Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Juliet

Chương 9

Tác giả: Anne Fortier

Cái chết phủ lên con như màn sương giá sớm

Đọng trên đóa hoa đẹp đẽ nhất của cả cánh đồng.

…..

— ——–oOo—- ——-

Chúng tôi phóng xe trên những con đường miền quê muôn đời tăm tối, lên dốc, xuống đồi, qua các thung lung và làng mạc đang ngủ say. Janice không dừng lại lần nào để nói chúng tôi đi đâu, và tôi cũng chẳng quan tâm. Chúng tôi đang di chuyển, thế là đủ, và trong một khoảng thời gian, tôi sẽ không phải quyết định gì hết.

Cuối cùng, khi chúng tôi rẽ vào một con đường mấp mô ở rìa làng, tôi đã mệt đến mức thèm được cuộn tròn trong luống hoa mà ngủ liền một tháng. Chỉ còn ngọn đèn pha mô tô dẫn dường cho chúng tôi, rẽ ngoằn ngoèo qua vùng hoang dã đầy những cây to cao vút và cây bụi rồi cuối cùng, đỗ lại trước một ngôi nhà tối om.

Tắt máy, Janice bỏ mũ, giữ tung mái tóc và ngoái nhìn tôi qua vai:

– Đây là nhà của mẹ. trên thực tế, hiện giờ nó là của chúng ta. – Nó rút ra một chiếc đèn pin nhỏ trong túi. – không có điện nên em phải trữ cái này. – Nó đi đến một cửa ngách, mở khóa và giữ cửa cho tôi. – Chào mừng chị về nhà.

Một hành lang hẹp dẫn chúng tôi thẳng tới một căn phòng có lẽ từng là bếp. Ngay cả trong bóng tối, hiển nhiên vẫn thấy đầy bụi và rác, không khí nồng nặc mùi ẩm mốc giống mùi quần áo ướt thối trong cái hòm mây.

– Em bảo là tối nay, chúng ta cắm trại ở đây, – Janice nói tiếp lúc châm vài cây nến, – không có nước và mọi thứ bụi bặm kinh khủng, nhưng trên gác còn tệ hại hơn. Cửa trước hoàn toàn bị đóng chặt.

– Làm sao em tìm ra nơi ngày trên đời? – tôi nói, trong phút chốc tôi quên bẵng mình mệt và rét biết chừng nào.

– Không dễ đâu, – Janice kéo khóa, mở một túi khác và lấy ra tấm bản đồ được gấp gọn gàng. – Hôm qua sau khi chị và cái gã – đẹp – mã ấy lên đường rồi, em đi mua cái này. Lẽ tất nhiên, cố tìm đường đi ở miền quê này…- Thấy tôi không cầm bản đồ để xem, nó soi thẳng cái đèn vào mặt tôi và lắc đầu. – Nhìn chị kìa, nhếch nhác đến khiếp. Và chị có biết gì không? Em biết chuyện này sẽ xảy ra! Mà em đã bảo rồi! nhưng chị không nghe! Lúc nào cũng thế….

– Chị xin lỗi! – Tôi trừng trừng nhìn Janice, chẳng còn bụng dạ nào để ý đến sự hả hê của nó. – Em có biết chính xác quả cầu bằng thạch anh là gì không? Có một số nghi lễ bí truyền sẽ…làm chị đê mê và…?

Thay vì quát trả tôi như nó thèm được làm, Janice chỉ gõ cái bàn đồ vào mũi tôi và nói, nghiêm túc:

– Em biết giống ngựa Ý mang điềm gở. Em đã bảo chị thế rồi. Jules, cái gã này,…

Tôi gạt cái bản đồ và ôm mặt:

– Thôi đi! Chị không muốn nói chuyện ấy. Ngay lúc này. – Khi nó vẫn chỉ cái đèn vào tôi, tôi giơ tay và gạt nốt đi. – Đầu chị đau muốn vỡ tung ra đây!

– Khổ thân chị, – Janice nói, giọng châm biếm mà tôi thừa biết. – Tai họa suýt tránh được ở Tuscany đêm nay….Chị tôi đã cứu được cái trinh tiết kiểu Mỹ…nhưng phải chịu cơn đau đầu dữ dội.

– Ừ, cứ cười chị đi, – tôi lẩm bẩm. – Chị đáng bị thế lắm,

Tưởng nó tiếp tục, tôi bối rối thấy nó không nói nữa. Cuối cùng, tôi buông tay và thấy nó đang trân trân nhìn mình, hơi chế nhạo. Rồi miệng nó trễ ra, mắt nó tròn xoe.

– Không! Chị đã ngủ với hắn, đúng không?

Khi không thấy phản bác mà chỉ có những giọt nước mắt, nó thở dài thườn thượt và quàng tay ôm tôi.

– Ờ, chị đã nói thà bị hắn lừa còn hơn bị em lừa. – Nó hôn lên tóc tôi. – Em mong cũng bõ công,

Cắm trại trên những cái áo bành tô nhậy cắn và những tấm nệm trên sàn bếp, quá khó ngủ, chúng tôi nằm nhiều giờ trong bóng tối rạng dần, mổ xẻ hành động phiêu lưu của tôi ở lâu đài Salimbeni. Mặc dù những bình luận của Janice tới tấp đến như mưa và rất kỳ cục, cuối cùng chúng tôi vẫn nhất trí trong hầu hết các việc, trừ vấn đề liệu tôi có nên “vui vẻ” với anh chàng đại bàng kia không – theo cách nói của janice.

– Đấy là ý kiến của em, – cuối cùng tôi nói và quay lưng đi, cố khép lại đề tài này, – nhưng dẫu chị biết hết mọi việc như chị biết lúc này, chị vẫn sẽ làm thế.

Phản ứng duy nhất của Janice là một lời chua cay:

– Sáng danh Chúa! Em mừng vì chị đã lấy được cái gì đó cho số tiền của chúng ta

Một lát sau, chúng tôi vẫn nằm, quay lưng vào nhau trong sự im lặng ương ngạnh, đột nhiên nó thở dài và lầm bầm.

– Em nhớ bà Rose

Không hiểu rõ ý nó – những câu cảm thán loại này chẳng giống nó tí nào, – tôi suýt bật ra lời nhận xét mỉa mai về nỗi nhớ bà Rose của nó, vì bà sẽ đồng ý với nó chứ không với tôi về việc tôi đã khờ dại nhận lời mời của Eva Maria. Nhưng tôi thấy mình lại trả lời một cách giản dị:

– Chị cũng thế.

Mà đúng thế thật. Một lát sau, hơi thở của nó chậm dần và tôi biết nó đã ngủ. Còn mình tôi với bao ý nghĩ ngổn ngang, tôi ước giá mình có thể chết như bà và bay đi trong vỏ quả phỉ, để trái tim nặng trĩu lại đằng sau.

Sáng hôm sau – hay đúng hơn, là quá trưa – chúng tôi ngồi trên bậc thềm dễ sập trước nhà dưới nắng, chia nhau chai nước và một thỏi granola, thỉnh thoảng lại véo nhau một cái để biết chắc là mình không mơ. Trước hết Janice kể với tôi rằng nó đã rất khó khăn mới tìm ra ngôi nhà, và nếu không có những người dân bản xứ thân thiện chỉ đúng hướng, nó sẽ không bao giờ có thể nhận ra vẻ đẹp mơ màng của ngôi nhà ẩn mình ở nơi hoang vu, trước kia có đường cho xe chạy và sân trước nhà.

– Em mất khối thời gian mới mở được cổng, – nó kể. – Nó bị kẹt vì gỉ nhoèn. Chưa kể cánh cửa. Em không thể tin rằng một ngôi nhà có thể vẫn tồn tại như thế này, hoàn toàn trống rỗng suốt hai chục năm, không ai dọn đến ở hoặc tiếp quản cơ ngơi.

– Đây là Italy, – tôi nhún vai, nói. – Hai chục năm chẳng là gì. Ở đây, thời gian không thành vấn đề. Mà ai dám làm thế, khi bị những hồn ma vây quanh? Chúng ta gặp may là họ để chúng ta lảng vảng quanh quất một thời gian, ra vẻ chúng ta thuộc về nơi này.

Janice khịt mũi:

– Em cược là sự bất tử đang tàn. Chính vì thế người ta người ta mới khoái đùa giỡn với những người xinh xắn thú vị, – nó toét miệng cười và liếm môi trên khêu gợi, – như chị.

Thấy tôi vẫn không sao cười nổi, nụ cười của nó trở nên thông cảm hơn, gần như chân thành. – Nhìn chị kìa, chị nghĩ đi đâu thế? Thử hình dung xem, nếu họ tóm được chị. Họ sẽ…em chẳng biết nữa… – Janice khó mà tưởng tượng nổi sự ghê rợn tôi phải trải qua. – Chỉ mừng là em gái chị đã tìm thấy chị đúng lúc.

Thấy vẻ hy vọng của nó, tôi vòng tay ôm và siết nó thật chặt.

– Chị mừng! Hãy tin chị. Chị chỉ không hiểu vì sao em tới được đó? Con đường từ đây đến lâu đài Salimbeni thật kinh khủng. Tại sao em không để mặc hị..

Janice nhìn tôi, nhếch lông mày:

– Chị đang nói xỏ em đấy ư? Bọn khốn ấy đã lấy trộm cuốn sách của chúng ta! Đây là lúc đòi lại! Nếu chị không cuống cuồng chạy ra đường dành cho xe, em sẽ phải đột nhập và tìm kiếm khắp cái lâu đài trời đánh ấy.

– Ờ, đây là ngày may mắn của em! – tôi đứng dậy đi vào bếp, chộp lấy cái túi xách của mình. – đây! – Tôi ném cái túi về phía chân Janice. – Đừng nói chị không làm việc theo nhóm đấy.

– Chị đang phỉnh! – Nó háo hức kéo khóa mở túi và bắt đầu lục lọi. Nhưng chỉ sau vài giây, nó lùi lại tỏ vẻ ghê tởm. – Eo ơi! Cái gì thế này?

Cả hai chúng tôi nhìn chằm chặp vào hai bàn tay nó. Chúng nhoe nhoét máu hoặc một thứ gì đó rất giống máu.

– Lạy chứa tôi, Jules! Janice thở hổn hển. – Chị đã giết ai đấy? Trời ạ! Cái này là cái gì vậy? – Nó ngửi bàn tay, vẻ e sợ. – Đúng là máu. Đừng bảo em đây là máu của chị, vì nếu thế, em sẽ quay lại đó ngay và biến thằng cha ấy thành một tác phẩm nghệ thuật hiện đại!

Vì lý do nào đó, nó nhăn nó hung hăng khiến tôi phì cười, có lẽ vì tôi chưa quen với sự ủng hộ của nó như thế này.

– Suýt chết! – Nó nói, quên cả giận khi thấy rốt cuộc, tôi đã cười. – Chị làm em phát hoảng. Đừng làm thế lần nữa đấy.

Chúng tôi cầm túi và dốc ngược. Quần áo của tôi, cũng như cuốn Romeo và Juliet rơi tứ tung, và may thay, không bị hư hại nhiều. Tuy vậy, cái lọ nhỏ màu xanh bí ẩn đã vỡ tan tành, chắc là vì tôi ném cái túi qua cổng trong lúc bỏ chạy.

– Cái này là gì nhỉ? – Janice nhặt một mảnh thủy tinh vương vãi và lật đi lật lại trong tay. – Đấy là cái lọ nhỏ, – tôi nói, – mà chị kể với em; cái lọ Umberto đưa cho Alessandro, nó khiến anh ta thực sự bực mình.

– Hừ. – Janice lau tay lên cỏ. – Ít ra bây giờ chúng ta cũng biết nó đựng gì. Máu. Thử nghĩ xem. Có lẽ chị đúng và bọn họ là ma cà rồng thật. Có khi đây là bữa ăn nhẹ giữa buổi sáng…

Chúng tôi ngồi đó một lúc, suy nghĩ đến các khả năng. Vào một thời điểm, tôi nhặt mảnh lụa thưởng và ngắm nghía, ân hận.

– Thật xấu hổ. Làm sao mà tẩy được máu trên thứ lụa cổ này?

Janice cầm một góc và chúng tôi căng mảnh lụa ra, ngắm chỗ bị dây máu. Phải thừa nhận rằng, cái lọ không phải là thủ phạm duy nhất, nhưng tôi biết tốt hơn là kể với nó điều đó.

– Lạy Đức Mẹ thiêng liêng, mẹ của Chúa Trời! đây là toàn bộ ý kiến: chị đừng tẩy máu đi. đây đúng là thứ họ muốn mảnh lụa thưởng trông như thế. Chị không thấy sao?

Nó nhìn tôi chăm chú, thiết tha, nhưng chắc là trông tôi đờ đẫn lắm.

– Giống như ngày xưa, – nó giải thích, – các bà già kiểm tra khăn trải giường vào buổi sáng hôm sau lễ cưới! Em cược với chị chắc nịch rằng, – nó nhặt hai mảnh cái lọ vỡ, cả cái nút lên, – đây là hoặc đã là thứ trong giới mai mối bọn em nhắc đến như một bằng chứng trinh tiết. Không chỉ có máu, mà là máu trộn với thứ khác. Đây là một kỹ thuật rất cao, tin em đi.

Nhìn vẻ mặt tôi, nó cười phá lên.

– Ơ kìa, vẫn thế mà lại. Chị không tin em à? Chị tưởng chỉ thời Trung Cổ người ta mới xem xét các tấm vải trải giường à? Nhầm to! Chúng ta đừng quên là một số nền văn hóa vẫn sống trong thời Trung cổ. Thử nghĩ xem: nếu chị trở lại đây và bị gả tống cho một ông anh họ chăn dê nào đấy, nhưng – chao ôi! – chị đã làm đủ chuyện ngu dại với Tom, Harry và Dick…thì chị sẽ làm gì? Có khả năng rằng, chú rể chăn dê cộng với bố mẹ chồng chị sẽ chẳng vui gì khi thấy có kẻ đã xơi tái thứ thượng hạng kia rồi. Giải pháp là: chị có thể thu xếp vào một bệnh viện tư. Phục hồi mọi thứ rồi trải qua cái việc chết tiệt kia lần nữa, chỉ để vui lòng khán giả. Hoặc là chị có thể lén mang theo một lọ nhỏ thứ này đến bữa tiệc. Rẻ hơn nhiều.

– Nghĩ thế là quá xa vời…- Tôi phản đối.

– Chị biết em nghĩ gì không? – Janice nói tiếp, mắt lấp lánh. Em cho rằng bọn họ đã bố trí cho chị một dịp vui thú. Em nghĩ họ đã đánh thuốc mê cho chị – hoặc chí ít là thử – và hy vọng chị sẽ không còn tỉnh táo sau những trải nghiệm nhẹ dạ với tu sĩ Lorenzo và cả nhóm mơ mộng, thế là họ dẫn tới và khều mảnh lụa thưởng rồi bôi bẩn bằng thứ này, làm cho nó trông giống như chàng Romeo cổ lỗ đã lái cả cỗ xe tình ái vào thành phố anh đào.

Tôi nhăn mặt, nhưng hình như Janice không nhận thấy.

– Lẽ tất nhiên là rất trớ trêu, – nó nói tiếp, quá mải mê với những lập luận dâm dật nên không nhận ra vẻ khó chịu ra mặt của tôi về đề tài và kiểu dùng từ của nó, – vì họ có thể tránh được sự phiền toái trời đánh ấy. Đấy cho cả hai tiến tới và đằng nào cũng nhồi mẩu thịt sống ấy vào. Giống như Romeo và Juliet. Chà chà! Từ vũ hội đến ban công rồi lên giường là năm chục trang. Hãy cho em biết: chị đã thử phá kỷ lục của họ chưa? – Nó phấn khởi nhìn tôi, rõ là hy vọng được một cái xoa đầu và miếng bánh quy thưởng cho cô gái thông minh như thế.

– Liệu nhân loại có ai thô bỉ hơn cô không?

Janice toe toét như thể đây là lời khen ngợi hay nhất.

– Chắc là không. Nếu chị muốn chuyện ấy đầy chất thơ, hãy lê bước trở lại với thằng cha ấy của chị.

Tôi dựa vào khung cửa vào nhắm mắt lại. Mỗi lần Janice nhắc đến Alessandro bằng lối nói tục tĩu tởm lợm của nó, những hồi tưởng nho nhỏ về đêm trước – một số đau đớn, một số không – giữ cho tôi nhãng khỏi thực tế hiện tại. Nhưng nếu tôi bảo nó ngừng, gần như chắc chắn nó sẽ làm ngược lại.

– Chị không hiểu, – tôi nói, quyết buộc cả hai chúng tôi suy nghĩ tiếp và hiểu cảnh ngộ cho trọn vẹn, – tại sao họ phải có cái lọ này? Ý chị là, nếu họ thực sự muốn kết thúc lời nguyền với gia tộc Tolomei và Salimbeni, có lẽ điều cuối cùng họ làm là tổ chức đêm cưới giả cho Romeo và Giulietta. Chẳng lẽ họ tưởng đánh lừa được Đức Mẹ Đồng Trinh ư?

Janice bĩu môi.

– Chị nói đúng. Chẳng có lý tí nào.

– Theo chị hiểu, – tôi nói tiếp, – người duy nhất họ muốn đánh lừa – ngoài chị ra – là tu sĩ Lorenzo. Hay đúng hơn là ông sẽ bị lừa, nếu họ dùng thứ trong lọ.

– Nhưng bọn chúng muốn bịp tu sĩ Lorenzo làm cái quỷ gì? Janice giơ hai tay lên.

– Lão ta chỉ là một di vật cổ. Trừ khi…- nó nhìn tôi, lông mày nhếch lên, – lão thầy tu đã tiếp cận được thứ bọn chúng chưa có. Một thứ quan trọng. Một thứ bọn chúng muốn có. Ví như…?

Tôi bật thẳng dậy.

– Ngôi mộ của Romeo và Giulietta chăng?

Chúng tôi nhìn nhau chằm chặp.

– Em nghĩ, Janice nói, chậm rãi gật đầu, – đấy là một suy luận đúng đắn. Tối hôm đó ở nhà danh họa Lippi, khi nói đến thứ đó, em tưởng chị điên. Nhưng có lẽ chị đúng. Có thể một phần trong toàn bộ việc xóa bỏ lỗi lầm của chị dính dáng đến ngôi mộ thật và pho tượng thật. Sao mà…sau khi biết chắc cuối cùng Romeo và Giulietta cùng nhau, nhà Tolomei và Salimbeni phải đến mộ và quỳ gối trước pho tượng?

– Nhưng lời nguyền nói quỳ gối trước Đức Mẹ Đồng Trinh cơ mà.

– Thế sao? – Janice nhún vai. – Rõ ràng là pho tượng ở đâu đó gần tượng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, vấn đề là bọn chúng không biết địa điểm chính xác. Chỉ tu sĩ Lorenzo biết. Chính vì thế chúng cần ông ta.

Chúng tôi ngồi im lặng một lúc, tính toán mọi nhẽ. Cuối cùng, tôi nói và vuốt ve mảnh lụa thưởng.

– Em biết không, chị không cho là người ấy biết.

