Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Hoa Tư Dẫn

Chương 50

Tác giả: Đường Thất Công Tử

Tháng mười là mùa thu hoạch, người ta đem ngũ cốc ủ rượu, những cánh đồng lúa bát ngát dưới chân núi Nhạn Hồi, xem ra Mộ Ngôn trị vì Vệ quốc rất tốt.

Phải cảm ơn Quân sư phụ đã dạy tôi bí quyết làm mặt nạ da người, từ nước Trần đến nước Vệ, đi một mạch trở về núi Nhạn Hồi, hai mươi ngày vừa đi vừa nghỉ, ngoài cơ thể thỉnh thoảng hơi khó chịu, dọc đường đều thuận lợi.

Hai mươi ngày trước, tôi tỉnh lại ở ven sông Khúc Diệp, đại khái là từ vách núi Trà lăn xuống vực rơi xuống dòng sông, trôi theo dòng nước chảy dạt đến sông Khúc Diệp, lúc vĩnh biệt Mộ Ngôn, tôi đã tưởng viên giao châu sẽ vỡ vụn trong tích tắc, nhưng khi tỉnh lại, đột nhiên lờ mờ nhìn thấy ảnh hình viên giao châu, viên minh châu lóng lánh như băng tuyết, một nửa đã vỡ, nửa kia đầy vết rạn.

Tôi nghĩ đó chính là nguyên nhân tôi vẫn còn sống, vậy là ông trời cũng có đức hiếu sinh, nhưng hiếu sinh chưa triệt để, những vết rạn mỗi ngày một sâu thêm là mang đi một phần tính mạng của tôi.

Theo đó, nhiều nhất tôi còn có thể gắng gượng ba, bốn tháng nữa. Tôi đã nghĩ có nên trở về tìm Mộ Ngôn, trên đời duy nhất có chàng khiến tôi không yên tâm, cảm thấy được nhìn chàng dù một lần cũng tốt.

Nhưng lại nghĩ, cuối cùng mình vẫn không thoát khỏi đoản mệnh, cho chàng hy vọng rồi lại khiến chàng thất vọng thì quá tàn nhẫn, hơn nữa, nếu gặp lại chàng, tôi sẽ không chịu nổi hiện thực tôi chỉ còn sống ba, bốn tháng trên đời. Nghĩ đi nghĩ lại, quyết định ba tháng còn lại này sẽ trở về nơi gặp chàng lần đầu, có những hồi ức đó về chàng là đủ để tôi vui trong những ngày cuối cùng.

Trên đường trở về núi Nhạn Hồi, đâu đâu cũng nghe thấy dân chúng bàn tán chuyện Trần vương qua đời, thế tử Tô Dự kế vị, ngày làm lễ đăng quang cũng là ngày phong vương hậu, nhưng ngự ở ngôi Trần vương hậu cao quý lại không phải là một phu nhân đoan trang mà là một linh vị bằng ngọc.

Tôi nhớ đến lần trong chiếc sân nhỏ xung quanh nở đầy hoa thiên quế, chàng từng nhăn nhó nói với tôi: “Cô nương định nói là âm hôn? Nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, đa tạ thịnh tình của cô nương”.

Mộ Ngôn, bởi em không cam lòng, trước lúc vĩnh biệt đã dặn chàng như vậy, cho dù chết vẫn muốn độc chiếm chàng. Nhưng… nhưng em chỉ nhất thời nói vậy thôi, chàng không cần nghiêm chỉnh thực hiện.

Nhưng nhất thời vẫn không thể kìm lòng, âm thầm rơi lệ.

Núi Nhạn Hồi vẫn như xưa, tính ra thời gian tôi rời đi cũng không dài, nhưng hai năm qua quả thực đã xảy ra bao nhiêu chuyện. Góc mái cong của phủ đệ Thanh Ngôn tông ẩn hiện dưới bóng cổ thụ sum suê có rừng trúc bao quanh đã là nơi tôi không thể quay về.

Sơn động sau núi vẫn bảo tồn hoàn hảo, bức họa khắc trên giường đá cũng chưa mờ. Tôi tạm thời ở lại trong động.

Phong cảnh ở đây tôi đã chứng kiến suốt mười sáu năm. Mùa xuân gió nhẹ, mùa hè nắng chói, mùa thu mây phủ, mùa đông tuyết rơi, mặc dù vẫn cảnh trí quen thuộc, trong lòng vẫn thấy lưu luyến, muốn lúc nào cũng có thể nhìn thấy nó, nhưng thể lực yếu đi từng ngày như nhắc thời gian không còn bao nhiêu.

Đêm thu lạnh, thỉnh thoảng có gió từ cửa động lùa vào, nằm trên giường đá không tiện, may phát hiện vách động có một cái hõm, phía trước có những dây leo rủ xuống, có thể tránh gió tránh rét.

Tôi đã chuẩn bị cho sự kết thúc của mình như vậy, thầm nghĩ nếu có thể biến thành tro bụi bay đến nơi này cũng coi như có thủy có chung. Không ngờ đêm thứ bảy, sau khi Mộ Ngôn vừa lên ngôi đã quay lại nơi này, quả là một sự bất ngờ.

Vào lúc trăng lặn, tôi đang co người trong hõm đá sau những chùm dây leo, nghe thấy bên ngoài cửa động có tiếng bước chân quen thuộc và ánh đuốc le lói, Mộ Ngôn ôm cây đàn thất huyền, cắm bó đuốc trong tay vào vách đá, mắt nhìn khắp động hồi lâu, quay người ngồi xuống chiếc bàn đá, để cây đàn bên cạnh.

Ánh đuốc chiếu sáng khắp động, chàng vận áo chùng đen như thuở ban đầu. Vẫn dáng hào hoa như cái đêm giữa hạ đầy sao, nhưng đôi mắt đen u sầu, nụ cười trên miệng biến mất, nét mặt xanh xao bệnh tật.

