng tại chỗ. Bản năng đầu tiên của anh là muốn bước nhanh tới ôm xốc cô vào lòng và yêu cầu được biết chuyện gì xảy ra khiến cô buồn đến vậy. Nhưng anh chẳng bao giờ giỏi trong việc lôi bản thân mình vào những cảm xúc của phái nữ. Điều anh thực sự làm là bước tới chậm chạp và lặng lẽ. Anh không định che giấu sự hiện diện của mình, nhưng cô đang quá rối bời để chú ý đến anh.
Và rồi, khi anh định đặt tay lên vai cô và bóp nhẹ, thì cô đặt vật gì đó xuống chiếc ghế bên cạnh, và anh thấy mình đang nhìn xuống bức chân dung một người thanh niên trẻ tao nhã, gần như xinh xắn.
Elliott mất chưa đầy một giây để nhận ra người thanh niên ấy hẳn là Hedley Dew. Người tiền nhiệm của anh.
Anh thấy mình đột nhiên nổi giận.
Một cơn giận lôi đình.
Một cơn giận lạnh lùng.
Anh rút chiếc khăn tay trong túi áo và lẳng lặng đưa ra phía trước.
Cô lau nước mắt và hỉ mũi trong khi anh bước về phía xa hơn của căn phòng. Anh đến đứng trước cửa sổ, quay lưng về cô, hai bàn tay chắp lại đằng sau. Anh nhìn xuyên qua màn mưa xuống khu vườn lớn. Khuất về một bên là hồ nước với ngôi nhà nằm kề bên bờ hồ.
Anh không quay đầu nhìn về hướng đó. Đúng ra, anh chẳng nhìn thấy cái gì bên ngoài cửa sổ cả.
Tại sao anh lại tức giận đến thế anh cũng chẳng biết. Họ đã bước vào cuộc hôn nhân này mà không có ảo tưởng nào. Về cơ bản nó là một cuộc hôn nhân thuận lợi cho cả đôi bên.
“Tôi nghĩ rằng,” anh lên tiếng khi những tiếng xì mũi đã ngừng lại, “em yêu anh ta hơn cả mạng sống.”
Anh thậm chí không buồn cố gắng che đậy sự mỉa mai trong giọng mình.
“Em yêu anh ấy,” cô nói sau một khoảng lặng dài lê thê. “Elliott -”
“Làm ơn,” anh nói, “đừng cảm thấy bắt buộc phải đưa ra một lời giải thích. Chuyện đó là không cần thiết, và chắc chắn nó sẽ không kéo theo gì khác ngoài những lời nói dối.”
“Em không cần phải nói dối về chuyện gì hết,” cô nói. “Em yêu anh ấy và em đã mất anh ấy và giờ đây em đã lấy ngài. Chuyện đó nói lên tất cả. Ngài sẽ không thấy em -“
“Và em thấy hợp lí khi đem bức chân dung của anh ta vào nhà tôi,” anh nói, “và khóc lóc với nó trong âm thầm.”
“Vâng,” cô nói. “Em đã mang nó theo. Anh ấy chiếm một phần lớn trong quá khứ của em. Anh ấy đã – và đang – là một phần của em. Em không biết ngài sẽ về sớm. Hoặc ngài sẽ đến phòng em và bước vào mà không gõ cửa.”
Anh xoay người lại và lạnh lùng nhìn cô. Cô vẫn đang ngồi trên chiếc xô pha đôi, chiếc khăn tay của anh vo tròn trong hai bàn tay cô. Gương mặt cô đỏ bừng và hoen vệt nước mắt. Nó không phải là một hình ảnh đẹp.
“Tôi cần phải gõ cửa,” anh hỏi cô, “trước khi bước vào phòng của vợ mình ư?”
Và cô đang làm theo thói quen, cô trả lời câu hỏi của anh bằng một câu hỏi của mình.
“Nếu em bước vào phòng ngài mà không gõ cửa,” cô nói, “thì ngài có thấy phiền không? Đặc biệt là khi ngài đang ở trong tình trạng không muốn bị em nhìn thấy?”