– Ai kia?

Tôi liếc nhìn nó, mà nóng bừng.

– Là…anh ta.

– Thôi đi, Jules! Janice rên lên, – Đừng bảo vệ cái loài rắn rết ấy nữa đi. Chị đã nhì thấy hắn với Umberto, và…- nó cố kìm nén sự cáu kỉnh trong giọng nói, nhưng đây là một việc mới vơi nó, và nó không thành công, – hắn đã đuổi theo chị và bảo chị trả lại cuốn sách. Đương nhiên hắn phải biết.

– Nếu em đúng, – tôi nói, cảm thấy muốn trả miếng và bảo vệ Alessandro đến ngớ ngẩn, – về mọi chuyện này, khi đó anh ta sẽ làm theo kế hoạch và không…

– Dính dáng đến các quan hệ thể xác? – Janice gợi ý nghiêm túc.

– Đúng thế, – tôi gật đầu. – Thêm nữa, anh ta sẽ không ngạc nhiên khi Umberto đưa cái lọ. Thực ra, anh ta đã có lọ rồi.

– Kìa chị! – Janice nhìn tôi qua vành cốc tưởng tượng, – hắn đã đột nhập vào phòng chị, nói dối chị, ăn trộm cuốn sách của mẹ và giao cho Umberto. Thằng cha đê tiện. Em không cần biết hắn đá bóng thổi còi ra sao, hắn vẫn là một kẻ vô lương tâm. Còn mụ nữ hoàng kẻ cướp thân yêu của chị…

– Nói đến việc dối trá và đột nhập vào phòng chị, – tôi nói, trừng trừng nhìn lại nó, – tại sao em kể là hắn đã lục lọi tung tóe phòng chị trong khi kẻ đó chính là em?

Janice há hốc miệng

– Cái gì?

– Em có bác bỏ điều đó không? – Tôi nói tiếp. – Rằng em đã đột nhập phòng chị và đổ vấy cho Alessandro?

– Này! – Nó gào.- Hắn cũng đột nhập! Còn em là em gái chị! Em có quyền biết chuyện xảy ra…- Nó dừng lại và nom bẽn lẽn. – Mà sao chị biết.

– Vì anh ta đã nhìn thấy em. Anh ta tưởng em là chị, đang bò từ ban công xuống.

– Hắn tưởng…? – Janice há miệng không tin. – Giờ thì em thấy bị xúc phạm! Thật đấy!

– Janice, – tôi thở dài, thất vọng vì nó đã hỗn xược trở lại như bản tính thô bạo cũ, và kéo tôi theo.

– Em đã nói dối chị. Tại sao vậy? Sau mọi chuyện xảy ra, chị hoàn toàn hiểu vì sao em đột nhập phòng chị. Em tưởng chị đang mưu đồ bất lương với em để giành tài sản.

– Có thật thế không? – Janice nhìn tôi, hy vọng lại lóe lên. Tôi nhún vai

– Tại sao chúng ta không trao đổi thành thật nhỉ?

Nhanh chóng trở lại bình thường là sở trường của em gái tôi.

– Tuyệt, – nó cười tự mãn, – vậy thành thật nhé. Bây giờ, nếu chị không phiền, – nó nhếch lông mày, – em có thêm vài câu hỏi về đêm qua.

Sau khi mua một số đồ dự trữ ở cửa hàng trong làng, chúng tôi dành phần buổi chiều còn lại lục lọi trong nhà, cố tìm ra những đồ vật thời thơ ấu. Nhưng chẳng được gì vì mọi thứ đều phủ bụi và mốc meo, đồ vải vóc bị các con vật gặm thủng lỗ chỗ, cứt chuột ở mọi khe kẽ. Trên gác, mạng nhện dày như rèm buồng tắm, và lúc chúng tôi mở các cánh chớp tầng hai cho ánh nắng lọt qua, hơn một nửa số cửa chớp rơi ra khỏi bản lề.

– Hoan hô! – Janice nói khi một cánh chớp đổ ầm xuống bậc phía trước nhà, cách chiếc Ducati khoảng nửa mét. – Em đoán đây là lúc gọi thợ mộc.

– Còn thợ ống nước? – tôi đề nghị và gỡ mạng nhện khỏi tóc. – Hoặc thợ điện?

– Chị gọi thợ điện nhé, – nó trả miếng. – Chị cần làm xong mạng điện.

Cao trào đến lúc chúng tôi phát hiện ra một bàn cờ lung lay, giấu trong góc đằng sau chiếc sofa dơ dáy.

– Em đã bảo chị rồi mà, – Janice tươi lên,lắc nhẹ bàn cờ cho chắc. – Nó vẫn ở đây suốt.

Lúc xế chiều, chúng tôi đã dọn dẹp được khá nhiều nên quyết định sẽ chuyển trại lên gác, nơi trước kia là phòng làm việc. Ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn viết cũ, chúng tôi ăn bữa tối dưới ánh nến gồm bánh mì, pho mát, vang đỏ và cố hình dung sẽ làm gì tiếp theo. Chúng tôi chưa muốn trở lại Siena, nhưng đồng thời, cả hai đều hiểu tình trạng hiện tại là không thể chịu đựng nổi. Muốn ngôi nhà trở lại điều kiện có thể sống được, chúng tôi cần đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc vì tệ quan liêu giấy tờ và những người làm việc vặt, và dẫu thành công, chúng tôi sống thế nào đây? Chúng tôi sẽ như những người lánh nạn, ngày càng ngập sâu vào nợ nần, và luôn tự hỏi đến bao giờ quá khứ của của chúng tôi mới bắt kịp chúng tôi.

– Em thấy, – Janice nói và rót thêm vang, – hoặc chúng ta ở lại đây là điều không thể, hoặc trở về Mỹ rất không thỏa đáng, hoặc chúng ta săn tìm kho báu và chứng kiến chuyện sẽ diễn ra.

– Chị nghĩ em đã quên là cuốn sách đấy vô dụng, – tôi nói thẳng. – chúng ta cần cuốn vẽ phác thảo của mẹ để luận ra mật mã.

– Chính vì thế, – Janice nói và thọc tay vào túi xách, – em mang nó theo đây. Ta đa- la – la! – Nó đặt cuốn pháp thảo lên bàn, trước mặt tôi. – Còn câu hỏi nào nữa không?

Tôi cười vang.

– Em biết không, chị nghĩ là chị yêu em.

Janice cố không cười.

– Giờ thì dễ rồi. Chúng ta không muốn chị phải gắng sức gì nữa.

Khi để hai cuốn sách cạnh nhau, chẳng mấy chốc chúng tôi đã tách được mật mã, thực ra nó không hẳn là thế, chỉ là một bản kê khéo giấu những trang, dòng và những con số. trong lúc Janice đọc to những con số viết nguệch ngoạc bên lề cuốn phác thảo, tôi giở cuốn Romeo và Juliet, đọc to những đoạn, những mẩu của bức thông điệp mà mẹ muốn chúng tôi tìm ra. Nó là thế này:

CON YÊU CỦA TA

CUỐN SÁCH QUÝ GIÁ NÀY

CHỨA CU CHUYỆN QUÝ NHƯ VÀNG

CỦA

VIÊN NGỌC

QUÝ NHẤT

BỜ BIỂN MÊNH MÔNG ƯỚT ĐẪM SÓNG BIỂN XA XÔI

TA SẼ MẠO HIỂM VÌ MÓN HÀNG

ĐI CÙNG

CỦA ROMEO

CHA TINH THẦN

HY SINH MỘT SỐ GIỜ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐY

TÌM KIẾM

DỤNG CỤ

THÍCH HỢP MỞ CỬA MỘ CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT NÀY

CẦN PHẢI LÉN LÚT

JULIET NẰM ĐY

NHƯ MỘT TÙ NHN KHỐN KHỔ

NHIỀU TRĂM NĂM

DƯỚI

THÁNH NỮ

MARIA

NƠI

NHỮNG NGÔI SAO NHỎ BÉ

NHĂN NHÓ VÌ THIÊN ĐƯỜNG ĐẸP THẾ

ĐƯA NGƯỜI ĐẾN

THÁNH

MARIA

CÁI THANG

VY QUANH LÀ CÁC TU NỮ MỘ ĐẠO

MỘT NGÔI NHÀ NHIỄM BỆNH DỊCH HẠCH,

CỬA BỊ NIÊM PHONG

NỮ CHỦ

THÁNH

NGỖNG

CHĂM SÓC NGƯỜI ỐM

CĂN PHÒNG

CÁI GIƯỜNG

NGÔI MỘ LINH THIÊNG NÀY CÓ

LỐI VÀO BẰNG ĐÁ

DẪN TỚI

HẦM MỘ CỔ

HÃY ĐỂ CHÚNG TA YÊN NGHỈ

LẤY CHO TA MỘT CÁI XÀ BENG BẰNG SẮT

ĐI CÙNG

CY THÁNH GIÁ

VÀ CÁC CÔ GÁI HÃY GIẪM LÊN NÓ!

Đọc xong lời nhắn dài dằng dặc, chúng tôi ngồi ngẩn và nhìn nhau, hoang mang, vẻ nhiệt tình ban đầu chựng lại.

– Em có hai câu hỏi đây, – Janice nói. – Một: tại sao trước kia chúng ta không làm việc này? Hai: mẹ hút thuốc loại gì? – Nó nhìn tôi chằm chặp và với lấy cốc vang. – Em chắc bà giấu mật mã trong “cuốn sách quý giá này”, có thể là bản đồ tìm kho báu để tìm ra mộ Juliet và “những viên ngọc quý nhất”, nhưng …chúng ta đào ở đâu đây? Bệnh dịch hạch và cái xà beng là cái quỷ gì?

– Chị có cảm giác, – tôi nói và giở tới, lui, đọc lại vài đoạn, – là mẹ nói đến Giáo đường Siena. “Thánh nữ Maria”…có thể nghĩa là Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Chị thấy câu”những ngôi sao nhỏ bé nhăn nhó vì thiên đường đẹp thế” giống ở bên trong mái vòm giáo đường. Mái vòm sơn xanh lơ có những ngôi sao nhỏ màu vàng. – tôi ngước nhìn nó, bỗng sôi nổi. – Có lẽ đó là nơi có ngôi mộ sao? Nhớ là danh họa Lippi nói Salimbeni chôn Romeo và Giulietta ở “một nơi linh thiêng nhất”, vậy còn nơi nào linh thiêng hơn một giáo đường?

– Em thấy có lý, – Janice đồng ý, – nhưng còn bệnh dịch hạch và “các tu nữ mộ đạo” thì sao? Nghe chẳng có gì dính đến giáo đường.

– Thánh Maria, cái thang…- tôi lẩm bẩm, giở qua cuốn sách lần nữa, – một ngôi nhà nhiễm bệnh dịch hạch….cửa bị niêm phong…nữ chủ thánh thiện…ngỗng…thăm người ốm”…. la – la –la. – tôi gập cuốn sách lại và dựa vào lưng ghế, cố nhớ lại câu chuyện Alessandro kể về sĩ quan chỉ huy Marescotti và nạn dịch hạch. – Chị biết nghe có vẻ điên rồ, nhưng …- tôi lưỡng lự nhìn Janice, nó đang mỏ to mắt đầy tin cậy vào tài giải thích những điều bí ẩn của tôi, – trong thời gian nạn dịch hạch hoành hành, chỉ vài năm sau khi Romeo và Juliet chết, xác chết khắp nơi, nhiều đến nỗi người ta không thể chôn hết. Thế là ở Santa Maria della Scala – chị nghĩ scala có nghĩa là cái thang – có một bệnh viện khổng lồ đối diện giáo đường, nơi “các tu nữ mộ đạo” chăm sóc người ốm trong thời gian “nhiễm bện dịch hạch” …ờ, họ đành nhét xác chết vào một bức tường dày rồi xây kín lại

Janice nhăn mặt. – Khiếp!

Tôi nói tiếp:

– Hình như chúng ta phải tìm một “căn phòng” có một “cái giường” trong bệnh viện Santa Maria della Scala….

-..trong đó “nữ chủ thánh thiện” của “ngỗng” ngủ, – Janice đề xuất. – Là ai nhỉ?

– Hay là “nữ chủ thánh thiện” của Siena, sinh trưởng trong lãnh địa “Ngỗng”, Thánh nữ Catherine…- tôi nói

Janice huýt sáo: -Tuyệt cú mèo!

-…là người tình cờ có một phòng ngủ ở Santa Maria della Scala, nơi Catherine ngủ khi làm công việc “chăm sóc người ốm” lúc đêm hôm khuya khoắt. em không nhớ à? Trong truyện mà danh họa Lippi đọc cho chúng ta. Chị đánh cược với em, một viên ngọc bích và một viên ngọc lục bảo là nơi chúng ta sẽ tìm thấy “lối vào bằng đá dẫn tới hầm mộ cổ”

– Ái chà, gượm đã! – Janice nói. – em rối tung lên rồi. Trước hết,là giáo đường, rồi phòng của Thánh nữ Caterina ở bệnh viện, nhưng còn “hầm mộ cổ” là gì?

Tôi ngẫm nghĩ câu hỏi một lát, cố nhớ lại giọng nói giật gân của hướng dẫn viên du lịch người Anh mà tôi nghe lỏm được tại giáo đường Siena vài ngày trước. Cuối cùng, tôi nói:

– Hình như thời Trung cổ ở bên dưới giáo đường hay có một hầm mộ. Nhưng nó biến mất trong thời gian có nạn dịch hạch, và từ đó người ta không tìm thấy nó nữa. Lẽ tất nhiên, các nhà khảo cổ khó mà làm việc ở quanh đây, vì mọi tòa nhà đều được canh gác. Vả lại, một số người cho rằng đây chỉ là huyền thoại…

– Em thì không! – Janice nói, nó chộp ngay ý tưởng ấy. – Việc này phải là thế. Romeo và Giulietta được chôn trong hầm mộ bên dưới giáo đường. Rất có lý. Nếu chị là Salimbeni, chẳng lẽ chị không để mộ đúng nơi ấy? Vì toàn bộ nơi này được dâng cho Đức Mẹ Đồng Trinh Maria…Thế đấy!

– Thế đấy cái gì?

Janice giơ hai tay như sắp ban phúc cho tôi.

– Nếu chị quỳ gối trong hầm mộ ở thánh đường, chị sẽ “quỳ trước Đức Mẹ Đồng Trinh Maria” đúng như lời nguyền! Chị không thấy sao? Đâu vào đấy nhé!

– Nhưng nếu đúng như thế, – tôi nói, – chúng ta sẽ phải đào bới rất nhiều mới tới được chỗ đó. Người ta đã tìm hầm mộ này ở khắp nơi rồi.

– Không đâu, – Janice nói, lại đẩy cuốn sách đến chỗ tôi, – nếu mẹ đã tìm ra một lối vào bí mật từ bệnh viện cổ, Santa Maria della Scala. Đọc lại câu đó đi, em chắc là mình đúng.

Chúng tôi đọc lại lần nữa, và lần này, toàn bộ thông điệp bỗng trở nên có nghĩa. Đúng, chúng tôi đang nói đến một “hầm mộ cổ” bên dưới giáo đường, và “lối vào bằng đá” đã tìm thấy trong phòng Thánh nữ Caterina ở Santa Maria della Scala, ở bên kia quảng trường, đối diện với nhà thờ.

– Trời đất cha mẹ ơi! – Janice ngả người, nói một thôi. – Nếu việc này dễ như thế, tại sao mẹ không tự xông đến ngôi mộ mà lục lọi?

Đúng lúc ấy, một trong những cây nến của chúng tôi lụi tắt, bốc một làn khói nho nhỏ, và mặc dù vẫn còn những ngọn nến khác đang cháy, bóng tối trong phòng dường như đột ngột vây lấy chúng tôi từ tứ phía

– Mẹ biết mình đang gặp nguy hiểm, – tôi đáp, giọng tôi trống rỗng lạ lùng trong bóng tối, – chính vì thế mẹ mới để mật mã trong cuốn sách, sách để trong hộp, và hộp trong nhà băng.

– Thế đấy, – Janice nói, cố làm ra vẻ cứng rắn, – giờ chúng ta phải giải quyết điều bí ẩn này, để ngăn mình khỏi…

– Đột nhập vào tòa nhà được canh gác và phá căn phòng của Thánh nữ Caterina bằng một cái xà beng ư? – tôi nhăn mặt. – Chao ôi, chị không thể làm nổi!

– Nghiêm túc đấy. Đấy là việc mẹ muốn chúng ta làm. Đúng không nào?

– Không đơn giản thế đâu. – Tôi đẩy cuốn sách, cố nhớ chính xác những lời trong thông điệp. – Mẹ bảo chúng ta “đi với cha tinh thần của Romeo..đã hy sinh trước thời của mình”. Người đó là ai? Đó là tu sĩ Lorenzo. Rõ ràng không phải là người thức, nhưng có thể là …hiện thân mới của thầy. Chị cược là chúng ta đúng: ông già biết gì đó về địa điểm hầm mộ và ngôi mộ, một thứ quan trọng mà mẹ còn chưa hình dung ra.

– Vậy chúng ta nên làm gì đây? – Janice muốn biết. – Bắt cóc tu sĩ Lorenzo và tra hỏi ông ta dưới bóng đèn 100W? Này, có khi chị nhầm rồi. Hãy để chúng ta làm việc này thêm một thời gian nữa, tách biệt nhau, và xem có ra cùng kết quả không…- Nó bắt đầu mở các ngăn kéo bàn, lần lượt từng cái một. – Xem nào! Có mấy cái bút vứt lăn lóc ở đây này!.. Đợi đã! – Nó thò cả đầu vào ngăn dưới cùng, cố rút cái gì đó mắc trong ngăn. Cuối cùng, lúc cái đó lỏng ra, nó ngồi dậy, đắc thắng, tóc tai rối bù. – Chị xem cái này này! Một bức thư!

Nhưng đó không phải là thư. Mà là một phong bì để trắng, đầy những ảnh.

Lúc chúng tôi xem hết các bức ảnh của mẹ, Janice tuyên bố chúng tôi cần thêm ít nhất một chai vang, mới có thể qua đêm mà không quẫn trí. Trong lúc nó xuống nhà lấy rượu, tôi lại nhìn vào các bức ảnh, xếp chúng cạnh nhau trên bàn, bàn tay tôi vẫn run vì sửng sốt, không hiểu sao tôi có thể khiến chúng kể một câu chuyện khác hẳn.

Chỉ có một cách lý giải duy nhất về hành động mạo hiểm của mẹ ở Italy; và dù chúng tôi có mổ xẻ thế nào đi nữa, những nhân vật và kết luận vẫn như nhau: Diane Lloyd đến Italy, bắt đầu làm việc cho giáo sư Tolomei, đã gặp một tay chơi trẻ trung trong chiếc Ferrrari màu vàng, đã có thai, đã kết hôn với giáo sư Tolomei và đẻ sinh đôi hai bé gái, đã sống sót sau vụ hỏa hoạn giết chết người chồng già, một lần nữa lại tiếp tục mắc mớ với tay chơi trẻ, người mà trong ảnh nào trông cũng rất hạnh phúc với hai đứa bé song sinh – đó là chúng tôi, – và cả hai chị em tôi đều nhất trí ông ta hẳn phải là cha đẻ của chúng tôi.