Lòng tôi đau nhói. Chàng dừng lại trên khoảnh đất trống giữa động, cau mày cúi đầu ngắm nghía, đó chính là chỗ tôi dùng cành cây vẽ bức tranh tặng chàng, bây giờ không còn nữa.

Rất lâu sau, như nghĩ ra điều gì, chàng sải mấy bước đến trước giường đá. Tôi thấy chàng cúi xuống, ngón tay thon dài lần từng tấc bức họa khắc trên đó, lát sau thong thả nói: “Vẽ khá lắm, xem ra có tiến bộ, tôi vẫn nhớ bức họa em vẽ trên đất tặng tôi cũng không quá tồi. Kỳ thực tôi đã nhìn ra em định vẽ gì, chỉ là muốn đùa em một chút”.

Nếu là lúc thường tôi nhất định trợn mắt hét lên với chàng: “Chàng thật quá đáng”.

Nhưng hôm nay đành mím môi thật chặt, cố kiềm chế không để bật ra một tiếng, chàng thật quá đáng, luôn trêu chọc tôi, vậy mà lần nào tôi cũng tưởng thật, nếu như vẫn còn tương lai, tôi nhất định bắt đền chàng gấp mấy lần, nhưng tôi tuyệt nhiên không còn tương lai nữa.

Có điều, bây giờ tôi vẫn sống, lại trốn chàng như thể Quân Phất không còn ở trên đời, như thế chẳng phải đang đùa giỡn chàng ư? Không hiểu nếu chàng biết sẽ giận thế nào, nhưng mong chàng mãi mãi không biết.

Tiếng đàn dìu dặt vang lên trong động, vầng trăng đã lặn cơ hồ lại mọc, chàng cúi đầu gảy đàn, dáng phong lưu tự tại đó không ai có thể bắt chước.

Thực ra nếu chàng không sinh ra đã là thế tử Trần quốc, có lẽ một ngày nào đó sẽ trở thành đệ nhất cầm sư trong thiên hạ, xem ra ở đời đúng là có được có mất.

Trong ánh đuốc hồng một con bướm đỏ không biết từ đâu bay đến, đôi cánh dập dờn quấn quýt bên chàng, dường như cũng hiểu những thanh âm êm như nước chảy tuôn ra từ cây đàn. Tiếng đàn chợt ngừng, khuôn mặt đờ đẫn của chàng đột nhiên chấn động, hiện ra vẻ dịu dàng quen thuộc. nguồn TruyenFull.vn

Con bướm lặng lẽ đậu trên ngón tay chàng, giọng chàng run run: “A Phất, có phải em không?”.

Tôi bịt chặt miệng, ngăn tiếng nức nở bật ra, nhưng sao có thể là tôi, Mộ Ngôn, chàng trước nay thông minh lý trí, sao lúc này lại có liên tưởng dị thường như vậy.

Con bướm đậu một lát, vẫy đôi cánh mỏng định bay đi, chàng nhổm dậy định ngăn lại, trong lúc vội vàng chạm vào dây đàn, một chuỗi thanh âm ào ạt như nước trong nguồn phá đá trào ra, con bướm đỏ lại liệng một vòng rồi đậu xuống cây đàn.

Một con bướm kỳ lạ, có lẽ trong huyết mạch Mộ Ngôn cũng di truyền tố chất dụ bướm của Mộ Dung An, ngón tay chàng nhẹ nhàng gảy dây tơ, giọng lặng trầm đau đớn, khẽ nói: “Em muốn nghe ta đàn? Vậy em muốn nghe khúc nào?”.

Bướm không trả lời, tôi muốn trả lời nhưng không thể. Chàng đột nhiên mỉm cười, nụ cười thấm buồn của chàng mê hồn hơn bất cứ lúc nào, đau như dao cắt hơn bất cứ lúc nào: “Vậy, tôi sẽ đánh tất cả những khúc nhạc tôi biết cho em nghe, được không?”.

Đuốc cháy gần hết, bên ngoài trời đã rạng, rồi mặt trời lên, mặt trời lặn, tàn quang cuối cùng ánh lên tầng không đỏ như sắc máu. Quả nhiên chàng gảy hết những khúc nhạc đã biết, chẵn một đêm, chẵn một ngày, thanh âm như nước chảy không ngừng. Tôi náu trong hốc động, lòng quặn đau nhìn ngón tay chàng rớm máu, chỉ biết bịt miệng thật chặt, ngăn tiếng nấc.

Nỗi đau âm ỉ dường như dồn cả lại trong một ngày một đêm này, tôi có cảm giác mình đã chịu hết nỗi thống khổ chia ly của cả ba tháng cuối cùng trong đời. Trong cơn đau giằng xé, tôi bất giác muốn trách ông trời, tại sao trong tháng cuối cùng không cho tôi thanh thản, để tôi chứng kiến chàng đau đớn như vậy. Nhưng cùng với nỗi đau, một niềm hạnh phúc bi thương cũng âm thầm lan tỏa trong tôi.

Nếu không có Mộ Nghi can ngăn, không biết chàng sẽ còn gảy đến bao giờ, mặc dù từ trước tôi luôn mơ ước như vậy, mơ được chàng gảy cho nghe tất cả những nhạc khúc chàng biết, nhưng khi đêm đến, nghe thấy tiếng đàn như nước nguồn không dứt đó, nhìn những dây tơ dính máu dưới tay chàng, lòng lại âm thầm day dứt, sao chàng biết quá nhiều nhạc khúc như vậy.

Thanh âm vừa dừng, con bướm đỏ đậu trên thân đàn chẵn một ngày đêm giống như được tạc trên đó đột nhiên giật mình, vỗ cánh liệng một vòng rồi bay thẳng ra ngoài cửa động, mặc cho tiếng đàn lại vang lên như níu kéo. Mộ Ngôn vội đứng lên đuổi bắt, bị Mộ Nghi ngăn lại, trong động chỉ có tiếng nói nghẹn ngào của cô: “Nếu đó đúng là tẩu tẩu, tẩu ấy sẽ không bỏ ca ca một mình bay đi, nhưng cho dù đó là tẩu tẩu, lẽ nào ca ca định sống suốt đời với một con bướm?”.