“Chuyện đó,” anh nói, “là một vấn đề hoàn toàn khác. Tất nhiên là tôi thấy phiền.”
“Nhưng em thì không được phép khó chịu?” cô hỏi anh. “Vì em chỉ là một người đàn bà? Chỉ là một người vợ? Chỉ là một loại người hầu cao cấp? Thậm chí cả người hầu cũng cần có những lúc riêng tư.”
Bằng cách nào đó mà cô đã đảo ngược tình thế với anh. Cô đang chỉ trích anh. Cô đang đặt anh vào thế phải phòng vệ.
Mấy ngày vừa qua, anh đột ngột nhận ra, đã chẳng có thứ gì khác ngoài tình dục. Như anh đã dự định. Chẳng có điểm gì để tỏ ra phẫn nộ trước việc phát hiện ra cái điều mà từ lâu anh đã biết – và mong muốn.
Chắc chắn anh không muốn cô quay sang yêu anh.
Nhưng ngay cả thế…
“Mong ước của em sẽ được thực thi kể từ bây giờ, ma’am,” anh nói, trao cho cô một cái cúi chào trang trọng. “Căn phòng này sẽ là khu vực riêng tư của em trừ lúc tôi bước vào để thực hiện những quyền hôn nhân của mình. Và mặc dù thế tôi sẽ gõ cửa trước và em có thể bảo tôi xéo đi với quỷ nếu em không muốn đón nhận tôi.”
Cô nghiêng đầu và quan sát anh trong một vài phút giây lặng lẽ.
“Rắc rối của đàn ông,” cô nói, “là họ sẽ không bao giờ bàn luận một chủ đề với sự bình tĩnh và có lí lẽ. Họ sẽ không bao giờ lắng nghe. Họ luôn luôn quát tháo và tấn công và đưa ra những lời tuyên bố. Họ là những sinh vật vô lý nhất trên đời. Không có gì ngạc nhiên khi lúc nào cũng có những cuộc chiến tàn bạo nhất được phát động.”
“Đàn ông phát động chiến tranh,” anh nói giữa hàm răng nghiến chặt, “là để làm cho thế giới trở nên an toàn cho người phụ nữ của họ.”
“Ôi! Chuyện vớ vẩn!” cô nói.
Cô phải, tất nhiên, giữ cho mái đầu cúi xuống ngay từ đầu và giữ im lặng trong khi anh nói, trừ lúc trả lời những câu hỏi của anh bằng những từ đơn âm tiết thích hợp. Rồi anh có thể hiên ngang ra khỏi phòng với vẻ đường hoàng mà không phải đi chệch khỏi quỹ đạo ngôn ngữ thường ngày của mình đến cả ki lô mét.
Nhưng cô là Vanessa, và anh bắt đầu hiểu rằng đừng có mong đợi cô cư xử như mọi quý cô khác.
Và Chúa giúp anh, anh đã cưới cô. Anh chẳng thể đổ lỗi cho ai ngoài chính mình.
“Nếu đàn ông các anh thực sự muốn làm người phụ nữ của mình vui lòng,” cô nói, “thì các anh sẽ ngồi xuống và nói chuyện với họ.”
“Ma’am,” anh nói, “có lẽ em đang nghĩ cách làm tôi sao lãng. Nhưng em sẽ không phải làm thế. Tôi không đòi hỏi thứ em không thể trao cho tôi và thứ tôi không muốn – tôi không đòi hỏi tình yêu của em. Nhưng tôi yêu cầu ở em lòng chung thủy không sứt mẻ. Đó là quyền của tôi khi là chồng em.”
“Ngài có thứ đó,” cô nói. “Và ngài không cần cau mày quá hung tợn như thế hoặc không cần gọi em là ma’am, như thể chúng ta vừa mới quen, để có được nó.”
“Tôi không thể và sẽ không cạnh tranh với một người đã chết,” anh nói. “Tôi không nghi ngờ gì về chuyện em yêu anh ta tha thiết, Vanessa, và việc anh ta qua đời ở độ tuổi quá trẻ là một đòn tàn nhẫn với em. Nhưng giờ em đã lấy tôi, và tôi mong em khi xuất hiện nơi công cộng ít nhất cũng tỏ ra phục tùng tôi.”