Kẻ ăn chơi đó chính là Umberto.

– Chuyện này thật phi lý! – Janice kêu khùng khục, lại gần tôi với một chai rượu và cái mở nút.

– Suốt từng ấy năm. Giả vờ làm quản gia và không bao giờ hé một lời. Số phận quá là chết dẫm!-Tuy vậy, – tôi nói và cầm một trong những bức ảnh lên, – ông ấy luôn là cha chúng ta. Dù chúng mình không gọi ông ấy như thế. Ông ấy lúc nào cũng…- Nhưng tôi không thể nói tiếp.

Chỉ đến lúc này, tôi ngước nhìn và thấy Janice đang khóc, song nó tức tối lau vội nước mắt, như thể không muốn Umberto mãn nguyện.

– Thật hiểm độc! – Nó nói. – Buộc chúng ta thực hiện sự dối trá của ông ta suốt từng ấy năm. Bây giờ bỗng nhiên….- Nó ngừng cằn nhằn, vì nút chai vang gãy làm đôi.

– Ít nhất nó cũng giải thích vì sao ông ấy biết về pho tượng vàng. Hiển nhiên là ông ấy biết tất cả từ mẹ. Và nếu họ thực sự …cùng nhau, hẳn ông ta phải biết về cái hộp giấy tờ trong nhà băng. Nó giải thich vì sao ông ta viết cho chị một bức thư giả danh bà Rose, bảo chị đến Siena và nói chuyện với chủ tịch Maconi ở lâu đài Tolomei trước tiên. Rõ ràng ông ấy biết cái tên đó từ mẹ.

– Nhưng suốt thời gian này! – Janice làm đổ ít vang ra bàn lúc nó vội vàng rót đầy cốc chúng tôi, vài giọt bắn lên ảnh. – tại sao ông ta không làm việc này từ nhiều năm trước? Tại sao không giải thích mọi chuyện với bà Rose khi bà còn sống…?

– Đúng thế! – Tôi vội lau sạch rượu vang trên ảnh. – Tất nhiên ông ấy không thể nói với bà sự thật. Bà sẽ gọi cảnh sát ngay lập tức. – tôi nhại giọng trầm trầm của Umberto. – Nhân tiện, thưa bà Rose, tên thật của tôi là Luciano Salimbeni, vâng là kẻ đã giết Diane và bị chính quyền Italy truy nã. Nếu bà quá bộ đến thăm Diane ở Italy – xin Chúa phù hộ cho linh hồn cô ấy, – bà đã gặp tôi hàng trăm lần.

– Nhưng sống thế mới đáng chứ! – Janice xen vào. – Nhìn này…- Nó chỉ vào những tấm ảnh chụp Umberto và cái Ferrari đỗ ở vài địa điểm đẹp như tranh nhìn xuống thung lũng Tuscan, tươi cười và nhìn bằng con mắt của người đang yêu. – Ông ta đã có tất cả. Sau đó…ông ta làm người hầu trong nhà bà Rose.

– Em nghĩ mà xem, – tôi nói, – ông ấy là kẻ chạy trốn. Aless… có người bảo chị, ông ấy là một trong những tội phạm bị truy nã gắt gao nhất ở Italy. May cho ông ấy là chưa bị vào tù. Hoặc chết. Chí ít thì làm việc cho bà Rose, ông ấy có thể quan sát chúng ta lớn lên trong cảnh gần như tự do.

– Em vẫn không thể tin nổi! – Janice lắc đầu quầy quậy. – trong ảnh cưới mẹ đã có thai, nhưng có khối phụ nữ như thế, không nhất thiết chú rể là tác giả của cái thai

– Jan! – Tôi đẩy cho nó vài tấm ảnh cưới. – giáo sư Tolomei già đáng tuổi ông của mẹ. Em hãy đặt mình vào vị trí của mẹ lấy một giây. – Thấy nó một mực không đồng ý với tôi, tôi vồ lấy tay nó và kéo nó lại gần hơn. – Lại đây, đây là cách giải thích duy nhất. Nhìn ông ta xem…- Tôi cầm một trong nhiều tấm ảnh chụp Umberto nằm trên tấm chăn trên cỏ, Janice và tôi bò lổm ngổm trên người ông. – Ông ấy yêu quý chúng ta. – Vừa thốt ra những lời ấy, cổ họng tôi nghẹn tắc và phải nuốt mãi mới cuống, tôi mới kìm được nước mắt. – tào lao! – tôi rên rỉ. – Chị không thể hiểu được chuyện này hơn nữa.

Chúng tôi ngồi một lúc, im lặng khổ sở. Rồi Janice đặt cốc vang xuống và cầm mớ ảnh chụp trước lâu đài Salimbeni.

– Thế, – cuối cùng, nó nói, – cái này có nghĩa nữ hoàng kẻ cướp là…bà nội của chúng ta ư? – Bức ảnh chụp Eva Maria đang tung một cái mũ rộng vành và hai con chó nhỏ xích vào một sợi dây, mẹ chúng tôi mặc quần trắng và cầm cặp hồ sơ trông năng động, giáo sư Tolomei cau có và đang nói gì đó với người chụp ảnh, một mình Umberto trẻ trung tách ra một bên, dựa vào chiếc Ferrari, tay khoanh lại. – Dù nó có ý nghĩa quái quỷ gì, – Janice nói tiếp, trước khi tôi kịp trả lời, – em mong không bao giờ phải gặp lại ông ta nữa.

Chắc chúng tôi nên nhìn thấy sự việc sắp đến, nhưng lại không. Quá mải gỡ nút cuộc đời, chúng tôi quên cả chú ý đến các sự việc dồn dập trong đêm tối, cứ bình thản ngồi đây mà gặm nhấm những cảm giác chung trong chốc lát.

Cho đến khi có tiếng nói từ cửa tới phòng làm việc, chúng tôi mới nhận ra mình đã khờ dại biết chừng nào khi tìm nơi trú ẩn trong nhà mẹ.

– Một cuộc đoàn viên gia đình dễ chịu quá nhỉ, – Umberto nói và bước vào phòng, đi trước hai người đàn ông tôi chưa gặp bao giờ. – Xin lỗi vì bắt các cô phải đợi.

– Umberto! – Tôi kêu lên và nhảy phắt khỏi ghế. – Thế quái nào mà…

– Julie! Không! – Janice chộp cánh tay tôi và kéo tôi ngồi xuống, mặt nó méo đi vì sợ

Chỉ đến lúc này tôi mới nhìn ra. Tay Umberto bị trói quặt ra sau lưng, một trong hai gã đàn ông gí súng vào đầu ông ấy.

Thi thể nàng đang an nghỉ trong hầm mộ của nhà Capulet

Còn linh hồn bất tử của nàng đã lên ở với các thiên thần

….

— ——–oOo—- ——-

Ngày hôm trước, khi rời Siena với Alessandro, tôi không hề hình dung mình lại trở về sớm thế, bẩn thỉu như thế, với đôi tay bị còng. Chắc chắn tôi không lường trước lại có cả em gái tôi, cha tôi, và ba tên côn đồ trông như vừa thoát khỏi xà lim tử tù, không phải bằng giấy tờ, trát lệnh mà bằng thuốc nổ.

Rõ ràng rằng, dẫu biết rõ danh tính của chúng, Umberto cũng bị bắt làm con tin như chúng tôi. Bọn chúng quẳng ông lên thùng xe tải như Janice và tôi – một chiếc xe tải cỡ nhỏ, chở hoa, chắc là của ăn cắp, – tất cả chúng tôi đập mạnh xuống sàn kim loại. Cánh tay đều bị trói, nhưng cả đống cành hoa thối rữa đã cản được lực của cú ngã chút ít.

– Này, – Janice phản đối, – chúng tôi là con gái ông, phải không? Hãy bảo họ không thể đối xử với chúng tôi như thế này. Nói thật là…kìa Jules,, nói gì với ông ấy đi chứ.

Nhưng tôi không thể nghĩ ra điều gì để nói. Tôi cảm thấy cả thế giới quanh tôi lộn ngược – hoặc có khi thế giới vẫn không sao, còn tôi mới là người đổ nhào toàn vẹn. Vẫn chống chọi với quá trình Umberto biến từ người hùng thành kẻ hung ác, lúc này việc phải thừa nhận thực tế ông là cha tôi, gần như đưa tôi đi một vòng tròn đầy đủ và trở lại với sự thật song phẳng : tôi từng yêu quý ông, nhưng thực sự không nên thế..

Lúc những kẻ ác ôn kéo sập cửa xe lại, tôi liếc thấy một nạn nhân khác mà chúng đã nhặt được ở đâu đó dọc đường. Người đàn ông dựa vào một góc, bị bịt mắt, bịt miệng, nếu không có bộ trang phục, chắc tôi không bao giờ nhận ra ông ta. Rốt cuộc, lời lẽ cứ tự động đến với tôi:

– Tu sĩ Lorenzo! – tôi kêu lên. – Lạy Chúa tôi! Chúng đã bắt cóc tu sĩ Lorenzo!

Lúc đó, chiếc xe tải xóc nảy lên khởi động, ít phút sau đó chúng tôi bị trượt tới, lui trên sàn xe mấp mô, trong lúc gã lái xe đưa chúng tôi lao qua con đường rậm rạp dành cho xe của nhà mẹ. Mọi sự vừa êm ả hơn, Janice buột ra một tiếng thở dài thườn thượt, khổ sở.

– Ông thắng rồi. – Nó nói tôi giữa bóng tối. – Những viên ngọc quý là của ông…hoặc của bọn chúng. Đằng nào tôi cũng không muốn có chúng. Chúng tôi sẽ giúp ông. Chúng tôi sẽ làm mọi việc. Bất cứ thứ gì ông muốn. ông là cha chúng tôi kia mà? Chúng ta sẽ gắn bó với nhau! Không cần phải…giết chúng ta. Được không?

Câu hỏi của nó rơi vào im lặng.

– Này, – Janice nói tiếp, giọng nó run rẩy vì sợ, – tôi mong bọn chúng hiểu là chúng sẽ không bao giờ tìm thấy ngôi mộ nếu không có chúng tôi…

Umberto vẫn không trả lời. Ông không phải trả lời. Mặc dù chúng tôi đã kể với lũ cướp về lối vào bí mật ở Santa Maria della Scala, bọn chúng nghĩ rằng vẫn cần chúng tôi giúp tìm ra ngọc quý, hoặc có thể chưa chắc chúng đưa chúng tôi đi hết đường.

– Còn tu sĩ Lorenzo thì sao? – Tôi hỏi?

Cuối cùng, Umberto nói.

– Ông ta thì sao ư?

– Ông thực sự cho rằng ông già tội nghiệp ấy có thể giúp được gì phải không? – Janice nói, nó đã lấy lại được chút ít tinh thần.

– Ồ, ông ta sẽ ca ngợi.

Khi nghe thấy cả hai chúng tôi thở hổn hển vì sự dửng dưng của ông, Umberto phát ra một âm thanh có thể là tiếng cười, nhưng chắc là không phải.

– Các cô mong đợi cái quái gì, hả? – Ông càu nhàu. – Rằng chúng sẽ…từ bỏ ư? Vác cô may mắn là lúc đầu chúng ta đã thử cách dễ chịu…

– Cách dễ chịu…? – Janice kêu to, nhưng tôi cố dùng đầu gối huých nó và nó im bặt.-Thật không may, Umberto nói tiếp,

– Julie bé bỏng của chúng ta không nhập vai.

– Tôi sẽ làm tốt nếu biết tôi cũng có một vai! – Tôi nói toạc ra, họng thắt lại đến nỗi chỉ vừa đủ nghe. – Tại sao ông không bảo tôi? Tại sao phải làm như thế này? Chúng ta có thể đi tìm kho báu từ nhiều năm trước. Điều đó có khi còn…vui nữa.

– Ôi, tôi biết! – Umberto ngọ nguậy trong bóng tối, rõ ràng cũng lo lắng như chúng tôi. – cô tưởng tôi muốn như thế này sao? Trở về đây, đánh liều đủ thứ, chơi trò đố chữ với các thầy tu già và bị bọn cóc nhái này hành hạ, chỉ để tìm tòi những viên đá chắc chắn đã mất tích từ hàng trăm năm trước ư? Tôi nghĩ là cô chưa hiểu… – Ông thở dài. – Lẽ tất nhiên là không rồi. Các cô có nghĩ vì sao tôi để bà Rose đưa các cô đi biệt và nuôi dưỡng các cô tận nước Mỹ không? Hả? Tôi sẽ nói vì sao.

Vì bọn chúng sẽ dùng các cô chống lại tôi…bắt tôi làm việc cho chúng lần nữa. Chỉ có một giải pháp duy nhất: Tất cả chúng ta phải biến mất.

– Ông đang nói đến ….Mafia ư? – Janice hỏi

Umberto cười khinh bỉ.

– Mafia! Bọn này khiến Mafia giống như Salvation Army. Chúng tuyển dụng ta khi ta cần tiền, và khi đã mắc vào, không sao thoát ra được nữa. Nếu ngọ nguậy, càng mắc sâu hơn.

Tôi nghe thấy Janice hít vào, định bình luận ác ý, nhưng tôi cố hết sức huých nó và nó lại im lặng. Chọc tức Umberto và cãi vã không phải là cách chuẩn bị cho mọi thứ phía trước, và tôi chắc là có rất nhiều khó khăn.

– Tôi đoán, – tôi nói, cố bình tĩnh, – khi bọn chúng không cần chúng tôi nữa …là hết phải không?

Umberto lưỡng lự.

– Cocco còn mang ơn ta. Trước kia ta đã tha mạng hắn. Ta hy vọng hắn sẽ đền đáp.

– Hắn sẽ tha ông, – Janice nói, – Còn chúng tôi thì sao?

Một lúc im lặng dài, hay chí ít là tôi cảm thấy dài. Chỉ lúc này, trong tiếng động cơ và tiếng lách cách, rầm rầm nói chúng, tôi chợt nghe thấy âm thanh của một người đang cầu nguyện.

– Còn tu sĩ Lorenzo thì sao?

– Cứ hy vọng thôi, – cuối cùng, Umberto nói, – vì Cocco được coi là rộng lượng,

– Tôi không tin, – Janice gầm lên. – Những thằng cha này là ai, và tại sao ông lại để chúng làm thế này với chúng tôi?

– Đấy không phải là truyện kể vào giờ đi ngủ, – Umberto nói, chán nản.

– Đúng, đây không phải là giờ đi ngủ, – Janice nói rõ. – Vậy thì, thưa ông bố yêu quý, tại sao ông không cho chúng tôi biết những thứ xấu xa ở chốn thần tiên này?

Khi bắt đầu nói, Umberto không thể dừng. Hình như trong suốt từng ấy năm, ông vẫn đợi để kể cho chúng tôi nghe chuyện đời ông, và bây giờ khi có cơ hội làm thế, rõ ràng ông không thấy nhẹ nhõm nhiều vì nghe giọng ông mỗi lúc một cay đắng, Ông kể, cha ông là bá tước Salimbeni nổi tiếng, hay than vãn là vợ ông, bà Eva Maria, chỉ sinh cho ông một đứa con, nên muốn chắc chắn cậu bé không bị làm hư và luôn có kỷ luật. Umberto bị bắt vào học viện quân sự trái với ý muốn, rốt cuộc anh bỏ trốn đến Naples tìm việc và mong ước có thể vào đại học chuyên ngành âm nhạc, nhưng chẳng mấy chốc hết nhẵn tiền. Thế là, anh bắt đầu làm những việc àm người khác không dám làm, và trở nên thành thạo. Không hiểu vì sao, những phi vụ phạm pháp cứ đến với Umberto rất tự nhiên, và chẳng bao lâu, anh đã có mười bộ comple cắt may tuyệt khéo, một chiếc Ferrari, một căn hộ quý tộc không đồ đạc. Thật là thiên đường.

Khi trở về thăm cha mẹ ở lâu đài Salimbeni, anh giả vờ là người môi giới chứng khoán, và cố thuyết phục cha tha thứ cho việc bỏ đại học quân sự. Vài ngày sau, cha mẹ anh chủ trì một bữa tiệc lớn, trong đám khách khứa có giáo sư Tolomei và Diane, cô trợ lý người Mỹ trẻ măng.

Rủ Diane lẻn khỏi sàn khiêu vũ, Umberto lái xe đưa Diane đi chơi dưới ánh trăng rằm và thế là một mùa hè dài, tuyệt đẹp bắt đầu. Họ trải qua những kỳ nghỉ cuối tuần với nhau, lái xe đi khắp Tuscany và cuối cùng, khi Umberto mời Diane đến thăm anh ở Naples, chị trả lời đồng ý. Tại đó, sau khi uống hết một chai vang trong khách sạn sang nhất thành phố, anh trơ tráo kể với Diane sự thật về công việc của mình.

Diane rất khiếp sợ. Chị không muốn nghe Umberto giải thích hoặc xin lỗi, và ngay khi trở về Siena, chị trả lại mọi thứ anh tặng – nữ trang, quần áo, thư từ – và nói rằng mình không bao giờ muốn nghe thấy tên anh lần nữa.

Sau đó, trong suốt hơn một năm, anh không hề gặp chị, và khi gặp lại anh ngỡ ngàng vô cùng. Diane đang băng qua Campo ở Siena, đẩy xe có hai đứa trẻ sinh đôi, và có người kể với anh rằng Diane đã kết hôn với vị giáo sư già Tolomei. Umberto hiểu ngay mình là cha hai đứa trẻ, và lúc anh tiến thẳng tới Diane, chị tái mặt nói vâng, anh là cha chúng, nhưng chị không muốn các con bị một kẻ tội phạm nuôi dạy.

Lúc này, Umberto đã làm một việc kinh hoàng. Anh nhớ rằng Diane đã kể về công trình nghiên cứu của giáo sư Tolomei, về pho tượng có cặp mắt bằng ngọc quý và phát điên lên vì ghen tuông, Umberto kể lại với một số người ở Naples. Vừa nghe được chuyện không bao lâu, ông trùm của Umberto đã ép anh đến thăm giáo sư Tolomei để tìm hiểu thêm, và anh đã phải làm thế cùng hai người đàn ông khác. Họ đợi cho Diane và hai đứa trẻ ra khỏi nhà, rồi mới gõ cửa. Giáo sư rất lịch sự mời họ vào, nhưng trở nên căm ghét ngay khi hiểu lý do họ tới.

Thấy vị giáo sư không chịu nói, hai tên cộng sự của Umberto bắt đầu thúc ép ông già, rốt cuộc ông lên cơn đau tim và hấp hối, Tất nhiên, Umberto rất hoảng và cố cứu giáo sư, nhưng tất thảy đều vô hiệu. Anh bèn bảo hai tên kia là sẽ gặp lại chúng ở Naples, rồi khi chúng đã rời đi, anh phóng hỏa đốt nhà, hy vọng thiêu rụi các công trình nghiên cứu của giáo sư cùng xác ông ấy, đặt dấu chấm hết cho câu chuyện về pho tượng bằng vàng.