Con bướm đỏ đã bay xa, mất hút trong ánh trăng mờ, Mộ Ngôn quay lưng lại, nhìn không rõ sắc mặt, chàng không đuổi theo nữa, cũng không nói gì. Có lẽ cuối cùng chàng tỉnh táo trở lại, biết đó không phải là tôi. Mộ Nghi nói đúng, nếu là tôi, tôi sẽ không bỏ chàng một mình, tôi không nỡ.

Đuốc lại được đốt lên, bóng chàng đổ dài in lên vách đá, giơ tay là có thể chạm vào, tôi định thử làm vậy, cuối cùng lại thôi. Trong không khí trầm mặc dài lâu, Mộ Nghi khẽ nói: “Ca ca, tẩu tẩu là người thế nào?”.

Trong động chỉ có tiếng đuốc cháy xèo xèo, giọng chàng trầm trầm: “Rất hay làm nũng, hay giận hờn, hay khóc”.

Mộ Nghi ngập ngừng, “Một tiểu thư như thế trong thiên hạ đâu chẳng có, huynh… huynh hà tất…”.

Chàng quay người: “Đó là lúc có ta ở bên…”. Chàng cúi xuống lầm lũi bỏ cây đàn vào bao: “… những khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.

Nước mắt nhập nhòa rồi tuôn như mưa xuống má, cũng không muốn lau. Một trận gió thổi tới, rẽ ra những sợi dây leo trước mặt, tôi hốt hoảng nép người về phía sau, nhưng chỉ là hoảng sợ vô ích, ngước mắt đã thấy bóng hai người một trước một sau chầm chậm ra khỏi cửa, trong động chỉ còn ánh đuốc tàn đổ bóng xuống mặt đất.

Tôi tưởng tất cả sẽ kết thúc ở đó, không ngờ mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Mộ Ngôn không phát hiện ra tôi, bởi trong động không có dấu vết của người sống. Tôi là người chết, không cần nồi niêu bát đũa, cũng không cần đốt lửa xua đuổi dã thú, lại thêm sức lực yếu dần, trước khi chàng đến, tôi đã nằm lỳ hai ngày trong hốc đá.

Thầm nghĩ có thể họ sẽ quay lại, ngày hôm đó tôi vẫn không ra khỏi chỗ ẩn náu, sáng hôm sau đoán là sẽ không có gì sơ sảy, mới loạng choạng ra khỏi động đến con suối gần đó. Mang mái tóc dài đẫm nước quay về, lại sững người nhìn thấy cô gái áo xanh đứng cạnh chiếc giường đá cúi đầu chăm chú vẽ gì đó trên giấy.

Không kịp trốn, tôi ngẩng đầu, đôi mắt đen tròn như hạnh nhân của cô ấy bỗng mở to, nhìn chằm chằm bóng người ở cửa động. Tôi bước đến, nhẹ giọng hỏi: “Ba tháng không gặp, muội vẫn khỏe chứ, Mộ Nghi?”.

Bức họa trong tay cô hơi run, chằm chằm nhìn tôi, lát sau đôi tròng đen giàn giụa nước mắt: “Muội không biết tẩu là người hay là ma, có phải tẩu vẫn ở trong động này? Nhưng tại sao bây giờ mới xuất hiện, người tẩu cần gặp phải là ca ca của muội chứ”.

Không thể nói sự thật với cô, nhưng thấy cô khóc như vậy, tôi không đành lòng, mặc dù tôi cũng thường xuyên rơi nước mắt, nhưng sợ nhất người khác khóc trước mặt mình. Không biết làm thế nào, đành quay người định đi, đằng sau truyền đến tiếng khóc to hơn của Mộ Nghi: “Tẩu nhẫn tâm như vậy ư?”.

Bên ngoài có gió, mấy chiếc lá phong rơi trên cửa động, tôi dằn lòng cắm cúi bước tiếp, được mấy bước, hai chân chậm dần, cuối cùng dừng lại.

Sau lưng là tiếng nói nghẹn ngào của Mộ Nghi: “Ngày tẩu rơi xuống vực, ca ca cũng nhảy theo, ca ca muốn đuổi theo tẩu, từ vách núi lăn xuống dòng sông nước xiết, vùng vẫy tìm kiếm cuối cùng chỉ vớt được chiếc áo tím của tẩu, tẩu không biết khi thị vệ tìm thấy, bộ dạng ca ca thế nào đâu, cơ hồ nửa mạng sống đã bị Diêm vương lấy đi, nhưng trở về hành cung tuyệt nhiên không nhắc tới tẩu nửa câu, nghỉ ngơi nửa ngày liền bắt tay lo liệu tang lễ cho phụ vương. Ca ca xưa nay dù gặp bất cứ việc gì cũng luôn điềm tĩnh, chúng tôi đều tưởng ca ca chỉ là mê muội nhất thời, dường như đã nghĩ thông, không ngờ lo xong tang lễ cho phụ vương, ca ca đóng cửa giam mình ba ngày trong phòng. Ngày đăng quang, tay bê linh vị của tẩu, đích thân đặt vào bảo tọa dành cho vương hậu sau lưng, tẩu nhất định không biết, linh vị đó ca ca tự tay tạc suốt ba ngày không ngủ”.

Tôi ngước mắt nhìn trời, tầng không thăm thẳm xanh ngắt bao la, mây trắng lững lờ. Đó là lỗi của tôi, là niềm lưu luyến của tôi, chàng không nên yêu tôi. Một người sống yêu một người đã chết làm sao có tương lai.