“Ở nơi công cộng,” cô nói. “Nhưng ở chốn riêng tư em không cần thể hiện sự phục tùng? Ở chốn riêng tư em có thể thành thực và thể hiện sự lạnh nhạt hoặc chán ngán hoặc căm ghét hoặc bất cứ điều gì em cảm thấy không?”
Anh nhìn cô, giận điên người.
“Em mong là,” cô nói, “ngài sẽ để em giải thích.”
“Về thứ tôi đã bắt gặp khi tôi xâm phạm chốn riêng tư của em và bước vào đây?” anh hỏi. “Thà là em đừng làm thế, ma’am.”
“Crispin Dew đã lấy vợ,” cô nói với anh.
Anh chỉ có thể im sững nhìn cô. Đây là sự không nhất quán kinh khủng, hay là một kiểu liên kết logic trong bộ óc loằng ngoằng của vợ anh?
“Kate kể cho em sáng nay,” cô nói. “Lady Dew đã nhận được thư của anh ta lúc bà vẫn còn ở Warren Hall. Anh ta đã cưới một người ở Tây Ban Nha, nơi trung đoàn của anh ta đóng quân.”
“Và tôi cho rằng,” anh nói, “chị gái em đang đau khổ. Mặc dù vì sao cô ấy như thế thì tôi không biết. Nếu anh ta đã đi xa bốn năm mà chẳng viết một chữ cho cô ấy, ắt hẳn cô ấy phải trông đợi một chuyện tương tự thế này chứ.”
“Em chắc chắn là chị ấy có nghĩ,” cô nói. “Nhưng giữa việc chờ đợi một điều gì đó và nó thực sự xảy ra là hai chuyện khác nhau.”
Một ý nghĩ đột ngột đánh thẳng vào anh.
“Như vậy rốt cuộc cô ấy có thể lấy tôi,” anh nói.
“Vâng,” cô đồng ý.
Cuối cùng anh đã nhìn thấy mối liên hệ.
“Em nhận ra điều đó lúc tôi ra đi chiều nay,” anh nói. “Em nhận ra rằng lá thư ấy đã đến quá muộn. Đáng lẽ em đã cứu được mình khỏi trở thành con cừu hiến tế.”
“Meg tội nghiệp,” cô nói, không thừa nhận cũng chẳng từ chối lời buộc tội. “Chị ấy rất yêu anh ta, ngài biết không. Nhưng chị ấy dứt khoát ở lại với chúng em khi anh ta muốn chị ấy lấy anh ta và đi theo tiếng gọi với anh ta. Chị ấy không để cho em thay thế chị ấy.”
“Hồi đó thì không,” anh nói. “Nhưng lần này cô ấy không có sự lựa chọn. Em đã nói với tôi trước khi cô ấy biết em định làm gì.”
“Elliott,” cô nói, “em mong ngài đừng cắt ngang quá nhiều như vậy.”
“Ha!” Anh khoa tay trong không khí. “Giờ em lại là người muốn đưa ra lời tuyên bố và không muốn thảo luận bất cứ cái gì một cách có lí lẽ.”
“Em chỉ đang cố giải thích,” cô nói với anh.
Anh chắp hai tay sau lưng lần nữa và hơi vươn người về phía cô.
“Vậy em giải thích đi, nếu em nhất quyết muốn vậy,” anh nói, “tôi sẽ không ngắt lời em nữa.”
Cô nhìn lại anh rồi thở ra. Hai bàn tay vặn vẹo chiếc khăn. Cô dứt khoát đặt nó sang bên, và bắt gặp bức tranh, vẫn nằm quay mặt lên trên cái ghế bên cạnh, cô bèn lật úp nó xuống.