Sau thảm họa này, Umberto quyết định cắt đứt với quá khứ xấu xa và chuyển đến Tuscany, sống bằng tiền đã kiếm được. Vài tháng sau vụ hỏa hoạn, anh tìm Diane và nói rằng hiện tại, anh là người lương thiện. Ban đầu Diane không tin, và buộc tội anh đã nhúng tay vào vụ hỏa hoạn đáng ngờ giết chết chồng chị. Nhưng Umberto quyết chinh phục Diane bằng được, rốt cuộc chị lùi bước tuy chẳng bao giờ hoàn toàn tin anh vô tội.

Họ sống chung với nhau hai năm, gần như một gia đình, thậm chí Umberto còn đưa Diane về thăm lâu đài Salimbeni. Lẽ tất nhiên, Umberto không bao giờ dám kể thật với cha mẹ về hai đứa trẻ sinh đôi, cha anh sẽ giận anh vì chưa cưới mà đã có con riêng. Ai sẽ thừa hưởng lâu đài Salimbeni, nếu Umberto không có con? Đó sẽ là khoảng thời gian hạnh phúc, nếu Diane không bị “lời nguyền với hai hòng họ” ám ảnh, mỗi lúc một tăng thêm. Chị đã kể với anh chuyện này khi họ gặp nhau lần đầu tiên, nhưng lúc đó anh không coi là nghiêm túc.

Giờ đây anh phải chấp nhận thực tế rằng người phụ nữ kiều diễm này – mẹ của các con anh – bản tính là người rất dễ lo lắng và dễ bị ép buộc, và sức ép của bổn phận làm mẹ chỉ khiến nó tệ hại hơn mà thôi.

Chị đọc cho các con gái bé bỏng nghe Romeo và Juliet thay cho sách thiếu nhi, đọc đi đọc lại, cho đến khi Umberto tới và nhẹ nhàng cất sách đi. Nhưng dù anh giấu sách ở đâu chị cũng tìm ra. Khi hai đứa trẻ đã ngủ, chị dành nhiều giờ làm việc một mình, cố phục hồi công trình nghiên cứu của giáo sư Tolomei về kho báu của gia tộc và địa điểm ngôi mộ của Romeo và Giulietta. Chị không quan tâm đến những viên ngọc quý, chị chỉ muốn cứu các con gái. Chị tin rằng, các con chị có mẹ mang họ Tolomei và cha mang họ Salimbeni, chúng sẽ bị tổn thương gấp đôi vì lời nguyền của tu sĩ Lorenzo.

Umberto chưa nhận thức được rằng Diane đã gần xác định ra vị trí ngôi mộ, khi một ngày kia, vài người bạn cũ của anh ở Naples xuất hiện và bắt đầu chất vấn nhiều câu. Biết những kẻ này độc ác, Umberto bảo Diane mang hai đứa trẻ qua cửa sau và giấu chúng đi trong lúc anh cố hết sức giải thích rằng cả anh và chị không biết gì hết.

Nhưng khi Diane nghe thấy chúng đánh anh, chị trở lại với một khẩu súng và yêu cầu chúng để gia đình chị yên. Thấy chúng không chịu nghe, chị thử bắn, nhưng vì không biết dùng súng, nên chị đã bắn chệch. Thay vào đó, chúng bắn và giết chết chị ngay lập tức. Sau đó, bọn chúng bảo Umberto đây mới chỉ là bắt đầu; nếu anh không nộp cho chúng bốn viên ngọc quý, chúng sẽ đến tìm các con gái anh.

Đến phần này của câu chuyện, Janice và tôi đồng thanh: -Thế ra, ông không giết mẹ?

– Lẽ tất nhiên là không! – Ông cáu. – Sao các cô có thể nghĩ như thế?

– Cóthể, – Janice nói, nghẹn ngào, – vì cho đến bây giờ ông toàn nói dối.

Umberto lại thở dài rất sâu và lại cựa quậy, không thể thấy dễ chịu. Thất vọng và mệt mỏi, ông tiếp tục câu chuyện và kể với chúng tôi rằng, sau khi bọn chúng giết Diane và ra khỏi nhà, ông đau đớn không biết làm gì. Việc cuối cùng ông muốn là gọi cảnh sát hoặc linh mục, và có cơ phải chịu nguy hiểm vì tệ quan liêu giấy tờ khi đem bọn trẻ đi xa. Thế là, ông bế xác Diane vào xe và đưa đến một nơi hoang vắng, nơi ông có thể lao xe từ một vách đá dựng đứng, tạo hiện trường như Diane chết vì tai nạn xe cộ. Thậm chí ông còn đặt một số đồ vật của bọn trẻ vào trong xe, để mọi người tưởng chúng cũng chết rồi. Rồi ông đưa bọn trẻ đến với cha mẹ đỡ đầu của chúng là Peppo và Pia Tolomei, nhưng lái xe đi ngay, trước khi họ kịp hỏi han.

– Khoan đã! – Janice kêu lên. – Còn viên đạn thì sao? Lẽ nào cảnh sát không nhận ra mẹ tôi đã chết trước khi bị tai nạn ô tô?

Umberto ngập ngừng, rồi bất đắc dĩ trả lời:

– Tôi đã đốt cái xe. Tôi không nghĩ họ sẽ đào bới nhiều. Tại sao họ phải làm điều đó kia chứ? Đằng nào họ cũng được lĩnh lương. Nhưng một vài nhà báo tinh quái bắt đầu căn vặn nhiều câu, và trước khi tôi biết thì họ đã gán cho tôi đủ thứ tội – nào giáo sư, vụ hỏa hoạn, mẹ các cô….kể cả hai cô, – vì lợi ích của Chúa mà.

Umberto kể tiếp, đêm hôm đó, ông gọi cho bà Rose ở Mỹ, giả vờ là sĩ quan cảnh sát ở Siena. Ông báo tin cháu gái bà đã chết, các cô bé cần có một gia đình và ở lại Italy không an toàn, tố hơn hết là bà hãy tới và đưa chúng đi. Sau khi gọi điện, ông lái xe tới Naples và đến “thăm” những kẻ đã giết Diane cùng hầu hết những người biết về kho báu. Thậm chí, ông không giấu nhận dạng. Ông muốn đó là một lời cảnh cáo. Kẻ duy nhất ông không giết là Cocco. Ông không nỡ giết một thằng nhóc mới mười chín tuổi.

Sau đó, ông biến mất trong nhiều tháng, trong lúc cảnh sát lùng sục ông khắp nơi. Cuối cùng, ông đến Mỹ, tìm các con gái, và thấy chúng sống yên ổn. Ông không có dự định gì đặc biệt; khi phát hiện ra chúng sống ở đâu, ông cứ lảng vảng quanh quất đợi có chuyện gì xảy ra. Vài ngày sau, ông nhìn thấy một người phụ nữ đi dạo trong vườn, cắt những bông hồng. Cho rằng đấy là bà Rose, ông đến gần và hỏi bà có cần người giúp các việc vặt trong nhà không. Sự việc bắt đầu như thế. Sáu tháng sau, Umberto dọn đến, làm việc cả ngày, thỏa thuận làm thêm các việc cho ngôi nhà và con thuyền.

– Tôi không tin nổi! – Tôi buột ra. – Bà ấy không bao giờ lấy làm lạ vì ông…tình cờ ở trong vùng sao?

– Bà ấy rất cô đơn, – Umberto lẩm bẩm, rõ ràng không hãnh diện gì về bản thân. – Quá trẻ để là góa phụ, nhưng quá già để làm mẹ. Bà ấy sẵn lòng tin mọi thứ.

– Còn Eva Maria? Bà có biết ông ở đâu không?

– Tôi vẫn liên hệ với bà, nhưng không nói mình ở đâu qua điện thoại. Và chưa bao giờ kể với bà về hai cô.

Umberto giải thích rằng ông sợ nếu Eva Maria biết mình có hai cháu gái, sẽ khăng khăng bắt chúng về Italy. Còn ông biết rõ rằng có thể ông không bao giờ trở về; người ta sẽ nhận ra ông, và chắc chắn cảnh sát sẽ bắt ông ngay lập tức, dù ông mang tên và hộ chiếu giả. Dẫu Eva Maria không yêu cầu, nhưng do ông hiểu rất rõ mẹ mình nên đã e ngại rằng bà sẽ xoay sở tìm bằng được cách gặp các cháu gái, rồi thu xếp cho chúng được an toàn. Nếu không, chắc chắn Eva Maria sẽ dành hết phần đời còn lại héo hon mong nhớ những đứa cháu mà bà chưa gặp lần nào, cuối cùngsẽ chết vì tan nát cõi lòng và nhất định đổ lỗi cho Umberto. Vì những lý do thích đáng đó, Umberto chưa bao giờ kể với bà.

Tuy vậy, thời gian trôi qua, Umberto bắt đầu tin rằng quá khú xấu xa của mình ở Naples đã được chôn vùi vĩnh viễn. Nhưng nó kết thúc đột ngột khi một ngày kia, ông nhận thấy một chiếc limousine leo lên con đường dẫn vào nhà của bà Rose và đỗ ngay trước cửa nhà. Trong xe có bốn người, và ông nhận ra ngay Cocco trong số đó. Ông chưa bao giờ biết được bọn chúng tìm ra chỗ ở của ông bằng cách nào sau từng ấy năm, nhưng ngờ rằng chúng đã hối lội nhiều người trong cơ quan mật vụ, và theo dõi điện thoại của Eva Maria.

Những người đàn ông này bảo Umberto còn nợ chúng thứ gì đấy và phải trả lại, hoặc chúng sẽ lần theo dấu vết và bắt các con gái ông, rồi làm đủ thứ không tả xiết. Umberto nói không có tiền, nhưng bọn chúng cười nhạo ông và nhắc đến pho tượng vàng khảm bốn viên ngọc quý mà ông đã hứa với chúng từ lâu. Khi ông giải thích là không có và ông không thể trở về Italy, chúng nhún vai và nói tệ quá, chúng phải tìm ra các con ông. Rốt cuộc, Umberto đồng ý sẽ cố gắng tìm những viên ngọc quý, và bọn chúng cho ông thời hạn ba tuần lễ.

Trước khi rời đi, muốn cho ông biết bọn chúng không đùa, chúng lôi ông vào tiền sảnh và đánh ông. Trong lúc đấy, chúng làm đổ bình hoa Venetian trên bàn có ngọn chúc đài, bình hoa rơi xuống sàn và vỡ tan tành. Tiếng ồn làm bà Rose tỉnh giấc lơ mơ và ra khỏi phòng ngủ, rồi khi nhìn thấy sự việc, bà la hét từ đầu cầu thang. Một tên trong bọn rút súng và bắn bà, nhưng Umberto gạt được khẩu súng sang một bên. Không may, bà Rose quá sợ nên mất thăng bằng và ngã lăn xuống đến nửa cầu thang. Khi bọn chúng bỏ đi, Umberto mới tới được chỗ bà thì bà đã chết.

– Khổ thân bà Rose! – tôi kêu lên,- Ông kể với tôi rằng bà đã ra đi yên bình trong lúc ngủ.

– Tôi muốn ông nói thật, – tôi đáp. – Nếu ông nói thật từ nhiều năm trước…- tôi dừng lại hít một hơi thật sâu, họng tôi vẫn nghẹn tắc vì xúc cảm, – có khi chúng ta đã tránh được mọi chuyện này.

– Có thể. Nhưng giờ thì đã quá muộn rồi. Tôi muốn các cô biết…tôi muốn các cô vui vẻ…và sống như những người bình thường.

Umberto kể tiếp rằng ngay trong đêm bà Rose qua đời, ông đã gọi cho Eva Maria ở Italy và kể hết mọi sự. Thậm chí, ông còn nói rõ rằng bà có hai cháu gái. Ông cũng xin bà trả giúp ông khoản tiền mà những tên tội phạm kia yêu cầu. Nhưng bà nói rằng không thể trả một số tiền lớn như thế trong vòng ba tuần lễ. Ban đầu, bà muốn nhờ đến cảnh sát và con trai đỡ đầu của bà, Alessandro, nhưng Umberto hiểu rõ hơn hết. Chỉ có một cách duy nhất thoát khỏi cảnh này: làm như bọn khốn nói và tìm ra những viên ngọc quý trời đánh kia.

Cuối cùng, Eva Maria đồng ý giúp con trai và hứa sẽ thử lừa Hội tu sĩ Lorenzo ở Viterbo vào cuộc. Điều kiện duy nhất của bà là khi mọi việc chấm dứt, bà được gặp các cháu gái của mình và chúng sẽ không bao giờ được biết về những tội lỗi của cha chúng. Umberto đồng ý. Ông cũng không bao giờ muốn các con gái biết về quá khứ xấu xa của ông, vì thế không bao giờ muốn chúng tôi biết ông là ai. Ông tin chắc rằng nếu chúng tôi biết ông là cha, chúng tôi cố sẽ khám phá ra mọi chuyện.

– Nhưng thật nực cười! – Tôi phản đối. – Nếu ông kể cho chúng tôi sự thật, chúng tôi sẽ hiểu.

– Thế ư? – Umberto nói. – Tôi không dám chắc.

– Vậy thì, – Janice xen vào, – bây giờ chúng tôi cũng sẽ không hiểu nữa, được chưa?

Phớt lờ lời bình luận của nó, Umberto kể rằng, ngay ngày hôm sau, Eva Maria đã đến Viterbo nói chuyện với tu sĩ Lorenzo, và qua cuộc nói chuyện này, bà hiểu cần những gì để các vị thầy tu giúp bà tìm ra ngôi mộ của Romeo và Giulietta. Tu sĩ Lorenzo bảo bà phải làm lễ “hóa giải tội lỗi” cho dòng họ Salimbeni và Tolomei, và hứa khi bà làm xong, thầy sẽ đưa bà và những người sám hối khác đến ngôi mộ, quỳ gối trước Đức Mẹ Đồng Trinh nhân từ.

Vấn đề duy nhất là tu sĩ Lorenzo chưa chắc chắn tìm ra địa điểm ấy. Thầy biết ở đâu đó tại Siena có một lối vào bí mật, nhưng không biết chính xác ở đâu. Thầy kể với Eva Maria rằng, trước kia có một phụ nữ trẻ tên là Diane Tolomei đã đến thăm thầy và nói rằng đã hình dung ra lối vào đó ở đâu, nhưng không nói với thầy vì e những kẻ xấu có thể tìm ra pho tượng và phá hỏng nó. Diane cũng kể đã tìm thấy mảnh lụa thưởng từ năm 1340, và sắp làm một cuộc thử nghiệm. Chị muốn Giulietta, con gái bé bỏng của mình nằm trên đó với một chàng trai tên là Romeo, và rất hy vọng việc này sẽ hóa giải các tội lỗi trong quá khứ. Tu sĩ Lorenzo không chắc công việc suôn sẻ, nhưng thầy sẵn sàng thử. Thầy đã thảo thuận vài tuần sau Diane sẽ trở lại và họ sẽ cùng nhau đi tìm ngôi mộ. Nhưng buồn thay, chị không bao giờ đến nữa.

Khi Eva Maria kể cho Umberto nghe chuyện này, ông bắt đầu hy vọng kế hoạch của họ sẽ có hiệu quả. Vì ông biết Diane gửi một cái hộp giấy tờ trong nhà băng ở lâu đài Tolomei, và ông tin chắc trong số đó có manh mối của lối vào bí mật dẫn đến ngôi mộ.

– Hãy tin tôi, – Umberto nói, có lẽ cảm nhận được rung cảm tệ hại của tôi, – điều cuối cùng tối muốn là cuốn cô vào chuyện này. Nhưng chỉ còn lại hai tuần…

– Nên ông bịa đặt với tôi, – tôi kết luận, trào lên cơn giận mới mẻ với ông, – và để tôi tưởng rằng việc này đều do bà Rose làm.

– Còn em thì sao? – Janice phụ họa. – ông ấy để em ngỡ là được thừa kế một tài sản hậu hĩnh!

– Nhảm nhí! – Umberto vặc lại. – Cô hãy ăn mừng vì mình vẫn còn sống!

-Tôi cho rằng tôi chẳng là cái quái gì trong kế hoạch ti tiện của ông, – Janice nói tiếp, giọng cáu kỉnh – Jules lúc nào cũng là người thông minh.

– Cô thôi đi cho! – Tôi kêu lên. – Tôi là Giulietta, và tôi là người đang gặp nguy hiểm…

– Đủ rồi! – Umberto quát. – Hãy tin tôi, tôi không mong gì hơn là giữ các cô ở ngoài chuyện này. Nhưng chẳng còn cách nào. Vì thế, tôi phải nhờ một người bạn cũ để mắt đến Julie để biết chắc là nó an toàn…

– Ý ông là Bruno ư? – Tôi há hốc miệng. – Tô tưởng hắn cố giết tôi!

– Hắn ở đó để bảo vệ cô! – Umberto cãi. – không may là hắn tưởng kiếm bẫm trong việc này. – Ông thở dài. – Bruno là một nước cờ sai lầm.

– Vì thế ông đã bắt hắn ….im miệng? –Tôi tò mò.

– kKhông cần. Bruno biết quá nhiều người và quá nhiều chuyện. Bọn chúng sẽ không thích kéo dài thời gian hắn ở trong tù. – không thoải mái về việc này, Umberto tiếp tục cho rằng, về tổng thể, mọi việc đã theo đúng kế hoạch khi Eva Maria tin tôi là cháu gái của bà thật, chứ không phải là một diễn viên con trai bà thuê đóng thế, và cám dỗ được bà giúp đỡ. Bà nghi ngờ nên đã sai Alessandro lẻn vào phòng tôi ở khách sạn để lấy mẫu ADN. Khi đã có chứng cứ như mong muốn, ngay lập tức bà sắp xếp một bữa tiệc.

Nhớ lại mọi điều tu sĩ Lorenzo kể với mình, Eva Maria bảo Alessandro mang con dao găm của Romeo và cái nhẫn của Giulietta đến lâu đài Salimbeni, nhưng bà không nói lý do. Bà hiểu rằng chỉ cần loáng thoáng biết việc diễn ra, anh sẽ làm hỏng mọi sự bằng cách đưa cảnh sát tới. Trên thực tế, Eva Maria muốn giữ con trai đỡ đầu hoàn toàn ở ngoài kế hoạch của bà, nhưng vì anh là Romeo Marescotti nên bà cần anh đóng một vai – tuy không chủ tâm – trước tu sĩ Lorenzo.

Umberto nuối tiếc công nhận rằng nếu như Eva Maria cứ đưa tôi vào các kế hoạch của bà hoặc ít ra là một phần thì hay hơn. Nhưng chỉ vì mọi sự diễn ra chuệch choạc. Nếu tôi làm trọn vẹn những việc cần làm – uống vang của bà, lên giường và ngủ thiếp đi thì mọi sự sẽ êm ả.

– Đợi đã! – Tôi nói. – Ông nói bà ấy cho tôi uống thuốc ngủ ư?

Umberto ngập ngừng:

– Chỉ một chút thôi. Vì sự an toàn của cô.

– Không thể tin nổi. Bà ấy là bà nội tôi kia mà!