Ngày trước tôi chỉ muốn ở bên chàng, gần chàng hơn nữa, để sau khi ra đi không còn gì tiếc nuối, nhưng hoàn toàn không nghĩ nếu có ngày tôi rời xa chàng, chàng sẽ thế nào. Tôi đã sai.

Mộ Nghi từ phía sau bước đến, giọng vẫn run run nghẹn ngào: “Tại sao tẩu vẫn không ngoái lại? Tẩu cảm thấy như thế vẫn chưa đủ sao? Nếu muội nói với tẩu, giờ đây vì tẩu ngay cả kiếm ca ca cũng không muốn động vào nữa, tẩu có động lòng hay không?”.

Tôi quay phắt lại, khó nhọc nói: “Thế là thế nào?”.

Cô giơ ống tay áo lau nước mắt, cố nở nụ cười còn khó coi hơn khóc: “Ca ca kiếm thuật cao cường như vậy, gặp sự cố ra tay nhanh như chớp, khiến hộ vệ tùy tùng xấu hổ. Nhưng hôm đăng quang, trên yến tiệc có thích khách, rõ ràng có thể kịp thời tránh mũi kiếm, ca ca lại… muội đi xem vết thương của ca ca, hỏi mãi, ca ca chỉ nói, ca ca đã không thể dùng kiếm nữa. Về sau muội mới biết, do ca ca đã đâm nhầm tẩu nên không thể chạm vào kiếm nữa. Lần này cũng thế, để kịp sinh nhật tẩu, cơ thể ca ca dù chưa bình phục, vẫn vượt ngàn dặm trở về núi Nhạn Hồi. Mặc dù ca ca không nói gì, nhưng muội cũng nghĩ, ca ca đến đây hoàn toàn là vì tẩu. Vậy mà tẩu lại nhẫn tâm như thế, nhẫn tâm đến mức rõ ràng vẫn sống mà lại giấu ca ca, ca ca ở trước mặt tẩu, tẩu cũng không lộ diện, tẩu nhẫn tâm để ca ca…”.

Hang động rất cao, lần đầu phát hiện thì ra trên đỉnh có nhiều chỗ bị xói mòn. Phải, sao lại nhẫn tâm đến thế, tôi không nhẫn tâm, nhưng nỗi đau trong lòng lại từ từ dâng lên, lát sau, tôi nghe thấy tiếng mình lạc giọng: “Mộ Nghi, giúp tôi một việc được không”.

Trên đường đến Hạo thành, nghe đồn hai nước Triệu – Khương khai chiến. Chuyện này vừa trong dự đoán lại vừa ngoài dự đoán. Cuối tháng tám, Mộ Ngôn đến Triệu, cùng hội đàm với Triệu vương, với tính cách nóng nảy của Triệu vương, tôi tưởng nhiều nhất không quá nửa tháng sẽ tuyên chiến với Khương, không ngờ lại kìm được cơn thịnh nộ, trì hoãn đến tận đầu tháng mười.

Nghe đồn hôm tuyên chiến, Triệu vương đích thân đứng trước trận tiền vạch ra bảy tội lớn của Khương quốc, trong đó tội lớn nhất vô cùng thú vị, nhân chứng vật chứng chỉ thẳng chuyện tháng tư vừa rồi Khương mượn dao giết người giá họa cho Triệu giết Trần quốc thế tử Tô Dự.

Triệu vương lời lời đanh thép lên án Khương quốc lòng lang dạ sói, rắp tâm hùng bá một cõi, trăm phương ngàn kế chia rẽ hai nước Triệu, Trần hòng mưu lợi, may thay hai nước giao hảo đã lâu, lại có liên hôn tín ước mới tránh được cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Không ngờ Khương vương đến chết không chừa, để che giấu tội bất nghĩa với hai nước Trần, Triệu, lại bày ra khổ nhục kế tự chặt tay mình, giết chết thừa tướng Bùi Ý, chủ mưu hãm hại Triệu rồi giá họa lên đầu Triệu, hành động này của Khương vương trăm lần trái đạo quân vương, trên bất trung với thiên tử, dưới bất nghĩa với trung thần, khiến thiên hạ rùng mình.

Tôi cảm thấy lời cáo trạng đó, đoạn trước còn được, đoạn sau quả thật oan uổng cho Khương vương. Có thể đoán ra, tháng trước Mộ Ngôn đã nói thế nào để đánh lừa Triệu vương, cũng có thể đoán ra tại sao Triệu vương nhất nhất tin lời chàng, quả nhiên xuất binh, không có nguyên nhân khác, tất cả nhờ vào tài diễn xuất bẩm sinh của Mộ Ngôn.

Lấy gậy ông đập lưng ông, nước cờ này Mộ Ngôn đi rất tuyệt, lúc đầu khi Khương quốc bày mưu giăng lưới đâu có ngờ dẫn đến kết cục hôm nay, cũng đâu ngờ người có tư cách thu lưới cuối cùng lại không phải là mình mà chính là con cá mình giăng lưới muốn bắt.

Nhưng tôi nghĩ, với quốc lực của Triệu, dám tuyên chiến với Khương lại không phải là sự mạnh động nhất thời, ắt là khi kết đồng minh Mộ Ngôn đã hứa, nếu hai nước khai chiến, Trần sẽ đứng sau hậu thuẫn cho Triệu. Nhưng khi Mộ Nghi bí mật đưa tôi trở về Hạo thành lại không hề nghe nói Triệu đã thu được lợi gì trong chiến sự này.

Trái lại, nghe nói Khương vương phẫn nộ bởi bản cáo trạng bảy tội danh kia, lập tức điều binh khiển tướng kháng cự, toàn quốc trên dưới một lòng quyết kháng địch rửa hận, liên tục bảy ngày đại quân Triệu quốc không những không thể tiến thêm bước nào vào lãnh thổ của Khương, trái lại liên tục rút lui. Xem ra Mộ Ngôn đã không giữ lời khi kết đồng minh với Triệu.