“Em sợ rằng em sẽ quên anh ấy,” cô nói. “Và em nhận ra đó là một nỗi khao khát sao cho mình quên được anh ấy. Giờ đây em đã lấy ngài và nợ ngài những thứ em đã trao cho anh ấy – sự ân cần và lòng chung thủy và dâng hiến trọn vẹn. Nhưng em thấy sợ, Elliott. Anh ấy là cuộc sống của em trong cuộc hôn nhân kéo dài một năm của hai đứa, cũng như ngài sẽ là cuộc sống của em trong thời gian lâu hơn rất nhiều, em hi vọng là vậy. Em cần quên anh ấy đi, nhưng dường như thế là sai trái. Anh ấy không đáng bị lãng quên. Anh ấy yêu em nhiều hơn mức em nghĩ mình có thể được yêu. Và anh ấy mới có hai mươi ba tuổi khi lìa đời. Nếu em quên anh ấy, thì tình yêu cũng có thể chết – và em thì luôn tin rằng tình yêu là thứ bất diệt trong cuộc đời, một thứ có thể không bao giờ chết, trong kiếp này cũng như mãi mãi về sau. Em khóc bởi vì em cần phải quên anh ấy. Nhưng em không muốn làm vậy.”
Anh đã nói với cô anh không muốn cạnh tranh với người đã khuất. Thế mà anh đang sắp sửa xử sự y như thế, không phải sao?
Một người phụ nữ, hình như không thể bị ra lệnh là không được yêu, cũng như không thể bị ra lệnh bắt phải yêu.
“Em sẽ mang bức tranh về lại Warren Hall,” cô nói. “Tốt hơn cả, em sẽ gửi nó về Rundle Park. Lady Lyngate đưa nó cho em sau khi Hedley mất và sẽ vui mừng được lấy nó về, em dám chắc thế. Em phải nghĩ tới việc đưa nó cho bà trước lễ cưới với ngài, nhưng em đã không nghĩ ra. Em sẽ giữ những lời thề hôn nhân với ngài, Elliott. Và em sẽ không khóc vì Hedley nữa. Em sẽ cất anh ấy vào một góc trong tim mình và hi vọng là em sẽ không quên anh ấy hoàn toàn.”
Những lời thề hôn nhân của cô. Với tình yêu, danh dự, và nghe lời anh.
Anh không muốn tình yêu của cô. Anh không trông chờ sự phục tùng của cô – dù sao anh cũng nghi ngờ là cô có thể thực hiện được điều đó. Chỉ còn lại danh dự.
Giữa riêng hai người cô đã hứa với anh nhiều hơn – sự dễ chịu, hài lòng, và vui vẻ. Và cách nào đó cô đã thực hiện được cả ba trong suốt ba ngày sau lễ cưới của họ. Và anh, như một tên ngốc, đã đón nhận mà không thắc mắc.
Cô chỉ đơn thuần là đang giữ trọn lời hứa của mình.
Và mặc dù anh không nghi ngờ là cô đã có được niềm vui xác thịt từ anh, lúc này anh hiểu rằng cô chỉ say sưa với những khoái cảm nhục dục mà sự ốm yếu của người chồng đầu tiên đã lấy đi của cô.
Tất cả chỉ là tình dục.
Không gì khác.
Và đối với anh cũng thế. Đúng như anh dự định và mong muốn. Anh không mong điều gì lớn lao hơn.
Vậy thì thế quái nào, cho dù cơn giận của anh đã tiêu tan phần lớn, lại có một quả bóng nặng trịch của sự thất vọng đè lên bụng anh?
Ít nhất cô sẽ giữ những lời thề hôn nhân của họ.
Cho nên, Chúa giúp anh, anh cũng sẽ làm thế.
Hedley Dew, anh không hề nghi ngờ, sẽ không bao giờ được nhắc đến giữa hai người nữa. Cô sẽ yêu anh ta trong cái ngăn bí mật của trái tim và dâng bổn phận trung thành cho người chồng thứ hai của mình.
Anh lại cúi chào.
“Tôi phải tạm biệt em, ma’am,” anh nói. “Tôi có vài công việc cần có mặt. Cho phép tôi gợi ý là em hãy đi rửa mặt mũi trước khi phô nó ra trước bất kỳ gia nhân nào? Tôi sẽ gặp em ở bữa tối. Và đến cuối buổi tối nay tôi sẽ ghé qua phòng em một lát trước khi quay về phòng mình để ngủ.”