– Nếu đó là niềm an ủi, vì phải làm thế bà không vui tí nào. Nhưng tôi đã nói với bà đây là cách duy nhất để tránh cho cô bị liên lụy. Cô và Alessandro. Thật không may, có vẻ anh ta không uống.

– Nhưng khoan đã! – tôi phản đối. – Anh ấy đã lấy trộm cuốn sách của mẹ trong phòng khách sạn của tôi và đưa nó cho ông tối qua! Chính mắt tôi nhìn thấy!

– Cô nhầm! – Umberto rõ ràng khó chịu vì tôi cãi lại ông, và có thể hơi sửng sốt vì tôi đã chứng kiến cuộc gặp bí mật của ông với Alessandro. – Anh ta chỉ là người đưa tin. Sáng hôm qua, có người ở Siena đưua cho anh ta cuốn sách và nhờ chuyển cho Eva Maria. Hiển nhiên là Alessandro không biết đấy là sách ăn trộm, hoặc anh ta sẽ…

– Khoan! – Janice nói. – Chuyện này quá ngớ ngẩn. Tên trộm là ai và tại sao cái tên trời đánh ấy không ăn trộm cả cái hộp? Tại sao chỉ lấy một cuốn sách bìa mềm?

Umberto lưỡng lự, rồi kẽ nói:

– Vì mẹ các cô đã dặn ta về mật mã trong cuốn sách. Bà bảo ta rằng nếu có chuyện gì xảy ra với bà…. – ông không thể nói tiếp.

Tất cả chúng tôi im lặng một lát, cho đến khi Janice thở dài và nói: – tôi nghĩ ông nợ Jules một lời xin lỗi…

– Jan! – tôi ngắt lời nó. – Đừng nói thế!

– Nhưng hãy nhìn chuyện xảy ra với chị…- Nó khăng khăng.

– Đấy là lỗi của chị thôi! – Tôi vặc nó. – Chị là người…- Nhưng tôi không biết nói tiếp như thế nào.

Umberto càu nhàu:

– Tôi không thể tin được hai người! Tôi không dạy dỗ gì cô ư? Cô mới quen biết anh ta một tuần lễ…nhưng các người đã ở đó! Cả hai người thật chẳng ra sao!

– Ông rình mò chúng tôi sao? – Tôi cảm thấy ngượng chín mặt. – Đấy chỉ là…

– Tôi cần lấy mảnh lụa thưởng! – Umberto nói toạc ra. – Mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ, nếu hai người không…

– Trong khi các ông bàn về việc này, – Janice ngắt lời ông, – Alessandro biết nhiều không? Umberto khịt khịt mũi.

– Cố nhiên là anh ta biết đủ! Anh ta biết Julie là cháu nội của Eva Maria, nhưng Eva Maria muốn đích thân nói với cô ấy. Thế đấy. Như tôi đã nói, chúng tôi không liều dính đến cảnh sát. Vì thế Eva Maria không nói cho anh ta biết về nghi lễ với cái nhẫn và con dao găm cho đến lúc trước khi diễn ra, và hãy tin tôi, Alessandro không vui vì cứ phải giữ kín những chuyện ấy. Nhưng dù sao anh ta cũng đồng ý làm việc đó, vì Eva Maria nói đây là việc rất ý nghĩa cho bà và cho các cô, một nghi lễ như thế sẽ chấm dứt lời nguyền của hai gia đình. – Umberto dừng lại rồi nói, dịu dàng hơn, – câu chuyện phải kết thúc như thế này thật quá tệ.

– Ai bảo đây là đoạn kết? – Janice cắm cảu.

Umberto lặng thinh, nhưng tôi chắc cả hai chúng tôi đều biết ông đang nghĩ: ôi chao,dứt khoát đây là đoạn kết.

Lúc chúng tôi nằm đó trong sự im lặng chua xót, tôi có thể cảm thấy sự tàn ác khép lại quanh mình từ tứ phía, thấm vào thân thể qua vô số những vết thương nho nhỏ và rót đầy sự thất vọng vào tôi. Nỗi sợ tôi từng biết trước kia, khi bị Bruno Carrera săn đuổi hoặc khi Janice và tôi bị mắc kẹt trong đường hầm Bottini chẳng ăn nhằm gì so với những thứ tôi cảm thấy lúc này, giằng xé vì ân hận và hiểu rằng đã quá muộn để tôi uốn nắn lại các việc.

– Tôi hỏi vì tò mò thôi, – Janice lầm bầm, rõ ràng tâm trí nó lang thang trên một con đường khác hẳn tôi, dù có lẽ cũng phiền muộn như nhau, – ông thực sự yêu bà ấy không? Tôi muốn nói là mẹ chúng tôi ấy?

Khi Umberto không trả lời ngay, nó nói thêm, ngập ngừng hơn: -Và bà ấy có …yêu ông không?

Umberto thở dài:

– Bà ấy căm hận tôi. Đó là cơn chấn động lớn nhất của bà ấy. Bà ấy nói trong gien của chúng tôi có ý chí quyết tâm, vì thế bà ấy không thể làm khác được. Bà ấy thường gọi tôi là …- Ông ngừng lại, giọng ông trở nên rõ ràng. – Nino

Cuối cùng, khi chiếc xe tải đỗ lại, tôi gần như quên mất chúng tôi tới đâu và vì sao. Nhưng khi cánh cửa vừa bật mở, để lộ hình dáng Cocco và những tên bạn nối khố của hắn nổi bật trên nền giáo đường Siena trăng sáng vằng vặc, mọi sự trở lại với tôi như một cú đánh vào bụng.

Bọn chúng nắm mắt cá chân chúng tôi và kéo khỏi thùng xe, nhưng thể chúng tôi là hành lý, rồi trèo vào tóm tu sĩ Lorenzo. Sự việc xảy ra nhanh đến nỗi tôi chỉ nhớ được sự đau đớn khi bị đập mạnh trên sàn xe gợn sóng. Lúc chúng đặt chúng tôi xuống, cả Janice và tôi đều loạng choạng, không ai đứng thẳng được sau khi nằm lâu như thế trong bóng tối.

– Nhìn kìa! – Janice kêu lên, trong giọng nói của nó lấp lánh một tia hy vọng. – Các nhạc công!

Nó nói đúng. Có ba ô tô nữa đỗ cạnh một đống đá đổ ra từ chiếc xe tải, sáu người đàn ông mặc xmocking đứng quanh đó với các hộp đàn xenloo và violon; họ vừa hút thuốc vừa đùa bỡn. Cảnh đó khiến tôi nhẹ người, nhưng khi Cocco đến thẳng chỗ họ, giơ bàn tay lên chào, tôi hiểu ngay rằng những người này không đến để chơi nhạc, họ là đồng bọn của hắn ở Naples.

Lúc trông thấy Janice và tôi, bọn đàn ông lập tức lộ vẻ khoái trá. Không hề quan tâm đến tiếng ồn mà chúng gây ra, chúng huýt còi huýt sáo inh ỏi, cố để chúng tôi nhìn chúng. Umberto không cố ngăn cản trò vui ấy lại; vấn đề là ông – và chúng tôi – may mắn vẫn còn sống. Chỉ đến lúc nhìn thấy tu sĩ Lorenzo xuất hiện từ chiếc xe tải, sự hân hoan của chúng mới nhường chỗ cho một thứ giống như khó chịu, cả bọn cúi xuống cầm hộp đàn lên theo kiểu học sinh vồ lấy cặp khi giáo viên tới.

Với mọi người trong quảng trường đêm ấy – rất ít người, phần lớn là du khách và thiếu niên, chắc chúng tôi trông giống một nhóm người bản xứ bình thường từ lễ hội nào đó đến làm cho Palio. Bọn tay chân của Cocco không dừng lại để nói chuyện phiếm và cười đùa giữa đám đó, Janice và tôi bước đi ngoan ngoãn, mỗi người quấn một lá cờ to của lãnh địa, che giấu khéo léo những sợi thừng và những con dao bấm đang ép sát vào sườn chúng tôi.

Lúc chúng tôi đến gần lối vào chính của Santa Maria della Scala, tôi chợt trông thấy danh họa Lippi xách giá vẽ bước đi, chắc đang mải suy ngẫm các vấn đề thế tục khác. Không dám gọi để ông chú ý, tôi ráng hết sức nhìn ông chằm chằm, hy vọng vươn tới chỗ ông bằng tinh thần. Nhưng rốt cuộc, khi họa sĩ liếc nhìn về phía chúng tôi, cái nhìn của ông chỉ lướt qua mà không nhận ra, tôi ỉu xìu vì thất vọng.

Đúng lúc đấy, chuông giáo đường ngân vang báo nửa đêm. Đêm hôm đó nóng, tĩnh mịch và oi ả, có tiếng sấm sét từ nơi nào đó xa xăm báo sắp có cơn dông. Lúc chúng tôi lên đến chỗ cửa trước gớm ghiếc của bệnh viện cổ, những cơn gió mạnh đầu tiên quét qua quảng trường, xới tung từng mẩu rác rưởi trên đường, giống như lũ quỷ dữ vô hình đang lục tìm cái gì đó hoặc người nào đó.

Không phí phạm thì giờ, Cocco rút điện thoại di động ra và gọi; ít giây sau, hai ngọn đèn nhỏ ở hai bên cửa tắt ngóm, dường như toàn bộ khu nhà thở một hơi dài. Không hề hối hả, hắn tiến đến, rút chiếc chai khóa to bằng gang trong túi ra, tra vào lỗ khóa bên dưới tay cầm của cánh cửa đồ sộ, tiếng mở khóa vang to lanh lảnh.

Lúc này, khi chúng tôi sắp bước vào tòa nhà, tôi chợt nghĩ Santa Maria della Scala là một trong những nơi cuối cùng ở Siena tôi muốn thăm dò vào lúc nửa đêm, dù có dao gí sát vào sườn hay không. Theo lời Umberto, dù tòa nhà đã biến thành bảo tàng từ nhiều năm trước, nó vẫn có cả một quá trình đau ốm và chết chóc. Kể cả với người không tin vào ma quỷ, vẫn có nhiều thứ khác để khó chịu, đầu tiên là mầm bệnh dịch hạch ngấm ngầm. nhưng đấy không hẳn là thứ tôi cảm thấy; từ lâu rồi, tôi không còn điều khiển được số phận của mình nữa.

Lúc Cocco mở cánh cửa ấy, tôi tưởng sẽ có những hình bóng phù du và mùi thối rữa ào ra, nhưng ở bên kia cửa chỉ có bóng tối mát mẻ. Dù vậy, cả Janice và tôi vẫn ngập ngừng trên ngưỡng cửa, và chỉ khi bọn chúng kéo mạnh, chúng tôi đành miễn cưỡng, lảo đảo tiến vào chỗ chưa biết.

Khi mọi người đã ở bên trong và cánh cửa đóng lại an toàn sau lưng, một đám những ngọn đền nhỏ bừng sáng vì bọn chúng bật đèn đeo trên trán, và lách cách mở các hộp nhạc cụ. Xếp trong lớp xốp là đèn pin, vũ khí, các dụng cụ tự động chạy bằng điện, và khi lắp ráp các thứ xong, vỏ hộp bị đá sang một bên

– Andinamo!–Cocco nói, vẫy khẩu tiểu liên khi tất cả chúng tôi còn đang lưỡng lự ở cổng an ninh cao đến ngang đùi. Tay chúng tôi vẫn bị trói quặt sau lưng, Janice và tôi lúng túng không sao bước qua được, rốt cuộc bọn chúng phải chộp cánh tay chúng tôi và kéo mạnh qua cổng, mặc kệ chúng tôi la hét vì đau đớn lúc cẳng chân chúng tôi cọ xát vào các chấn song kim loại.

Lúc này, lần đầu tiên Umberto to tiêngs chống lại sự tàn bạo của chúng, ông nói gì đó với Cocco chỉ có thể có nghĩa là hãy nhẹ tay với các cô gái, nhưng đáp lại sự lo lắng của ông là một khuỷu tay thúc mạnh vào ngực khiến ông ho sặc sụa. Lúc tôi dừng lại xem ông có ổn không, hai tên tay sai sốt ruột túm lấy vai tôi và đẩy dúi về phía trước, bộ mặt lạnh lùng của chúng không hề lộ bất cứ xúc cảm nào.

Người duy nhất chúng đối xử có phần tôn trọng là tu sĩ Lorenzo, ông được phép ung dung và trèo qua cổng với thái độ đường hoàng còn lại của mình.

– Tại sao ông ấy vẫn bị bịt mắt? – Tôi thì thầm với Janice lúc bọn chúng vừa buông tôi ra. -Vì chúng sẽ để ông ta sống, – là câu trả lời ảm đạm của nó.

– Suỵt! – Umberto suỵt và nhăn mặt với chúng tôi. – Các cô càng ít chú ý đến bản thân càng hay.

Suy nghĩ cho kỹ, đây quả là một đòi hỏi quá cao. Cả Janice và tôi đều không tắm từ ngày hôm trước, nói gì đến rửa tay, và tôi vẫn mặc bộ váy dài màu đỏ trong bữa tiệc của Eva Maria, tuy lúc này nó đang ở trong tình trạng khá thiểu não. Sớm hôm đó, Janice đã gợi ý tôi mặc quần áo của mẹ trong tủ áo và bỏ qua mục áo lót. Nhưng khi mặc thử, cả hai đều thấy không chịu nổi mùi băng phiến. Thế là tôi ở đây, đi chân đất, cáu ghét nhưng vẫn mặc váy dạ hội

Chúng tôi im lặng bước đi, theo sau những ngọn đèn trên đầu nhấp nhô lúc bọn chúng đi dọc các hành lang tối tăm và xuống vài cầu thang khác. Dẫn đầu là Cocco là một trong những tên tay sai, một gã cao, da vàng ệch, mặt dữ tợn, vai khòm khiến tôi nghĩ tới một con chim kền kền đầu trọc. Thỉnh thoảng, hai tên dừng lại và tìm đường theo một tờ giấy rộng khổ, tôi đoán là bản đồ tòa nhà. Mỗi khi chúng làm thế, một tên lại giật mạnh tóc hoặc tay tôi để bắt tôi cũng dừng lại. Lúc nào cũng năm tên đi trước và năm tên đi sau chúng tôi, và nếu tôi thử trao đổi những cái liếc nhìn với Janice hoặc Umberto, tên đi sau tôi lại ấn họng súng vào giữa hai bả vai tôi cho đến khi tôi hét lên vì đau. Ngay cạnh tôi, Janice cũng bị đối xử y như thế; dù tôi không thể nhìn nó, tôi biết nó cũng sợ hãi và điên tiết như tôi, chỉ vì vô phương tự vệ.

Dù những bộ xmockinh và tóc vuốt keo, bọn chúng vẫn nặng mùi, cho thấy chúng cũng bị sức ép. Hoặc có thể đây là mùi tôi có thể ngửi thấy của tòa nhà, càng đi sâu vào lòng đất, mùi càng nồng nặc. Chỉ nhìn qua, toàn bộ nơi này có vẻ rất sạch sẽ, thậm chí vô trùng, nhưng khi đi sâu vào những hành lang hẹp bên dưới tầng hầm rắc rối như mạng nhện, tôi không sao giũ bỏ được cảm giác- ở bên kia các bức tường khô ráo, niêm phong cẩn thận kia – là thứ thối rữa, mục nát đang chậm rãi ăn thủng lớp vữa trát.

Cuối cùng, khi tất cả dừng lại, tôi đã mất hẳn cảm giác về phương hướng từ lâu. Tôi thấy chắc chúng tôi phải ở sâu dưới đất ít nhất mười lăm mét, nhưng tôi không còn chắc chắn là đang ở ngay dưới Santa Maria della Scala hay không nữa. Lúc này run rẩy vì lạnh, tôi nhấc hết chân này đến chân kia, cọ xát bàn chân vào bắp chân cho máu lưu thông.

– Jules! – Janice bỗng nói, cắt ngang sự cố gắng của tôi. – Kìa!

Tôi ngỡ có kẻ đánh cả hai chúng tôi vào đầu để ngăn nói chuyện, nhưng thay vào đó, chúng kéo chúng tôi tới trước cho đến khi mặt đối mặt với Cocco và con kền kền đầu trọc.

– Giờ thì sao đây, các cô gái? – Cocco nói, ngọn đèn đeo trên đầu hắn khiến chúng tôi lóa cả mắt.

– Hắn nói gì thế? – Janice rít lên, nó quay đầu tránh chùm ánh sáng.

– Bạn gái gì đó, – tôi đáp khẽ, không yên tâm tí nào về cách hiểu từ đó.

– Hắn nói: “giờ thì sao đây, các cô gái?” – Umberto xen vào. – Đây là phòng của Thánh nữ Caterina, từ đây chúng ta đi đến đâu?

Lúc đó chúng tôi mới nhận ra con kền kền đang chĩa đèn pin qua cái cửa mắt cáo trên tường, chiếu sáng một phòng nhỏ của tu viện, có một giường hẹp và một bàn thờ. Trên giường có pho tượng một phụ nữ nằm nghiêng – chắc là Thánh nữ Caterina – và bức tường đằng sau giường bà sơn màu xanh lơ, khảm nhiều ngôi sao màu vàng.

– Ơ, – Janice nói, nó cũng kinh hoàng như tôi khi phát hiện ra chúng tôi đang ở đây thật, căn phòng được nhắc tới trong câu đó khó hiểu của mẹ. “đưa cho tôi cái xà beng”

– Bây giờ thì sao? – Umberto hỏi, muốn chứng tỏ với Cocco chúng tôi có ích biết chừng nào. Janice và tôi nhìn nhau, quá hiểu rằng những chỉ dẫn của mẹ đã chấm dứt ở đó, với một câu vui vẻ,” và các cô gái giẫm chân lên nó!”

– Đợi đã…-Tôi chợt nhớ ra một mẩu khác, – Ồ phải rồi…”vứt cây thánh giá..”

– Cây thánh giá ư? – Trông Umberto bối rối. – Cây thánh giá…

Tất cả chúng tôi vươn người nhìn vào căn phòng lần nữa, và khi Cocco gạt chúng tôi sang một bên để nhìn tận mắt, Janice gật đầu thật mạnh, cố dùng mũi để chỉ.

– Kia kìa! Nhìn đi! Dưới bàn thờ!

Đúng thế, bên dưới bàn thờ có một viên đá hoa to khảm cây thánh giá màu đen, nom rất giống cửa ngôi mộ. Không để lỡ, Cocco lùi lại và chĩa khẩu tiểu liên vào cái khóa móc giữ cánh cửa mắt cáo. Trước khi mọi người có thời giờ chạy đi tìm chỗ nấp, hắn đã lia một tràng điếc tai, cánh cửa mắt cáo rời khỏi bản lề, mở toang.

– Ôi, Jesus! – Janice kêu to, nhăn nhó vì đau. – Em nghĩ nó thổi bay màng nhĩ em rồi. Thằng cha này điên thật

Không một lời, Cocco quay ngoắt lại, nắm lấy họng Janice và siết mạnh đến nỗi nó suýt ngạt thở. Sự việc xảy ra nhanh đến mức tôi không kịp nhìn thấy, cho đến lúc hắn buông Janice ra và nó quỵ gối há hốc miệng hít lấy hít để không khí.