Tháng mười là mùa thu hoạch, người ta đem ngũ cốc ủ rượu, những cánh đồng lúa bát ngát dưới chân núi Nhạn Hồi, xem ra Mộ Ngôn trị vì Vệ quốc rất tốt.

Phải cảm ơn Quân sư phụ đã dạy tôi bí quyết làm mặt nạ da người, từ nước Trần đến nước Vệ, đi một mạch trở về núi Nhạn Hồi, hai mươi ngày vừa đi vừa nghỉ, ngoài cơ thể thỉnh thoảng hơi khó chịu, dọc đường đều thuận lợi.

Hai mươi ngày trước, tôi tỉnh lại ở ven sông Khúc Diệp, đại khái là từ vách núi Trà lăn xuống vực rơi xuống dòng sông, trôi theo dòng nước chảy dạt đến sông Khúc Diệp, lúc vĩnh biệt Mộ Ngôn, tôi đã tưởng viên giao châu sẽ vỡ vụn trong tích tắc, nhưng khi tỉnh lại, đột nhiên lờ mờ nhìn thấy ảnh hình viên giao châu, viên minh châu lóng lánh như băng tuyết, một nửa đã vỡ, nửa kia đầy vết rạn.

Tôi nghĩ đó chính là nguyên nhân tôi vẫn còn sống, vậy là ông trời cũng có đức hiếu sinh, nhưng hiếu sinh chưa triệt để, những vết rạn mỗi ngày một sâu thêm là mang đi một phần tính mạng của tôi.

Theo đó, nhiều nhất tôi còn có thể gắng gượng ba, bốn tháng nữa. Tôi đã nghĩ có nên trở về tìm Mộ Ngôn, trên đời duy nhất có chàng khiến tôi không yên tâm, cảm thấy được nhìn chàng dù một lần cũng tốt.

Nhưng lại nghĩ, cuối cùng mình vẫn không thoát khỏi đoản mệnh, cho chàng hy vọng rồi lại khiến chàng thất vọng thì quá tàn nhẫn, hơn nữa, nếu gặp lại chàng, tôi sẽ không chịu nổi hiện thực tôi chỉ còn sống ba, bốn tháng trên đời. Nghĩ đi nghĩ lại, quyết định ba tháng còn lại này sẽ trở về nơi gặp chàng lần đầu, có những hồi ức đó về chàng là đủ để tôi vui trong những ngày cuối cùng.

Trên đường trở về núi Nhạn Hồi, đâu đâu cũng nghe thấy dân chúng bàn tán chuyện Trần vương qua đời, thế tử Tô Dự kế vị, ngày làm lễ đăng quang cũng là ngày phong vương hậu, nhưng ngự ở ngôi Trần vương hậu cao quý lại không phải là một phu nhân đoan trang mà là một linh vị bằng ngọc.

Tôi nhớ đến lần trong chiếc sân nhỏ xung quanh nở đầy hoa thiên quế, chàng từng nhăn nhó nói với tôi: “Cô nương định nói là âm hôn? Nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, đa tạ thịnh tình của cô nương”.

Mộ Ngôn, bởi em không cam lòng, trước lúc vĩnh biệt đã dặn chàng như vậy, cho dù chết vẫn muốn độc chiếm chàng. Nhưng… nhưng em chỉ nhất thời nói vậy thôi, chàng không cần nghiêm chỉnh thực hiện.

Nhưng nhất thời vẫn không thể kìm lòng, âm thầm rơi lệ.

Núi Nhạn Hồi vẫn như xưa, tính ra thời gian tôi rời đi cũng không dài, nhưng hai năm qua quả thực đã xảy ra bao nhiêu chuyện. Góc mái cong của phủ đệ Thanh Ngôn tông ẩn hiện dưới bóng cổ thụ sum suê có rừng trúc bao quanh đã là nơi tôi không thể quay về.

Sơn động sau núi vẫn bảo tồn hoàn hảo, bức họa khắc trên giường đá cũng chưa mờ. Tôi tạm thời ở lại trong động.

Phong cảnh ở đây tôi đã chứng kiến suốt mười sáu năm. Mùa xuân gió nhẹ, mùa hè nắng chói, mùa thu mây phủ, mùa đông tuyết rơi, mặc dù vẫn cảnh trí quen thuộc, trong lòng vẫn thấy lưu luyến, muốn lúc nào cũng có thể nhìn thấy nó, nhưng thể lực yếu đi từng ngày như nhắc thời gian không còn bao nhiêu.

Đêm thu lạnh, thỉnh thoảng có gió từ cửa động lùa vào, nằm trên giường đá không tiện, may phát hiện vách động có một cái hõm, phía trước có những dây leo rủ xuống, có thể tránh gió tránh rét.

Tôi đã chuẩn bị cho sự kết thúc của mình như vậy, thầm nghĩ nếu có thể biến thành tro bụi bay đến nơi này cũng coi như có thủy có chung. Không ngờ đêm thứ bảy, sau khi Mộ Ngôn vừa lên ngôi đã quay lại nơi này, quả là một sự bất ngờ.

Vào lúc trăng lặn, tôi đang co người trong hõm đá sau những chùm dây leo, nghe thấy bên ngoài cửa động có tiếng bước chân quen thuộc và ánh đuốc le lói, Mộ Ngôn ôm cây đàn thất huyền, cắm bó đuốc trong tay vào vách đá, mắt nhìn khắp động hồi lâu, quay người ngồi xuống chiếc bàn đá, để cây đàn bên cạnh.

Ánh đuốc chiếu sáng khắp động, chàng vận áo chùng đen như thuở ban đầu. Vẫn dáng hào hoa như cái đêm giữa hạ đầy sao, nhưng đôi mắt đen u sầu, nụ cười trên miệng biến mất, nét mặt xanh xao bệnh tật.