“Ôi, Elliott,” cô nói, “em đã gây ra một sự lộn xộn tồi tệ khi cố giải thích với ngài, có đúng không? Có lẽ vì đến em còn không thể giải thích được thỏa đáng với chính mình. Tất cả những gì em biết là chuyện đó không như ngài nghĩ hoặc không như em có thể sắp xếp đúng từ ngữ.”
“Có lẽ để lúc khác sau này,” anh nói, “em sẽ thấy mình có thể viết được sách cũng nên. Một cuốn tiểu thuyết kinh dị sẽ phù hợp với em – một thứ tràn ngập những đam mê và cảm xúc không có cơ sở và giọng văn khoa trương.”
Anh vừa nói vừa sải bước băng qua phòng. Anh đi qua phòng thay đồ của cô và đóng sập cánh cửa một cách dứt khoát trước khi vào phòng thay đồ của mình và cũng đóng sầm cánh cửa ở đó lại.
Anh lại nổi giận. Anh có cảm giác là bằng cách nào đó cô đã biến anh thành thằng ngốc. Cô đã không cho anh trút cơn bực bội khi bắt gặp cô trong tình trạng đó hoặc đề ra luật lệ với cô về những gì anh trông đợi ở cô và cuộc hôn nhân của họ. Thay vào đó cô đã dẫn anh vào một mê cung rối rắm của ngôn từ và khiến anh thấy mình giống như một con lừa thùng rỗng kêu to.
Có phải anh đúng như thế không?
Anh cau mày dữ tợn.
Phải chăng người ta cần ôm vợ mình vào lòng và thì thầm những lời âu yếm dịu dàng vào tai nàng trong khi nàng khóc lóc thảm thiết cho người đàn ông nàng yêu – người hóa ra không phải là anh?
Và là một người đã chết.
Trời đất!
Quỷ tha ma bắt, cuộc hôn nhân này đang dẫn dắt anh đến đâu?
Anh liếc nhìn qua cửa sổ phòng ngủ của mình và nhận thấy cơn mưa, nếu có thể, đang rơi nặng hạt hơn nửa giờ trước đó. Và gió đang xô giật các ngọn cây.
Có vẻ đúng kiểu thời tiết anh cần.
Mười phút sau, anh lao ra khỏi tàu ngựa một lần nữa trên lưng một con ngựa khỏe mạnh và sung mãn.
Đích đến của anh?
Anh chẳng biết. Chỉ cần là nơi xa hẳn Vanessa và cuộc hôn nhân của anh. Và xa hẳn bức chân dung đáng ghét của một cậu bé tao nhã và xinh xẻo, đối lập với kiểu người mà anh sẽ không muốn ganh đua ngay cả khi có thể.
Cô ta có thể yêu anh ta với sự chúc phúc của anh.
Mặc xác cô ta.
Và Hedley Dew nữa.
Khi anh nhận ra cái khuynh hướng thật là trẻ con trong suy nghĩ của mình, anh liền thúc ngựa phi nước đại và quyết định không đi vòng qua hàng rào trước mặt mà lao thẳng qua nó.
Nếu người ta sắp trở thành trẻ con, thì người ta cũng có thể liều lĩnh được.
Mọi chuyện sao mà khủng khiếp.
Có một điều là gương mặt cô hình như không trở lại vẻ bình thường được nữa. Cô càng vã nước lạnh và thoa kem, thì đôi mắt cô có vẻ nhìn càng sưng húp và hai má càng đỏ ửng.
Cuối cùng cô đành đầu hàng và dạo chơi thơ thẩn trong những khu vực còn lại của tòa nhà với bước chân nhún nhảy và nụ cười tươi tắn cho dù chỉ có những bức tường và những bức tranh và tượng bán thân ngó lại cô.
Anh trở về nhà và đi đến phòng khách chỉ cách khoảng một vài phút trước khi phải dẫn cô vào phòng ăn để dùng bữa tối. Họ có một cuộc trò chuyện cứng nhắc trong một giờ đồng hồ về tiền trợ cấp cho người quản gia và người hầu. Trong suốt thời gian đó Vanessa không tin có lúc nào cô để nụ cười của mình vuột mất.