– Ôi Jan! – Tôi kêu lên, quỳ xuống cạnh nó. – Em không sao chứ?

Đáp lại, nó mất một lúc để hít thở. Rồi cuối cùng mới nói, giọng run bắn – Cẩn thận đấy….- Nó lẩm bẩm, chớp chớp mắt, – hắn hiểu tiếng Anh.

Lát sau, bọn chúng tới chỗ cây thánh giá dưới bàn thờ, mang theo xà beng, máy khoan, và khi viên đá lát đã lỏng ra rồi rơi thịch lên sàn làm bốc lên một đám bụi mù mịt, không ai ngạc nhiên thấy đằng sau là một đường hầm.

Ba ngày trước, khi bò khỏi miệng cống ở Campo, Janice và tôi đã hứa với nhau không bao giờ mò mẫm xuống hang Bottini lần nữa. Vậy mà chúng tôi ở đây, đi qua một lối nhỏ hơn lỗ sâu đục trong bóng tối mịt mùng và không bầu trời xanh nào vẫy gọi ở đầu kia.

Trước khi đẩy chúng tôi vào hang, Cocco cắt dây trói cho chúng tôi, chẳng phải hắn tử tế gì, mà chỉ vì đấy là cách duy nhất để chúng tôi đi cùng. May mắn thay, hắn vẫn ngỡ là cần chúng tôi để tìm ra ngôi mộ của Romeo và Giulietta, hắn không biết rằng, cây thánh giá ở dưới gầm bàn thờ trong phòng Thánh nữ Caterina là manh mối cuối cùng trong những chỉ dẫn của mẹ tôi.

Nhích từng tí một sau Janice, chẳng nhìn thấy gì ngoài chiếc quần jeans của nó và thỉnh thoảng ánh nhấp nháy của những cái đèn đeo trên đầu đập vào bề mặt lởm chởm của hang, tôi ước giá tôi cũng mặc quần. Tôi vướng víu trong cái váy dài lượt thượt và lớp nhung mỏng chẳng che chở được đầu gối trầy xước khỏi lớp sa thạch gồ ghề. May mắn duy nhất là tôi tê dại vì giá lạnh nên hầu như không cảm thấy đau.

Cuối chàng, khi tới cuối đường hầm, tôi nhẹ người vì bọn chúng không thấy tảng đá mòn hoặc đống đá vụn chắn đường và bắt chúng tôi quay lại.Thay vào đó, chúng tôi rơi vào một cái hang trống trải, bề rộng khoảng sáu mét và đủ cao cho mọi người đứng thẳng.

– Eora? – Cocco nói lúc Janice và tôi vừa lọt vào tầm nghe, lần này chúng tôi không cần Umberto dịch nữa. Câu hỏi đó là Bây giờ làm gì?

– Ôi không! – Janice thì thầm với tôi, – đây là đường cùng rồi!

Đằng sau chúng tôi, bọn chúng cũng nhô ra từ đường hầm, một người trong đó là tu sĩ Lorenzo, ông thoát dễ dàng vì được tên kền kền đầu trọc và một tên khác có tóc buộc đuôi ngựa đỡ, như thể ông là một hoàng tử được các bà mụ hoàng gia nâng niu. Một tên nào đó còn khoan dung bỏ cái bịt mắt trước khi đẩy vị thầy tu già vào hang và lúc này tu sĩ Lorenzo hăm hở bước tới, mắt mở to ngạc nhiên dường như ông quên bẵng hoàn cảnh hung bạo đã đưa ông tới đây.

– Chúng ta làm gì đây? – Janice rít lên, cố nhìn thẳng vào mắt Umberto. Nhưng ông còn mải phủi đất bụi bám trên quần nên không bắt được sự căng thẳng đột ngột đó. – Đường cùng tiếng Ý nói thé nào?

May cho chúng tôi, Janice nhầm. Lúc nhìn quanh cẩn thận hơn, tôi thấy có hai lối nữa vào hang, ngoài cái đường như sâu đục mà chúng tôi vừa đi. Một lỗi ở trên trần, nhưng là một ống dài, tối tăm, cửa vào bị chặn bằng một tấm bê tông, dù có thang cũng không thể với tới. Nó giống như cái máng đổ rác cổ, và ấn tượng này càng rõ hơn khi có lối vào khác ở ngay trên sàn, đúng chỗ đó. Hoặc ít ra, tôi cho rằng có một lỗ hổng bên dưới tấm kim loại han gỉ trên sàn hang, giấu trong bụi bặm và đá vụn. Về lý thuyết, nếu ai rơi từ trên cao – nếu cả hai lỗ đều mở, – có thể xuyên qua hang mà không dừng lại ở giữa.

Thấy Cocco vẫn nhìn Janice và tôi đợi chỉ dẫn, tôi làm cái việc hợp lý duy nhất là chỉ vào tấm kim loại trên sàn.

– Tìm kiếm, lục soát, – tôi nói, cố bịa ra một lời chỉ dẫn đủ khó hiểu, – nhìn xuống bên dưới bàn chân. Vì Juliet nằm ở đây.

– Phải! – Janice gật dầu, lo lắng giật mạnh cánh tay tôi. – Juliet nằm ở đây.

Sau khi liếc nhìn Umberto để khẳng định, Cocco bảo bọn kia dùng xà beng bẩy tấm kim loại, làm nó long ra và đẩy sang một bên, chúng dốc sức làm việc đó vì tu sĩ Lorenzo đã lui vào một góc và bắt đầu lần chuỗi tràng hạt.

– Tội nghiệp ông già, – Janice nói và cắn môi, – ông ấy mất trí rồi. Em chỉ mong…-Nó không nói hết, nhưng tôi biết nó nghĩ gì, vì tôi cũng nghĩ như thế từ lâu lắm rồi. Vấn đề duy nhất là thời gian, trước khi Cocco nhận ra vị thầy tu già chẳng là gì ngoài một gánh nặng. Và khi việc đó xảy ra, chúng tôi không thể làm được gì để cứu thầy.

Lúc này đây chúng tôi được tự do, nhưng cả hai đều hiểu rằng mình vẫn bị kẹt như trước. Tên cuối cùng vừa thoát khỏi đường hầm, tên tóc đuôi ngựa đã đứng chắn trước lỗ hổng, để chắc chắn không kẻ ngu ngốc nào cố bỏ đi. Thế là, đường thoát duy nhất khỏi hang cho Janice và tôi – dù có hay không có Umberto và tu sĩ Lorenzo – là xuống ống cống với những kẻ khác.

Cuối cùng, khi cái nắp kim loại đã dẹp xong, lộ ra một lỗ hổng trên sàn, đủ to cho một người đàn ông trèo qua. Bước tới, Cocco soi cái đèn pin vào lỗ và sau một lát do dự, những tên kia làm theo, lẩm bẩm với nhau chẳng mấy sốt sắng. Mồi hôi thối bốc lên từ chỗ tối tăm bên dưới, Janice và tôi không phải là người duy nhất bịt mũi, nhưng chỉ một lúc sau, không thể chịu nổi nữa. Rõ ràng, chúng tôi không mấy quen với mùi thối rữa này.

Dù nhìn thấy gì ở dưới đó, Cocco cũng chỉ nhún vai và nói:

– Un bel niente.

– Hắn nói chẳng có gì, – Umberto dịch và cau mày.

– Thì hắn mong cái quái gì? – Janice chế nhạo. –Một biển hiệu bằng neon viết. Hỡi bọn cướp, đây là đường đến ngôi mộ ư?

Lời bình phẩm của Janice kiến tôi rúm lại, và khi thấy nó ném cái nhìn trừng trừng, chọc tức vào Cocco, tưởng hắn sẽ nhảy tới và tóm lấy cổ họng nó lần nữa.

Nhưng hắn không làm thế. Thay vào đó, hắn nhìn nó theo kiểu tính toán, kỳ lạ và tôi chợt hiểu ra rằng cô em gái khôn ngoan của tôi đã thăm dò hắn ngay từ lúc đầu, cố tính toán cách mắc mồi và câu hắn. Tại sao? Vì hắn là con đường duy nhất ra khỏi đây.

– Dai, dai! -Hắn chỉ nói thế và ra hiệu cho bọn kia nhảy xuống hố, tên nọ tiếp tên kia. Căn cứ vào việc bọn chúng thu hết can đảm trước khi làm việc đó và những tiếng kêu yêu ớt vọng ra từ bên dưới lúc chúng đập vào sàn một cái hang khác, có thể thấy tiếng rơi đủ to như một thách thức, nhưng chưa đủ to để cần một sợi dây.

Đến lượt chúng tôi, Janice bước tới ngay, chắc để chứng tỏ cho Cocco thấy chúng tôi không sợ. Khi hắn chìa tay ra giúp nó – có lẽ là lần đầu tiên trong nghề – nó nhổ vào lòng bàn tay hắn trước khi tụt xuống và biến mất qua lỗ hổng. Thật không ngờ, hắn chỉ nhe răng ra cười và nói gì đó với Umberto, tôi lấy làm mừng là không hiểu. Nhìn thấy Janice vẫy tôi từ hang bên dưới, và khoảng cách dựng đứng không quá hai mét rưỡi hoặc ba mét, tôi cũng nhảy xuống và rơi vào những cánh tay đưu ra để đốn lấy tôi. Tuy nhiên, lúc chúng đỡ và đặt tôi lên sàn, một trong những tên đó trơ trẽn mò mẫm tôi, và tôi cố chống lại hắn nhưng vô hiệu

Cười sằng sặc, hắn tóm cả hai cổ tay tôi và cố kéo cả bọn vào trò vui, nhưng lúc tôi bắt đầu hoảng hốt, Janice đã lao tới cứu tôi, lao qua những bàn tay và cánh tay, chặn giữ tôi và bọn đàn ông.

– Chúng mày muốn vui hả? – Nó hỏi, và nhăn mặt ghê tởm. – Đây là thứ chúng mày thèm phải không? Hả? Tại sao chúng mày không vui vẻ với tao đây… – Nó xé toạc áo sơ mi của nó, điên cuồng giận dữ đến mức bọn đàn ông không biết nên làm gì. Sững sờ nhìn vào cái nịt ngực của nó, tất cả lùi lại, trừ tên khai mào trò chơi. Vẫn cười tự mãn, hắn trâng tráo thò tay sờ ngực Janice nhưng bị một tràng súng điếc tai chặn lại, làm tất cả giật mình và hoang mang

Rất nhanh, một trận mưa sa thạch vỡ vụ ào ào đè gí mọi người xuống, đầu tôi đập xuống sàn, miệng và lỗ mũi tôi đầy đất cát, tôi choáng váng hồi tưởng lúc ngạt thở vì hơi cay ở Rome và ngỡ mình sắp chết. Trong vài phút, tôi ho dữ dội, suýt nôn và không chỉ mình tôi như vậy. Xung quanh tôi, bọn đàn ông gục xuống hết, kể cả Janice. Sự an ủi duy nhất là sàn hang không rắn và đàn hồi lạ lùng, nếu không, đá rắn có thể đã làm tôi ngất xỉu rồi.

Rốt cuộc, ngước nhìn qua màn bụi mình, tôi thấy Cocco đứng đó, khẩu tiểu liên trong tay, đợi xem có tên nào muốn đấu nữa không. Nhưng không ai dám. Hình như loạt đạn cảnh cáo đã làm chấn động hang, nhiều mảng trên trần rơi xuống, và bọn đàn ông mải gỡ đá vụn trên tóc và quần áo, càng kích thích quyết tâm của hắn.

Hài lòng vì hiệu ứng vừa tạo ra, Cocco chỉ hai ngón tay vào Janice và nói, bằng giọng không ai có thể bỏ qua.

– La stronza è mia! – không biết chắc stronza là gì, song tôi thực sự hiểu cái thông điệp chung: Không ai được tàn phá em gái tôi, trừ hắn.

Gượng đứng lên, tôi nhận thấy mình run rẩy toàn thân, không thể kiềm chế nổi thần kinh nữa. Lúc Janice đến bên tôi, quàng tay quanh cổ tôi, tôi cũng cảm thấy sự run rẩy của nó.

– Em điên thật, – tôi nói và siết chặt lấy nó. – Bọn này không giống như những kẻ dễ bịp em vẫn điều khiển đâu. Tội ác khó điều khiển lắm.

Janice khịt mũi:

– Tất cả bọn đàn ông đều điều khiển được. Chỉ cần cho em thời gian thôi. Trước hết, phải làm cho thằng điên Cocco thả chúng ta khỏi đây đã.

– Chị không chắc điều đó, – tôi lẩm bẩm, quan sát bọn chúng hạ tu sĩ Lorenzo đang rất lo lắng từ hang trên xuống. – Chị nghĩ mạng sống của chúng ta khá rẻ rúng trong mắt những kẻ này.

– Thế tại sao chị không nằm xuống và chết ngay bây giờ đi? – Janice nói, tự gỡ rối. – Cách ấy dễ hơn nhiều kia mà?

– Chị đang cố là người phải lẽ, – tôi bắt đầu, nhưng nó không để tôi nói tiếp.

– Chị chẳng bao giờ làm được việc gì phải lẽ trong đời! – Nó thắt nút tà sơ mi rách toạc lại. – Sao lại bắt đầu lúc này.

Lúc nó giậm chân huỳnh huỵch trán xa tôi, tôi suýt ngồi bệt xuống và từ bỏ. Cứ nghĩ đây là toàn bộ việc tôi làm – toàn bộ cơn ác mộng săn đuổi kho báu – và có thể tránh được nếu tôi tin Alessandro và không bỏ chạy khỏi lâu đài Salimbeni theo cách tôi đã làm. Nếu như tôi cứ ở lại đó, không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì và quan trọng hơn cả là không làm gì, có lẽ bây giờ tôi vẫn ở đó, lại ngủ thiếp đi trên chiếc giường quây màn trướng trong vòng tay anh. Nhưng số mệnh đòi hỏi tôi phải làm khác. Thay vào đó tôi đang ở đây, trong ruột nơi nào không biết, dơ dáy ngoài sức tưởng tượng và thụ động quan sát trong lúc con quái vật giết người lăm lăm khẩu tiểu liên đang quát tháo cha tôi, còn em gái tôi bảo hắn đi tiếp tới đâu đó trong cái hang này không có lối ra. Thừa biết tôi không thể đứng đó mà không làm gì khi họ cần tôi giúp đến thế, tôi cúi nhặt cái đèn pin rơi trên nền. Lúc đó tôi nhận ra có cái gì đó thò ra khỏi đất trước mắt tôi.

Trong chùm ánh sáng nhợt nhạt, trông nó giống một cái vỏ sò lớn, nứt nẻ, nhưng rõ ràng không phải thế. Đại dương ở cách đây gần năm chục dặm. Tôi quỳ xuống xem xét kỹ hơn, và mạch tôi đập nhanh hơn khi nhận ra tôi đang nhìn vào một mảnh sọ người. Sau nỗi kinh hoàng ban đầu, tôi ngạc nhiên thấy sự phát hiện không làm tôi hoang mang nhiều lắm. Nhưng sau đó, cân nhắc đến những lời chỉ dẫn của mẹ, cảnh tượng hài cốt con người là điều mong đợi; rốt cuộc, chúng tôi đang đi tìm một ngôi mộ kia mà. Thế là tôi bắt đầu đào vào lớp nền xốp bằng tay không, xem những thứ khác của bộ xương có đấy không, và quyết tâm làm thế một lúc không lâu, tôi thấy đúng là nó ở đấy thật. Nhưng không chỉ có một. Ngay dưới nền – một thứ hỗn hợp đất với tro, theo cảm nhận, – đáy hang đầy những xương người xếp chặt, cài vào nhau thành một mớ hỗn độn.

Một nấm mồ à? Không đâu, một nguồn sáng đấy, Chàng tuổi trẻ đoản mệnh.

Vì nơi đây yên nghỉ Juliet và vẻ đẹp của nàng

Đã biến hầm mộ này thành phòng dạ hội đèn đuốc tưng bừng

— ——–oOo—- ——-

Phát hiện rùng rợn của tôi khiến mọi người lùi lại khiếp sợ, và Janice suýt nôn thốc khi nhìn thấy thứ tôi tìm ra.

– Lạy Chúa tôi! – Nó ọe. – Đây là một ngôi mộ khổng lồ! – Lảo đảo lùi lại, nó lấy cánh tay áo bịt chặt miệng và mũi. –Toàn bộ những nơi này thật tởm lợm…chúng ta đang ở trong một hố chôn người bị dịch hạch! Đầy những vi trùng. Tất cả chúng ta sẽ chết!

Sự kinh hoàng của nó gây ra một làn sóng sợ hãi lan khắp đám đàn ông, và Cocco phải hét vỡ phổi bắt mọi người trấn tĩnh. Người duy nhất có vẻ không quá rã rời là tu sĩ Lorenzo, thầy chỉ cúi đầu và lâm râm cầu nguyện, có lẽ cho linh hồn của những người đã chết, có lẽ phải đến hàng trăm, nếu không đến hàng ngàn người, tùy thuộc vào độ sâu thực sự của hang.

Nhưng Cocco không còn tâm trạng nào mà nghe cầu nguyện.

Dùng báng súng gạt phắt vị thầy tu sang một bên, hắn chỉ thẳng vào tôi và quát câu gì đó cáu kỉnh.

– Hắn muốn biết từ đây đi tới đâu nữa, – Umberto dịch, giọng ông là đối trọng bình tĩnh với sự cuồng loạn của Cocco. – Hắn nói cô đã kể với hắn, Giulietta được chôn trong ngôi mộ này.

– Tôi không nói thế. …-Tôi phản đối, thừa biết chính tôi đã nói vậy. – Mẹ nói là ….Đi qua cửa và Juliet nằm đây.

– Cửa ở đâu? – Cocco muốn biết, hắn trừng trừng nhìn đây nhìn đó. – Tôi, tôi chẳng thấy cánh cửa nào!

– Cánh cửa đó là ở đây, – tôi nói dối. – Ở chỗ nào đó.

Mắt Cocco long lên và hắn gầm gừ một câu thô bạo rồi giậm chân thình thịch.

– Hắn không tin, – Umberto nói, dứt khoát. – Hắn nghĩ là cô lừa hắn. Giờ hắn đến nói chuyện với tu sĩ Lorenzo.

Janice và tôi mỗi lúc thêm lo lắng, quan sát bọn đàn ông vây quanh vị tu sĩ và bắt đầu dồn dập hỏi thầy. Điếng người vì sợ, thầy cố gắng nghe cả bọn cùng một lúc, nhưng lát sau thầy chỉ nhắm mắt và bịt hai tai lại

– Thằng ngu! – Cocco cười khinh bỉ, với tay tới ông già.

– Không! – Janice kêu lên, chạy ào tới và nắm lấy khuỷu tay Cocco, ngăn hắn xúc phạm tu sĩ Lorenzo – Để tôi thử! Tôi cầu xin đấy! Sau vài giây ớn lạnh, xem chừng em gái tôi đã đánh giá quá cao khả năng của nó với tên côn đồ. Theo kiểu Cocco nhìn trừng trừng vào khuỷu tay hắn – bàn tay Janice vẫn quấn quanh đó – hắn đang thăm dò xem nó thực sự có gan ngăn cản hắn không.