Lòng tôi đau nhói. Chàng dừng lại trên khoảnh đất trống giữa động, cau mày cúi đầu ngắm nghía, đó chính là chỗ tôi dùng cành cây vẽ bức tranh tặng chàng, bây giờ không còn nữa.

Rất lâu sau, như nghĩ ra điều gì, chàng sải mấy bước đến trước giường đá. Tôi thấy chàng cúi xuống, ngón tay thon dài lần từng tấc bức họa khắc trên đó, lát sau thong thả nói: “Vẽ khá lắm, xem ra có tiến bộ, tôi vẫn nhớ bức họa em vẽ trên đất tặng tôi cũng không quá tồi. Kỳ thực tôi đã nhìn ra em định vẽ gì, chỉ là muốn đùa em một chút”.

Nếu là lúc thường tôi nhất định trợn mắt hét lên với chàng: “Chàng thật quá đáng”.

Nhưng hôm nay đành mím môi thật chặt, cố kiềm chế không để bật ra một tiếng, chàng thật quá đáng, luôn trêu chọc tôi, vậy mà lần nào tôi cũng tưởng thật, nếu như vẫn còn tương lai, tôi nhất định bắt đền chàng gấp mấy lần, nhưng tôi tuyệt nhiên không còn tương lai nữa.

Có điều, bây giờ tôi vẫn sống, lại trốn chàng như thể Quân Phất không còn ở trên đời, như thế chẳng phải đang đùa giỡn chàng ư? Không hiểu nếu chàng biết sẽ giận thế nào, nhưng mong chàng mãi mãi không biết.

Tiếng đàn dìu dặt vang lên trong động, vầng trăng đã lặn cơ hồ lại mọc, chàng cúi đầu gảy đàn, dáng phong lưu tự tại đó không ai có thể bắt chước.

Thực ra nếu chàng không sinh ra đã là thế tử Trần quốc, có lẽ một ngày nào đó sẽ trở thành đệ nhất cầm sư trong thiên hạ, xem ra ở đời đúng là có được có mất.

Trong ánh đuốc hồng một con bướm đỏ không biết từ đâu bay đến, đôi cánh dập dờn quấn quýt bên chàng, dường như cũng hiểu những thanh âm êm như nước chảy tuôn ra từ cây đàn. Tiếng đàn chợt ngừng, khuôn mặt đờ đẫn của chàng đột nhiên chấn động, hiện ra vẻ dịu dàng quen thuộc. nguồn TruyenFull.vn

Con bướm lặng lẽ đậu trên ngón tay chàng, giọng chàng run run: “A Phất, có phải em không?”.

Tôi bịt chặt miệng, ngăn tiếng nức nở bật ra, nhưng sao có thể là tôi, Mộ Ngôn, chàng trước nay thông minh lý trí, sao lúc này lại có liên tưởng dị thường như vậy.

Con bướm đậu một lát, vẫy đôi cánh mỏng định bay đi, chàng nhổm dậy định ngăn lại, trong lúc vội vàng chạm vào dây đàn, một chuỗi thanh âm ào ạt như nước trong nguồn phá đá trào ra, con bướm đỏ lại liệng một vòng rồi đậu xuống cây đàn.

Một con bướm kỳ lạ, có lẽ trong huyết mạch Mộ Ngôn cũng di truyền tố chất dụ bướm của Mộ Dung An, ngón tay chàng nhẹ nhàng gảy dây tơ, giọng lặng trầm đau đớn, khẽ nói: “Em muốn nghe ta đàn? Vậy em muốn nghe khúc nào?”.

Bướm không trả lời, tôi muốn trả lời nhưng không thể. Chàng đột nhiên mỉm cười, nụ cười thấm buồn của chàng mê hồn hơn bất cứ lúc nào, đau như dao cắt hơn bất cứ lúc nào: “Vậy, tôi sẽ đánh tất cả những khúc nhạc tôi biết cho em nghe, được không?”.

Đuốc cháy gần hết, bên ngoài trời đã rạng, rồi mặt trời lên, mặt trời lặn, tàn quang cuối cùng ánh lên tầng không đỏ như sắc máu. Quả nhiên chàng gảy hết những khúc nhạc đã biết, chẵn một đêm, chẵn một ngày, thanh âm như nước chảy không ngừng. Tôi náu trong hốc động, lòng quặn đau nhìn ngón tay chàng rớm máu, chỉ biết bịt miệng thật chặt, ngăn tiếng nấc.

Nỗi đau âm ỉ dường như dồn cả lại trong một ngày một đêm này, tôi có cảm giác mình đã chịu hết nỗi thống khổ chia ly của cả ba tháng cuối cùng trong đời. Trong cơn đau giằng xé, tôi bất giác muốn trách ông trời, tại sao trong tháng cuối cùng không cho tôi thanh thản, để tôi chứng kiến chàng đau đớn như vậy. Nhưng cùng với nỗi đau, một niềm hạnh phúc bi thương cũng âm thầm lan tỏa trong tôi.

Nếu không có Mộ Nghi can ngăn, không biết chàng sẽ còn gảy đến bao giờ, mặc dù từ trước tôi luôn mơ ước như vậy, mơ được chàng gảy cho nghe tất cả những nhạc khúc chàng biết, nhưng khi đêm đến, nghe thấy tiếng đàn như nước nguồn không dứt đó, nhìn những dây tơ dính máu dưới tay chàng, lòng lại âm thầm day dứt, sao chàng biết quá nhiều nhạc khúc như vậy.

Thanh âm vừa dừng, con bướm đỏ đậu trên thân đàn chẵn một ngày đêm giống như được tạc trên đó đột nhiên giật mình, vỗ cánh liệng một vòng rồi bay thẳng ra ngoài cửa động, mặc cho tiếng đàn lại vang lên như níu kéo. Mộ Ngôn vội đứng lên đuổi bắt, bị Mộ Nghi ngăn lại, trong động chỉ có tiếng nói nghẹn ngào của cô: “Nếu đó đúng là tẩu tẩu, tẩu ấy sẽ không bỏ ca ca một mình bay đi, nhưng cho dù đó là tẩu tẩu, lẽ nào ca ca định sống suốt đời với một con bướm?”.