Cuối cùng họ ngồi trong phòng khách, đối diện nhau qua lò sưởi, đọc sách. Cô đếm số lần anh lật trang trong suốt một giờ rưỡi đồng hồ tiếp theo – là bốn lần. Mỗi lần cô đều nhớ để giở trang sách của mình và thay đổi tư thế và mỉm cười tán thưởng cái trang giấy trước mặt.
Sau nửa giờ đồng hồ đầu tiên cô mới nhận ra mình đã chọn một quyển sách thuyết giáo.
Cô đổi nụ cười của mình thành một vẻ đăm chiêu hơn.
Đó là lúc cô đột ngột tự hỏi thực ra là vì sao anh lại vào phòng ngủ của cô chiều hôm nay mà không gõ cửa – và vì sao anh trở về nhà sớm như vậy. Phải chăng anh đến để –
Nhưng khi cô lén nhìn anh, anh đang cau có với quyển sách và trông không giống một người tình âu yếm chút nào.
Khi giờ ngủ cuối cùng cũng đến, anh đưa cô tới cửa phòng thay đồ của cô, hôn tay cô, và hỏi – ồ, phải, anh đã làm thế – liệu anh có được phép đến phòng cô một lát không.
Khi anh đến, cô đang nằm trên giường, băn khoăn không biết nên nói gì hay làm gì để cải thiện tình hình. Nhưng tất cả những gì cô làm chỉ là mỉm cười với anh cho đến lúc anh thổi tắt ngọn nến – lần đầu tiên anh làm việc đó.
Anh bắt đầu làm tình với cô mà không có những nụ hôn hay vuốt ve âu yếm, mà nhanh chóng và thô bạo. Tất cả kết thúc từ lâu trước khi cô có thể nghĩ tới việc chờ đón niềm khoái cảm luôn luôn đến trong mười ba lần làm tình trước.
Tất cả những gì cô nhận được là cơn đau của khao khát không được khỏa lấp.
Anh đứng lên khỏi giường ngay lập tức sau đó, mặc lại áo ngủ, và rời đi qua lối phòng thay đồ của cô.
Và trước khi đóng cửa lại anh cảm ơn cô.
Anh cảm ơn cô.
Nó như một lời sỉ nhục cuối cùng.
Nó là sự sỉ nhục. Tất cả những việc đó. Và cô nghi ngờ là được dự định từ trước.
Nếu cô muốn làm vợ anh chỉ vì lợi ích và để sinh con đẻ cái, thì cách hành xử của anh trong tối và đêm nay đã nói cho cô biết rằng, anh khá là vui lòng trao cho cô điều cô muốn.
Đàn ông thật ngu ngốc hết chỗ nói.
Hoặc, nếu như thế là vơ đũa cả nắm và bất công với hằng hà sa số những người đàn ông vô tội, thì cô sẽ sửa lại ý kiến của mình.
Elliott Wallace, tử tước Lyngate, là một kẻ ngốc!
Ngoại trừ tất cả là lỗi của cô!
Cho dù anh không biết và sẽ không bao giờ thừa nhận chuyện đó, anh đã bị tổn thương.
Nhưng cô không biết phải làm thế nào. Dù chắc chắn cô phải làm điều gì đó. Cô nợ anh những gì tốt hơn việc than khóc cho một người đàn ông đã chết chỉ bốn ngày sau khi lấy anh.
Cô nợ anh những gì cô đã hứa với anh. Cô mang nợ ngay cả khi cô không hứa đi chăng nữa.
Bên cạnh đó, cô không định để cho hồi ức về tuần trăng mật trôi dần vào quá khứ, điều ngọt ngào có thể sẽ không bao giờ lặp lại. Cô đã được hạnh phúc trong ba ngày vừa rồi, và cô chắc chắn y như về phần mình là anh cũng đã hạnh phúc, cho dù nhất định anh sẽ một mực không thừa nhận cảm xúc đặc biệt ấy dù có bị tra khảo.
Họ đã hạnh phúc.
Ở thì quá khứ.
Mọi chuyện phụ thuộc vào cô để biến nó thành thì hiện tại và với những viễn cảnh tươi sáng cho cả thì tương lai.
Vì cả hai người.