Chắc là hiểu ra sai lầm của mình, Janice vội buông cánh tay Cocco và khuỵu gối ôm lấy chân hắn quy phục, sau một lúc van lơn hắn đổi ý, cuối cùng Cocco giơ hai tay lên, cười toe toét và nói gì đó với đồng bọn, có vẻ như Lũ đàn bà! Đàn ông còn biết làm gì được?

Thế là, nhờ Janice, chúng tôi được phép trò chuyện với tu sĩ Lorenzo mà không bị cản trở, trong lúc Cocco và người của hắn hút hết bao thuốc lá và đá cái sọ người như một quả bóng.

Chúng tôi đứng chắn để tu sĩ Lorenzo không thể nhìn thấy cái trò chơi ghê tởm nọ, chúng tôi hỏi

– qua Umberto – liệu thầy có biết từ chỗ chúng tôi, làm théế nào để đến được ngôi mộ của Romeo và Giulietta? Vừa hiểu câu hỏi, vị tu sĩ trả lời ngay và lắc đầu dứt khoát.

– Ông ấy nói rằng, Umberto dịch, – ông không muốn chỉ chỗ ngôi mộ cho những kẻ xấu xa này. Ông ấy biết chúng sẽ báng bổ nó. Và ông ấy nói không sợ chết.

– Xin Chúa giúp chúng con! – Janice lẩm bẩm, thì thầm. Rồi đặt bàn tay lên cánh tay Lorenzo, nó nói. – Chúng con hiểu. Nhưng thầy thấy đấy, bọn chúng sẽ giết cả chúng ta nữa. Rồi sau đó chúng sẽ trở lại đây, bắt cóc thêm nhiều người và giết chết họ. Các linh mục, phụ nữ, những người vô tội. Việc đó sẽ không bao giờ kết thúc, cho đến khi nào có người đưa chúng đến ngôi mộ đó.

Sau lời dịch của Umberto, tu sĩ Lorenzo ngẫm nghĩ một lát. Rồi thầy chỉ vào tôi và hỏi một câu có vẻ kết tội lạ thường.

– Ông ấy hỏi liệu chồng cô có biết cô ở đâu không? – Umberto nói, trông kinh ngạc, bất chấp tình huống. – Ông ấy cho là cô rất ngu mới ở đây, bị bọn xấu xa vây quanh, trong khi lẽ ra cô phải ở nhà, thực hiện bổn phận của mình.

Tuy không thể nhìn thấy, nhưng tôi có thể cảm thấy Janice đang tròn mắt, không tin vào toàn bộ chuyện này. Nhưng tu sĩ Lorenzo có một vẻ chân thật lạ thường, đến mức câu nói đó cứ ngân vang trong lòng tôi, theo kiểu mà em gái tôi không bao giờ và sẽ không bao giờ hiểu nổi.

– Con biết,- tôi nói và gặp cái nhìn của tu sĩ. – Nhưng bổn phận quan trọng nhất của con là kết thúc lời nguyền. Thầy hiểu thế mà. Con không thể làm được việc đó nếu thầy không giúp đỡ. Sau khi nghe câu trả lời của tôi, tu sĩ Lorenzo hơi cau mày và giơ tay chạm vào cổ tôi.

– Ông ấy hỏi cây thánh giá đâu rồi, – Umberto dịch. – Cây thánh giá sẽ che chở cô khỏi bọn quỷ dữ.

– Con…không biết nó ở đâu, – tôi lắp bắp, nghĩ lại lúc Alessandro tháo nó khỏi cổ tôi – theo lối bông đùa – và để nó lên cái giá cạnh giường cùng chỗ tôi để viên đạn của anh. Sau đó, tôi quên bẵng.

Nghe tôi trả lời, rõ ràng tu sĩ Lorenzo rất không vui, và cũng không hài lòng khi phát hiện ra tôi không còn đeo chiếc nhẫn ấn có hình đại bàng nữa.

– Ông ấy bảo sẽ rất nguy hiểm cho cô nếu cô tiếp cận ngôi mộ như thế này, – Umberto nói và lau mồ hôi trên trán, – ông ấy muốn cô xem xét lại.

Tôi nuốt ực mấy lần, cố kiềm chế trái tim đang đập điên cuồng. Rồi tôi nói, trước khi có thể tự thuyết phục mình:

– Nói với ông ấy là tôi sẽ không xem xét gì hết. Tôi không còn lựa chọn nào cả. chúng ta phải tìm ra ngôi mộ đó tối nay. – Tôi hất đầu về phía những kẻ đằng sau tôi. – Bọn kia là lũ ác quỷ đích thực. Chỉ có Đức Mẹ Đồng Trinh Maria mới có thể che chở cho chúng ta khỏi bọn chúng. Nhưng tôi biết hình phạt sẽ tìm ra chúng.

Rốt cuộc, tu sĩ Lorenzo gật đầu. Nhưng thay vì nói, thầy nhắm mắt lại và bắt đầu ngân nga một giai điệu ngắn, đầu lắc lư tới, lui dường như đang nhớ lại lời một bài hát. Liếc nhìn Janice, tôi thấy nó nhăn mặt với Umberto, nhưng lúc nó há miệng định bình phẩm về sự tiến bộ của tôi – hoặc cũng có thể là không, – tu sĩ ngừng ngân nga, thầy mở mắt và đọc thuộc lòng một thứ giống như bài thơ ngắn.

– Nạn dịch hạch canh giữ Đức Mẹ Đồng Trinh, – Umberto dịch, – đó là điều cuốn sách nói.

– Cuốn sách nào? – Janice tò mò.

– Lúc này hãy nhìn bọn chúng, – Umberto phớt lờ nó, dịch tiếp, – những kẻ vô thần, đàn ông và đàn bà, nằm úp mặt trước cánh cửa vẫn đóng vĩnh viễn của Người. – tu sĩ Lorenzo nói cái hang này ắt phải là phòng chờ cổ dẫn tới hầm mộ. Vấn đề là…- Umberto sững lại khi tu sĩ đột nhiên tiến thẳng tới cách hang gần nhất, lẩm bẩm một mình.

Không biết phải làm gì, chúng tôi ngoan ngoãn theo tu sĩ Lorenzo lúc đang chậm rãi đi quanh cái hang, bàn tay sờ lên vách. Lúc này, hiểu thứ chúng tôi đang giẫm lên, tôi cảm thấy hơi run trong từng bước đi, và những luồng khói thuốc lá gần như dễ chịu vì nó xua tan thứ mùi khác trong hang, mà tôi biết là mùi chết choc.

Khi chúng tôi đã đi được một vòng tròn và trở lại nơi bắt đầu, – trong lúc cố phớt lờ những lời chế nhạo thô lỗ của đồng bọn Cocco, chúng khinh bỉ và thích thú quan sát chúng tôi, – cuối cùng tu sĩ Lorenzo dừng lại và nói.

– Giáo đường Siena nằm theo hướng Đông –Tây, – Umberto giải thích, – lối vào quay mặt về hướng Tây. Đó là thông lệ của các giáo đường. Vì thế, các cô tưởng rằng hầm mộ cũng thế. Nhưng cuốn sách nói rằng…

– Cuốn sách nào? – Janice lại hỏi.

– Hỏi tào lao, – tôi cáu. – Cuốn sách nào đó các tu sĩ đọc ở Viterbo, được chưa?

– Cuốn sách nói, – Umberto dịch tiếp và giận dữ nhìn cả hai chúng tôi, “ phần đen của Đức Mẹ Đồng Trinh là phản chiếu phần trắng của cửa”, có nghĩa là hầm mộ – là phần đen, nằm dưới đất – thực ra đặt theo hướng Tây – Đông, lối vào quay mặt về hướng Đông, vì thế cánh cửa dẫn tới đó từ phòng này sẽ quay mặt về hướng Tây. Các cô có đồng ý không?

Janice và tôi nhìn nhau; trông nó choáng váng y như tôi vậy.

– Tôi không biết làm thế nào ông ấy rút ra kết luận đó, – tôi nói với Umberto, – nhưng vào thời điểm này, chúng ta phải tin vào mọi thứ.

Lúc nghe tin, Cocco quẳng ngay điếu thuốc đang hút dở và xắn tay áo lên xem la bàn trên đồng hồ đeo tay. Vừa tin chắc đường về hướng Tây, hắn bắt đầu quát đồng bọn. Ít phút sau, bọn chúng rối rít phá nền ở phần cực Tây của hang, sục các bàn tay trần vào các xương tay chân rồi ném sang một bên, dửng dưng như thể đấy là những cành cây khô. Một cảnh tượng kỳ dị, những kẻ đàn ông mặc xmockinh, đi giày đen bóng láng, đèn đeo trên đầu, bò lổm ngổm, không chút lo lắng khi phải hít thở bụi của xương cốt đang tan rã. Nôn nao tận ruột gan, tôi quay sang Janice, nó sững sờ vì cuộc khai quật. Khi thấy tôi nhìn, nó hơn nhún vai và nói:

– Thưa tiểu thư, từ hang ổ đó là chết chóc, mầm bệnh và giấc ngủ quái đản. Một sức mạnh to lớn hơn thứ chúng ta có thể phủ định, ngăn cản ý đồ của chúng ta.

Tôi vòng tay ôm nó, cố ngăn hai chúng ta khỏi phải nhìn cảnh tượng khủng khiếp.

– Chị đã tưởng em không bao giờ nhớ những dòng kịch khốn khiếp này.

– Đây không phải là dòng kịch, – nó nói. – Đây là vai của em. Em sẽ không bao giờ là Juliet. – Nó quấn cánh tay tôi quanh nó chặt hơn. –Em sẽ không bao giờ chết vì yêu.

Tôi cố hiểu bộ mặt nó trong ánh sáng chập chờn.

– Sao em biết?

Nó không trả lời, nhưng cũng không sao. Lúc đó, một trong những trên đàn ông từ trong hố gào lên gọi chúng tôi, cả hai chúng tôi tiến tới xem có chuyện gì.

– Bọn chúng tìm thấy đầu một thứ gì đó, – Umberto nói và chỉ. – Hình như tu sĩ Lorenzo nói đúng.

Cả hai chúng tôi vươn người nhìn thứ ông chỉ, nhưng trong luồng ánh sáng thất thường của các ngọn đèn đeo trên đầu, hầu như không thể nhận ra thứ gì ngoài chính bọn chúng, lăng xăng trong hố như những con bọ hung điên cuồng.

Lát sau, khi tất cả cọn chúng trèo lên lấy các dụng cụ tự động, tôi mới dám soi đèn pin vào trong hố xem chúng đã tìm thấy gì.

– Nhìn này! – Tôi vồ lấy cánh tay Janice, – Một cánh cửa bị bịt kín!

Thực ra, nó là đỉnh nhọn của một cấu trúc màu trắng trên vách hang – cao gần một mét – nhưng không cần biết trước kia nó là khung cửa hay ít ra là phần trên cùng của cánh cửa, chỉ cần biết có một bông hồng năm cánh chạm ngay trên đỉnh. Tuy vậy, phần đầu cánh cửa đã bị bịt kín bằng một đống lộn xộn gạch nâu và những mảnh đá hoa; người nào đó giám sát công trình – có lẽ vào lúc nào đó trong năm 1348 khủng khiếp – rõ ràng đã quá bận rộn nên chẳng quan tâm tới chất liệu xây dựng hoặc các hoa văn. Khi bọn chúng mang dụng cụ trở lại rồi bắt đầu khoan vào gạch, Janice và tôi liền nấp sau Umberto và tu sĩ Lorenzo. Ngay sau đó, cái hang rung chuyển vì tình trạng phá hủy cực kỳ khủng khiếp, những tảng đá khoáng xốp rơi như mưa từ trần xuống, một lần nữa phủ kín chúng tôi trong đống đá vỡ. Phải có đến bốn lớp gạch phủ bên ngoài ngôi mộ khổng lồ, và khi vừa nhìn thấy ngôi mộ, bọn chúng liền lùi lại, đá vào các lớp gạch vụn còn bám trên tường cho đổ xuống. Không mất quá nhiều thời gian, bọn chúng đã khoan được một hố to, lởm chởm, và bụi chưa kịp lắng, Cocco gạt tất cả đồng bọn sang một bên, để hắn là người đầu tiên soi đèn pin qua lỗ hổng.

Trong sự im lặng tiếp theo cảnh hỗn loạn ồn ào, chúng tôi nghe rất rõ hắn huýt sáo kinh ngạc, và âm thanh ấy tạo nên một tiếng vang kỳ quái, phi tự nhiên.

– Hầm mộ! – tu sĩ Lorenzo thì thầm, và làm dấu.

– Đây rồi, – Janice lẩm bẩm. – Em hy vọng chị mang tỏi theo.

Đồng bọn của Cocco mất nửa giờ để dọn đường cho chúng tôi cùng đi xuống hầm mộ. Chúng đào sâu vào lớp xương ken chặt với nhau và khoan vào gạch trên vách lúc chúng đi, rõ ràng chúng cố đưa chúng tôi xuống tận nền. Tuy vậy, rốt cuộc, quá mệt vì công việc bụi bặm, chúng bắt đầu ném xương và đá vụn qua hố, cố tạo một đống có thể làm bờ dốc thoai thoải. Ban đầu, tiếng gạch rơi xuống khá to, đánh thịch nghe như nền bằng đá, nhưng khi cái đống lớn dần, âm thanh trở nên yếu hơn.

Cuối cùng, khi Cocco bắt chúng tôi chui qua lỗ hổng, Janice và tôi tay trong tay cùng tu sĩ Lorenzo đi xuống hầm mộ, cẩn thận trượt theo cái đống dốc toàn gạch và xương, cảm thấy chẳng khác gì những người sống sót qua trận không tặc, trèo xuống cầu thang tả tơi, tự hỏi đây là tận cùng – hay bắt đầu – của thế giới.

Không khí trong hầm mộ mát mẻ hơn trong hang đằng sau chúng tôi, và rõ ràng là sạch hơn. Nhìn quanh trong luồng ánh sáng của một tá đèn pha lắc lư, tôi ngờ ngợ khi nhìn thấy một căn phòng dài và hẹp, xếp nhiều hàng quan tài bằng đá vững chắc với những câu khắc hung gở bằng tiếng La tinh trên vách. Nhưng thứ làm tôi ngạc nhiên hơn cả là một khoảng không gian đẹp đẽ, thậm chí huy hoàng với vòm trần uốn cong và những cây cột cao. Đó đây có một số những bàn đá, có lẽ khởi đầu là các bàn thờ, nhưng hiện giờ đã không còn những đồ vật thiêng liêng. Ngoài ra, trong hầm mộ chẳng còn lại gì nhiều, ngoài những cái bóng và sự im lặng.

– Lạy Chúa tôi! – Janice thì thầm, chĩa cái đèn pin vào các bức vách xung quanh. – Nhìn những bức bích họa này đi! Chúng ta là những người đầu tiên nhìn thấy chúng kể từ khi…

– Nạn dịch, – tôi nói. – Và đây….mọi thứ không khí và ánh sáng này chắc là rất tồi tệ với họ.

Nó cười rúc rích, nhưng âm thanh nghe giống tiếng thổn thức hơn,

– Nếu chị không phiền, nghe chừng lúc này chúng ta nên hạn chế quan tâm đến những điều đó. Đi men theo vách ngắm các bích họa, chúng tôi qua một ô cửa được đậy bằng một cánh cổng bằng gang, có hình chạm lộng bằng vàng. Chĩa đèn pin qua các chấn song, chúng tôi thấy một miếu thờ nhỏ với nhiều ngôi mộ khiến tôi liên tưởng tới nghĩa trang có ngôi mộ Tolomei mà tôi đến thăm cùng ông anh họ Peppo lúc trước. Janice và tôi không phải là người duy nhất quan tâm tới ngôi miếu. Quanh chúng tôi, bọn tay chân của Cocco đang lần lượt kiểm tra kỹ lưỡng từng cánh cửa, rõ ràng là đang tìm mộ của Romeo và Giulietta.

– Nhỡ nó không ở đây thì sao? – Janice thì thào, nó lo lắng liếc nhìn Cocco, mỗi lúc hắn càng thêm thất vọng vì cuộc tìm kiếm đã quá lâu mà không có kết quả. – Hoặc họ được chôn ở đây, còn pho tượng thì ở nơi khác? …Jules?

Nhưng tôi chỉ nghe nó nửa vời. Sau khi giẫm lên vài tảng trông có vẻ giống vữa bở tơi, tôi chiếu đèn pin ngược lên và phát hiện ra toàn bộ nơi này đổ nát hơn tôi tưởng lúc đầu. những mảnh vỡ của mái trần uốn vòm rơi xuống khắp đó đây, vài cây cột nghiêng trông rất đáng ngại dưới sức nặng của thế giới hiện đại.

– Này, chàng trai, – tôi nói và bỗng hiểu ra Cocco và người của hắn không còn là kẻ thù của chúng tôi nữa. – toàn bộ nơi này chỉ đợi để sụp.

Ngoái nhìn vào lỗ hổng lởm chởm dẫn lên phòng chờ bên trên tôi biết rằng dẫu chúng tôi có lẻn đi sau lưng chúng và không bị nhìn thấy, chúng tôi cũng sẽ không thể chui qua lỗ hổng trên trần, nơi chúng tôi phải nhờ có bọn chúng giúp mới xuống được. Gắng hết sức, tôi có thể nâng Janice lên, nhưng còn tôi thì sao? Còn tu sĩ Lorenzo? Về lý thuyết, Umberto có thể nâng cả ba chúng tôi từng người một, nhưng còn ông thì sao? Lẽ nào chúng tôi nỡ để ông lại đó?

Những suy nghĩ của tôi bị cắt ngang khi Cocco gọi cả hai chúng tôi bằng tiếng huýt sáo đanh gọn, hắn ra lệnh cho Umberto hỏi chúng tôi có biết manh mối về pho tượng khốn khổ kia ở đâu không.

– Ồ, nó ở đây! – Janice buột miệng. – Vấn đề là người ta đã giấu nó ở đâu quanh đây thôi.

Nhận thấy Cocco không tin, nó gượng cười.

– Anh thực sự nghĩ rằng, – nó nói tiếp, giọng bắt đầu run, – người ta để một thứ quý giá như thế ở nơi ai cũng nhìn thấy ư?

– Tu sĩ Lorenzo nói gì nhỉ? – tôi hỏi Umberto, để mọi người không chú ý đến Janice vì trông nó như có thể òa khoác bất cứ lúc nào. – Chắc ông ấy phải có ý tưởng gì đó chứ.

Tất cả chúng tôi dồn mắt vào tu sĩ, thầy đang thơ thẩn một mình, chăm chú ngắm nhìn các pho tượng vàng trên trần.

“Ông ta đặt một con rồng ở đó, canh giữ những con mắt của họ”, Umberto trích dẫn. – Thế đấy. Nhưng ở đây không có con rồng nào hết. Cũng không có lấy một pho tượng.