Con bướm đỏ đã bay xa, mất hút trong ánh trăng mờ, Mộ Ngôn quay lưng lại, nhìn không rõ sắc mặt, chàng không đuổi theo nữa, cũng không nói gì. Có lẽ cuối cùng chàng tỉnh táo trở lại, biết đó không phải là tôi. Mộ Nghi nói đúng, nếu là tôi, tôi sẽ không bỏ chàng một mình, tôi không nỡ.

Đuốc lại được đốt lên, bóng chàng đổ dài in lên vách đá, giơ tay là có thể chạm vào, tôi định thử làm vậy, cuối cùng lại thôi. Trong không khí trầm mặc dài lâu, Mộ Nghi khẽ nói: “Ca ca, tẩu tẩu là người thế nào?”.

Trong động chỉ có tiếng đuốc cháy xèo xèo, giọng chàng trầm trầm: “Rất hay làm nũng, hay giận hờn, hay khóc”.

Mộ Nghi ngập ngừng, “Một tiểu thư như thế trong thiên hạ đâu chẳng có, huynh… huynh hà tất…”.

Chàng quay người: “Đó là lúc có ta ở bên…”. Chàng cúi xuống lầm lũi bỏ cây đàn vào bao: “… những khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.

Nước mắt nhập nhòa rồi tuôn như mưa xuống má, cũng không muốn lau. Một trận gió thổi tới, rẽ ra những sợi dây leo trước mặt, tôi hốt hoảng nép người về phía sau, nhưng chỉ là hoảng sợ vô ích, ngước mắt đã thấy bóng hai người một trước một sau chầm chậm ra khỏi cửa, trong động chỉ còn ánh đuốc tàn đổ bóng xuống mặt đất.

Tôi tưởng tất cả sẽ kết thúc ở đó, không ngờ mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Mộ Ngôn không phát hiện ra tôi, bởi trong động không có dấu vết của người sống. Tôi là người chết, không cần nồi niêu bát đũa, cũng không cần đốt lửa xua đuổi dã thú, lại thêm sức lực yếu dần, trước khi chàng đến, tôi đã nằm lỳ hai ngày trong hốc đá.

Thầm nghĩ có thể họ sẽ quay lại, ngày hôm đó tôi vẫn không ra khỏi chỗ ẩn náu, sáng hôm sau đoán là sẽ không có gì sơ sảy, mới loạng choạng ra khỏi động đến con suối gần đó. Mang mái tóc dài đẫm nước quay về, lại sững người nhìn thấy cô gái áo xanh đứng cạnh chiếc giường đá cúi đầu chăm chú vẽ gì đó trên giấy.

Không kịp trốn, tôi ngẩng đầu, đôi mắt đen tròn như hạnh nhân của cô ấy bỗng mở to, nhìn chằm chằm bóng người ở cửa động. Tôi bước đến, nhẹ giọng hỏi: “Ba tháng không gặp, muội vẫn khỏe chứ, Mộ Nghi?”.

Bức họa trong tay cô hơi run, chằm chằm nhìn tôi, lát sau đôi tròng đen giàn giụa nước mắt: “Muội không biết tẩu là người hay là ma, có phải tẩu vẫn ở trong động này? Nhưng tại sao bây giờ mới xuất hiện, người tẩu cần gặp phải là ca ca của muội chứ”.

Không thể nói sự thật với cô, nhưng thấy cô khóc như vậy, tôi không đành lòng, mặc dù tôi cũng thường xuyên rơi nước mắt, nhưng sợ nhất người khác khóc trước mặt mình. Không biết làm thế nào, đành quay người định đi, đằng sau truyền đến tiếng khóc to hơn của Mộ Nghi: “Tẩu nhẫn tâm như vậy ư?”.

Bên ngoài có gió, mấy chiếc lá phong rơi trên cửa động, tôi dằn lòng cắm cúi bước tiếp, được mấy bước, hai chân chậm dần, cuối cùng dừng lại.

Sau lưng là tiếng nói nghẹn ngào của Mộ Nghi: “Ngày tẩu rơi xuống vực, ca ca cũng nhảy theo, ca ca muốn đuổi theo tẩu, từ vách núi lăn xuống dòng sông nước xiết, vùng vẫy tìm kiếm cuối cùng chỉ vớt được chiếc áo tím của tẩu, tẩu không biết khi thị vệ tìm thấy, bộ dạng ca ca thế nào đâu, cơ hồ nửa mạng sống đã bị Diêm vương lấy đi, nhưng trở về hành cung tuyệt nhiên không nhắc tới tẩu nửa câu, nghỉ ngơi nửa ngày liền bắt tay lo liệu tang lễ cho phụ vương. Ca ca xưa nay dù gặp bất cứ việc gì cũng luôn điềm tĩnh, chúng tôi đều tưởng ca ca chỉ là mê muội nhất thời, dường như đã nghĩ thông, không ngờ lo xong tang lễ cho phụ vương, ca ca đóng cửa giam mình ba ngày trong phòng. Ngày đăng quang, tay bê linh vị của tẩu, đích thân đặt vào bảo tọa dành cho vương hậu sau lưng, tẩu nhất định không biết, linh vị đó ca ca tự tay tạc suốt ba ngày không ngủ”.

Tôi ngước mắt nhìn trời, tầng không thăm thẳm xanh ngắt bao la, mây trắng lững lờ. Đó là lỗi của tôi, là niềm lưu luyến của tôi, chàng không nên yêu tôi. Một người sống yêu một người đã chết làm sao có tương lai.

Ngày trước tôi chỉ muốn ở bên chàng, gần chàng hơn nữa, để sau khi ra đi không còn gì tiếc nuối, nhưng hoàn toàn không nghĩ nếu có ngày tôi rời xa chàng, chàng sẽ thế nào. Tôi đã sai.

Mộ Nghi từ phía sau bước đến, giọng vẫn run run nghẹn ngào: “Tại sao tẩu vẫn không ngoái lại? Tẩu cảm thấy như thế vẫn chưa đủ sao? Nếu muội nói với tẩu, giờ đây vì tẩu ngay cả kiếm ca ca cũng không muốn động vào nữa, tẩu có động lòng hay không?”.

Tôi quay phắt lại, khó nhọc nói: “Thế là thế nào?”.

Cô giơ ống tay áo lau nước mắt, cố nở nụ cười còn khó coi hơn khóc: “Ca ca kiếm thuật cao cường như vậy, gặp sự cố ra tay nhanh như chớp, khiến hộ vệ tùy tùng xấu hổ. Nhưng hôm đăng quang, trên yến tiệc có thích khách, rõ ràng có thể kịp thời tránh mũi kiếm, ca ca lại… muội đi xem vết thương của ca ca, hỏi mãi, ca ca chỉ nói, ca ca đã không thể dùng kiếm nữa. Về sau muội mới biết, do ca ca đã đâm nhầm tẩu nên không thể chạm vào kiếm nữa. Lần này cũng thế, để kịp sinh nhật tẩu, cơ thể ca ca dù chưa bình phục, vẫn vượt ngàn dặm trở về núi Nhạn Hồi. Mặc dù ca ca không nói gì, nhưng muội cũng nghĩ, ca ca đến đây hoàn toàn là vì tẩu. Vậy mà tẩu lại nhẫn tâm như thế, nhẫn tâm đến mức rõ ràng vẫn sống mà lại giấu ca ca, ca ca ở trước mặt tẩu, tẩu cũng không lộ diện, tẩu nhẫn tâm để ca ca…”.

Hang động rất cao, lần đầu phát hiện thì ra trên đỉnh có nhiều chỗ bị xói mòn. Phải, sao lại nhẫn tâm đến thế, tôi không nhẫn tâm, nhưng nỗi đau trong lòng lại từ từ dâng lên, lát sau, tôi nghe thấy tiếng mình lạc giọng: “Mộ Nghi, giúp tôi một việc được không”.

Trên đường đến Hạo thành, nghe đồn hai nước Triệu – Khương khai chiến. Chuyện này vừa trong dự đoán lại vừa ngoài dự đoán. Cuối tháng tám, Mộ Ngôn đến Triệu, cùng hội đàm với Triệu vương, với tính cách nóng nảy của Triệu vương, tôi tưởng nhiều nhất không quá nửa tháng sẽ tuyên chiến với Khương, không ngờ lại kìm được cơn thịnh nộ, trì hoãn đến tận đầu tháng mười.

Nghe đồn hôm tuyên chiến, Triệu vương đích thân đứng trước trận tiền vạch ra bảy tội lớn của Khương quốc, trong đó tội lớn nhất vô cùng thú vị, nhân chứng vật chứng chỉ thẳng chuyện tháng tư vừa rồi Khương mượn dao giết người giá họa cho Triệu giết Trần quốc thế tử Tô Dự.

Triệu vương lời lời đanh thép lên án Khương quốc lòng lang dạ sói, rắp tâm hùng bá một cõi, trăm phương ngàn kế chia rẽ hai nước Triệu, Trần hòng mưu lợi, may thay hai nước giao hảo đã lâu, lại có liên hôn tín ước mới tránh được cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Không ngờ Khương vương đến chết không chừa, để che giấu tội bất nghĩa với hai nước Trần, Triệu, lại bày ra khổ nhục kế tự chặt tay mình, giết chết thừa tướng Bùi Ý, chủ mưu hãm hại Triệu rồi giá họa lên đầu Triệu, hành động này của Khương vương trăm lần trái đạo quân vương, trên bất trung với thiên tử, dưới bất nghĩa với trung thần, khiến thiên hạ rùng mình.

Tôi cảm thấy lời cáo trạng đó, đoạn trước còn được, đoạn sau quả thật oan uổng cho Khương vương. Có thể đoán ra, tháng trước Mộ Ngôn đã nói thế nào để đánh lừa Triệu vương, cũng có thể đoán ra tại sao Triệu vương nhất nhất tin lời chàng, quả nhiên xuất binh, không có nguyên nhân khác, tất cả nhờ vào tài diễn xuất bẩm sinh của Mộ Ngôn.

Lấy gậy ông đập lưng ông, nước cờ này Mộ Ngôn đi rất tuyệt, lúc đầu khi Khương quốc bày mưu giăng lưới đâu có ngờ dẫn đến kết cục hôm nay, cũng đâu ngờ người có tư cách thu lưới cuối cùng lại không phải là mình mà chính là con cá mình giăng lưới muốn bắt.

Nhưng tôi nghĩ, với quốc lực của Triệu, dám tuyên chiến với Khương lại không phải là sự mạnh động nhất thời, ắt là khi kết đồng minh Mộ Ngôn đã hứa, nếu hai nước khai chiến, Trần sẽ đứng sau hậu thuẫn cho Triệu. Nhưng khi Mộ Nghi bí mật đưa tôi trở về Hạo thành lại không hề nghe nói Triệu đã thu được lợi gì trong chiến sự này.

Trái lại, nghe nói Khương vương phẫn nộ bởi bản cáo trạng bảy tội danh kia, lập tức điều binh khiển tướng kháng cự, toàn quốc trên dưới một lòng quyết kháng địch rửa hận, liên tục bảy ngày đại quân Triệu quốc không những không thể tiến thêm bước nào vào lãnh thổ của Khương, trái lại liên tục rút lui. Xem ra Mộ Ngôn đã không giữ lời khi kết đồng minh với Triệu.

Bình luận
× sticky