– Lạ lùng thật, – tôi nói, nhìn từ đầu này đến đầu kia của hầm mộ, – vì ở bên trái có tới năm miếu thờ cách nhau đều đặn, nhưng ở đây lại chỉ có bốn. Nhìn này. Cái ở giữa bị mất. Chỉ là một bức tường

Umberto chưa dịch xong lời tôi nói, Cocco đã bắt tất cả chúng tôi đến chỗ lẽ ra là cánh cửa khác nữa, để xem xét kỹ hơn.

– Không chỉ là bức tường, – Janice nhận xét, chỉ vào một bức bích họa sặc sỡ, – mà là một phong cảnh với…một con rắn to, màu đỏ và đang bay.

– Chị thấy giống một con rồng, – tôi nói và lùi lại một bước. – Em có biết chị nghĩ gì không? Chị nghĩ ngôi mộ ở đằng sau bức tường này. Nhìn xem…- Tôi chỉ một vết nứt dài trên bức bích họa, để lộ hình dáng một khung cửa dưới lớp vữa. – Đây rõ ràng là một miếu thờ giống như các miếu khác, nhưng chị đánh cược là Salimbeni đã chán cảnh để lính gác hai mươi tư giờ suốt bảy ngày. Vì thế ông ta cho xây bịt lại. Có lý đấy.

Cocco chẳng cần thêm chứng cứ về vị trí ngôi mộ, chỉ trong vòng ít phút các dụng cụ tự động đã lại làm việc, tiếng ầm ầm của kim loại khoan vào đá vang dội khắp hầm mộ lúc bọn chúng khoan vào con rồng trên bức bích họa, lấy lối vào đoán chừng là nơi cất giấu kho báu. Lần này không chỉ bụi và đá vụn rơi lên chúng tôi lúc đứng đó theo dõi cuộc phá hoại, mà cả những tảng lớn của lớp trần uốn vòm gồm cả vài ngôi sao vàng cũng bắt đầu rơi quanh chúng tôi, với những tiếng kêu lanh lảnh tai họa, dường như các bánh răng của vũ trụ đang dần long ra.

Cuối cùng, khi các máy khoan ngừng hoạt động, lỗ hổng trên tường đủ rộng cho một người đi qua, và bên trong lộ ra một nơi cất giấu thật. Từng người một, bọn chúng biến mất qua ô cửa làm vội, rồi cuối cùng cả Janice và tôi không thể cưỡng lại sự cám dỗ, cũng đi theo dù không ai ra lệnh.

Chúi đầu chui qua lỗ hổng, chúng tôi vào một miếu thờ nhỏ, sáng lờ mờ, suýt đụng phải những người khác, tất cả đều đứng lặng ngắt. Vươn người để xem chúng đang nhìn gì, tôi chỉ bắt gặp một thứ sáng chói, sau đó một trong những tên có mặt mới nghĩ ra, chiếu thẳng đèn pin vào một thứ đồ sộ, dường như đang lởn vởn trong không khí trước mắt chúng tôi.

– Thánh thần ơi! – Ai đó nói, phát âm thật hoàn hảo, và ngay cả một người như Janice cũng chết lặng.

Đó là pho tượng Romeo và Giulietta, lớn hơn và đẹp hơn tôi hình dung rất nhiều. Trên thực tế, sự bề thế khiến nó gần như là một lời đe dọa. Dường như người sáng tạo ra nó vì muốn người xem bất giác phải quỵ gối và cầu xin tha thứ. Suýt nữa, tôi đã làm thế. Dẫu pho tượng đứng đó, đặt trên một cỗ quan tài đá đồ sộ và được phủ lớp bụi dày sáu trăm năm, nó vẫn có ánh vàng lấp lánh mà không một khoảng thời gian nào có thể làm phai mờ. Trong ánh sáng mờ ảo, bốn con mắt bằng ngọc quý – hai viên ngọc bích màu da trời và hai viên ngọc lục bảo màu xanh lá – sáng rực gần như siêu nhiên.

Với người chưa biết lịch sử của nó, pho tượng như không nói đến sự tiếc thương mà chỉ nói về tình yêu. Romeo quỳ trên quan tài đá, nâng Giulietta trong tay, và họ nhìn nhau với một xúc cảm cảm mãnh liệt đến mức tôi như tìm ra con đường vào xó xỉnh tối tăm, nơi trái tim tôi ẩn náu, và nhắc nhở tôi những nỗi buồn còn tươi mới của riêng mình. Các bức vẽ trong cuốn phác thảo của mẹ tôi rõ ràng chỉ là phỏng đoán, ngay cả những bức chân dung đằm thắm nhất về hai nhân vật này – Romeo và Juliet – cũng không xứng với họ.

Đứng đó, nén nỗi ân hận, tôi không thể không thừa nhận rằng ban đầu, tôi đến Siena chỉ để tìm pho tượng và những viên ngọc quý này. Giờ chúng ở đây, ngay trước mắt tôi, nhưng tôi không còn cảm thấy thèm muốn sở hữu chúng, dù chỉ là thoáng qua. Dẫu chúng có là của tôi, tôi cũng sẽ sung sướng hiến tặng chúng một ngàn lần chỉ để trở về cõi trần gian thực sự, an toàn thoát khỏi những kẻ như Cocco, hoặc chỉ để nhìn thấy Alessandro thêm lần nữa.

– Chị nghĩ họ có đặt cả hai người vào cùng cỗ quan tài như thế kia không? – Janice thì thầm, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. – Đi nào…- Nó huých khuỷu tay, tìm đường len qua tốp đàn ông, kéo tôi theo, và khi chúng tôi đứng cạnh cỗ quan tài đá, nó giằng lấy đèn pin của tôi và chiếu vào một câu khắc trên đá. – Nhìn này! Chị có nhớ câu này trong truyện không? Chị nghĩ có phải là nó không?

Cả hai chúng tôi cúi gần hơn để xem, nhưng không thể hiểu tiếng Ý

– Nó là gì nhỉ? – Janice nhăn trán cố nhớ loại bản dịch tiếng Anh. – À phải rồi! “ Đây là nơi yên nghỉ nàng Giulietta chân thành và chung thủy…Nhờ tình thương và sự nhân từ của Chúa!” – Nó ngừng, quên mất đoạn còn lại.

– “Sẽ được Romeo, người chồng hợp pháp của nàng đánh thức”, – tôi khẽ tiếp, bị mê hoặc bởi bộ mặt bằng vàng của Romeo đang nhìn thẳng xuống, – “trong một thời khắc ân huệ tuyệt vời”. Nếu như câu truyện mà danh họa Lippi dịch cho chúng tôi nghe là thật, – và chắc chắn nó bắt đầu theo kiểu này, – thì đích thân nhà danh họa già Ambrogio đã giám sát việc sáng tạo nên pho tượng này vào năm 1341. Chắc chắn ông là bạn của Romeo và Giulietta, nên quyết tâm tạo ra nó thật đúng, chắc chắn đây là sự tái hiện trung thành những đường nét của họ.

Nhưng Cocco và đồng bọn không đi cả quãng đường từ Naples đến đây để đắm chìm trong mơ mộng, hai tên trong bọn đã trèo lên nắp quan tài đá, thử xem dụng cụ nào thích hợp để khoét mắt pho tượng. Cuối cùng, chúng quyết định dùng một loại máy khoan đặc biệt, và khi dụng cụ được lắp ráp xong và trao tận tay chúng, mỗi tên đến bên một pho tượng – một tên đến Giulietta, tên kia đến Romeo, – sẵn sàng dấn tới.

Khi nhìn thấy việc chúng sắp làm, tu sĩ Lorenzo lao tới, – cho đến lúc này, thầy hoàn toàn bình thản – và cố ngăn bọn chúng lại, năn nỉ xin chúng đừng phá hỏng pho tượng. Đây không chỉ là việc mạo phạm một tác phẩm nghệ thuật, vị tu sĩ thuyết phục chúng rằng lấy trộm mắt pho tượng sẽ gây nên những tai ương không tả xiết và sẽ hủy diệt tất cả chúng ta. Nhưng Cocco không cần những lời mê tín khó hiểu của tu sĩ Lorenzo nữa, hắn lỗ mãng gạt vị tu sĩ sang bên và ra lệnh cho bọn tay chân tiếp tục.

Dường như cảnh huyên náo khi phá sụp vách chưa đủ tệ, tiếng ồn từ các mũi khoan kim loại mới thực sự khủng khiếp. Lùi khỏi tình trạng cực kỳ lộn xộn, tay bịt chặt tai, Janice và tôi thừa hiểu rằng chúng tôi sắp đến đoạn kết cay đắng trong cuộc truy tìm kho báu.

Chui qua lỗ hổng trên vách và trở lại phần chính của hầm mộ – tu sĩ Lorenzo vô cùng thất vọng theo sau, – chúng tôi nhận thấy toàn bộ nơi này đang sụp đổ, hoàn toàn theo nghĩa đen. Những vết nứt lớn chạy dọc các bức vách trát vữa, lên tận vòm trần, tạo thành những hoa văn như mạng nhện, chỉ một chấn động nhỏ nhất cũng lan rộng ra mọi hướng.

– Chúng ta phải chạy trốn thôi, – Janice nói, lo lắng nhìn quanh, – Ít ra cũng nên trở lại hang kia, chỉ phải động chạm vào các xác chết thôi.

– Sau đó thì sao? – Tôi hỏi. – Ngồi xúm xít dưới lỗ thủng trên trần, chờ các quý ông đến cứu ra ư?

– Không, – nó đáp, xoa cái cánh tay bị một ngôi sao bắn phải, – nhưng một người trong chúng ta có thể giúp người kia ra ngoài, sau đó người kia có thể bò trở lại qua đường hầm và được cứu thoát.

Tôi nhìn nó chằm chặp, thấy nó đúng, và lúc trước, tôi thật ngu vì không nghĩ ra cách này.

– Thế, – tôi nói, ngại ngùng, – ai sẽ đi?

Janice mỉm cười chế nhạo:

– Chị đi. Chị là người còn có thứ để mất…- Rồi nó nói thêm, đỏng đảnh hơn. – Hơn nữa, em là người biết cách “điều trị” thằng điên Cocco.

Chúng tôi đứng đó một lúc, chỉ nhì nhau. Rồi tôi liếc nhìn tu sĩ Lorenzo qua khóe mắt; ông vẫn quỳ trước một trong những bàn đá trơ trụi, cầu nguyện một vị Chúa Trời không còn ở đó.

– Chị không thể làm thế, – tôi thì thầm. – Chị không thể để em lại đây.

– Chị phải đi, – Janice nói, giọng cương quyết. – nếu chị không đi, em sẽ đi.

– Tuyệt, – tôi nói, – thì đi đi. Xin mời.

– Ôi, Jules! – Nó vòng tay ôm lấy tôi. – Tại sao lúc nào chị cũng phải là người hùng nhỉ?

Chúng tôi có thể để dành những cảm xúc để đấu tranh với những hành động tử vì đạo cho riêng mình, vì lúc này các mũi khoan kim loại đã ngừng và bọn đàn ông đổ ra khỏi miếu thờ, hí hửng cười đùa về kỳ công của chúng và tung, ném bốn viên ngọc quý cho nhau. Người cuối cùng xuất hiện là Umberto, và tôi có thể thấy ông nghĩ đúng như chúng tôi: cuối cùng, liệu đây có phải là đoạn kết cho công việc của chúng tôi với Cocco và toán cướp ở Naples, hay chúng còn muốn hơn thế?

Dường như đọc được ý nghĩ của chúng tôi, bọn chúng ngừng lại giữa cuộc vui, chòng chọc nhìn Janice và tôi lúc chúng tôi đứng đó, dựa sát vào nhau. Nhìn thấy cảnh đó, hình như Cocco rất khoái chí, và nụ cười tự mãn trên mặt hắn nói lên rằng hắn biết chính xác chúng tôi vẫn còn giá trị khác với cả tốp của hắn, Nhưng sau khi nhìn như lột hết quần áo Janice và kết luận rằng, bất chấp thái độ giận dữ của nó, nó vẫn chỉ là một cô gái nhỏ đang hoảng sợ, cái nhìn đầy tính toán của hắn trở nên giá lạnh, hắn nói gì đó với đồng bọn khiến Umberto lao tới, dang rộng cánh tay, chắn giữa cả bọn và chúng tôi.

– Không! – Ông an nài, – tôi xin anh!

– Thằng già này! – Cocco cười khinh bỉ, chĩa khẩu tiểu liên về phía ông.

Hai người tiếp tục cuộc trao đổi bằng những lời cầu xin và lời lẽ tục tĩu, rồi cuối cùng, Umberto quay sang nói tiếng Anh:

– Anh bạn, – Umberto nói, gần như quỵ gối, – tôi biết anh là người rộng lượng. Và cũng là một người cha. Xin anh rủ lòng thương. Tôi xin hứa, anh sẽ không ân hận đâu.

Cocco không trả lời ngay. Hắn lườm nguýt, tỏ ý không vui khi bị nhắc đến lòng nhân đạo của hắn.

– Tôi xin anh, – Umberto nói tiếp, – bọn con gái sẽ không bao giờ hé môi với ai đâu. Tôi thề với anh.

Rốt cuộc, Cocco nhăn mặt và nói bằng thứ tiếng Anh ngắc ngứ của hắn:

– Con gái hay bép xép. – nói – nói – nói.

Đằng sau, Janice xiết chặt bàn tay tôi đến mức đau nhói. Nó cũng như tôi, hiểu rằng, chả có chút lý do nào để Cocco cho chúng tôi sống và ra khỏi nơi này. Giờ hắn đã có những viên ngọc quý, và đó là tất cả những gì hắn muốn. Và chắc chắn rằng, thứ hắn không cần nhất là nhân chứng. Tuy vậy, tôi không hiểu nổi chuyện này thực ra là gì; sau khi chúng tôi bò khắp nơi và giúp hắn tìm ra pho tượng, hắn giết chúng tôi thật sao?

Thay vì sợ hãi, tôi lên cơn giận điên cuồng – giận vì Cocco là thằng khốn nhẫn tâm, và người duy nhất tiến tới bảo vệ chúng tôi là cha chúng tôi. Kể cả tu sĩ Lorenzo đứng cạnh cũng chẳng có tác dụng gì, ông nhắm mắt lần tràng hạt như thể chẳng có chuyện gì xảy ra và chẳng có thứ gì ảnh hưởng đến ông. Nhưng, làm sao mà ông biết được? ông chẳng hiểu cả tai họa lẫn tiếng Anh.

– Anh bạn ơi, – Umberto lại nói, cố hết sức nói thật bình tĩnh, có lẽ hy vọng làm Cocco mủi lòng, – tôi đã tha mạng anh một lần. Anh nhớ không? Chẳng lẽ việc đó không có giá trị gì sao?

Cocco giả vờ suy nghĩ một lát. Rồi hắn đáp lại và nhăn mặt khinh miệt:

– Thôi được. Ông đã tha mạng tôi một lần. Vì thế, tôi sẽ tha một mạng cho ông. – Hắn hất đầu về phía Janice và tôi. – Ông quý ai nhất? Ả kia hay thiên thần?

– Ôi Jules! – Janice thút thít, ghì chặt tôi mạnh đến mức tôi không thở nổi. – Em yêu chị! Dù xảy ra bất cứ chuyện gì, em vẫn yêu chị!

– Xin đừng bắt tôi lựa chọn, – Umberto nói bằng giọng tôi khó nhận ra. – Cocco. Tôi biết mẹ anh. Bà là người tốt bụng. Bà sẽ không thích chuyện này đâu.

– Mẹ tao, – Cocco nhạo báng, – sẽ nhổ vào mả mày! Lần cuối cùng: ả kia hay thiên thần? Chọn ngay, nếu không tao giết cả hai.

Khi Umberto không trả lời, Cocco tiến thẳng tới ông.

– Mày, – hắn nói chậm rãi, và gí họng súng tiểu liên vào ngực Umberto, – là một thằng đần. Hoảng sợ, Janice và tôi lạnh cứng người, không thể lao tới để ngăn Cocco kéo cò, và một giây sau, một tiếng súng đinh tai nhức óc làm cả hang động rung chuyển.

Chắc ông đã bị bắn, cả hai chúng tôi hét lên và chạy tới Umberto, tưởng ông đã ngã, đã chết. Nhưng lạ thay, lúc chúng tôi tới, ông vẫn đứng đó, cứng đờ vì sửng sốt. Kẻ nằm ườn một cách kệch cỡm trên nền là Cocco. Một cái gì đó – tiếng sét từ trời cao ư? – Xuyên qua sọ hắn, thổi bay một mảng sau đầu hắn.

– Lạy Chúa Cứu thế! – Janice rên rỉ, mặt trắng bệch như ma, – chuyện gì thế này?

– Nằm xuống! – Umberto quát và kép mạnh cả hai chúng tôi. – Che đầu!

Xung quanh, đồng bọn của Cocco cũng bò tìm chỗ nấp lúc một loạt tiếng súng nổ giòn, những tên dừng lại bắn trả đều bị quật ngã ngay lập tức, chính xác đến giật mình. Nằm áp bụng xuống nền, tôi quay đầu xem ai đang bắn, và lần đầu tiên trong đời, cảnh các sĩ quan cảnh sát lao tới chiến đấu thật đáng hoan nghênh. Đổ vào hang qua lỗ thủng, họ nấp sau các cây cột gần nhất và quát bọn cướp còn lại – tôi đoán thế – bỏ vũ khí và đầu hàng.

Nhẹ người khi nhìn thấy cảnh sát và hiểu rằng cơn ác mộng của chúng tôi đã chấm dứt khiến tôi muốn cười và khóc cùng một lúc. Nếu họ tới chậm chỉ một phút, mọi sự đã khác hẳn. Hoặc trong thực tế, có thể họ đã ở đó được một thời gian rồi, chỉ quan sát chúng tôi, đợi có ai kéo cò súng nhằm vào Cocco mà không cần xét xử. Dù các chi tiết là gì đi nữa, lúc tôi nằm đó trên nền đá, đầu tôi vẫn quay cuồng vì nỗi khiếp sợ vừa trải qua, tôi tin rằng họ được Đức Mẹ Đồng Trinh Maria gửi tới, trừng phạt những kẻ xúc phạm điện thờ Người. Đối mặt với một lợi thế hiển nhiên, rốt cuộc vài tên cướp sống sót xuất hiện sau các cây cột, tay giơ lên trời. Một tên trong bọn ngu đến mức cúi cuống nhặt thứ gì đó trên nền – chắc là một viên ngọc, – bèn bị bắn ngay tức khắc. Vài giây sau, tôi mới nhận ra hắn chính là kẻ đã mò mẫm tôi và Janice trong hang, nhưng điều quan trọng hơn cả, người bắn hắn là Alessandro.

Vừa nhận ra anh, lòng tôi tràn ngập niềm vui mãnh liệt và choáng váng. Nhưng tôi chưa kịp chia sẻ phát hiện đó với Janice, thì có tiếng ầm ầm đáng ngại ở đâu đó ngay trên đầu chúng tôi, rồi mỗi lúc một mạnh thêm khi một trong những cây cột chống vòm trần đổ sụp xuống bọn cướp còn sống, dội lên chúng vài tấn đá.

Những tiếng vang rung động của cây cột đổ sụp lan khắp toàn bộ hệ thống cống ngầm Bottini quanh chúng tôi, ở khắp mọi phía. Hình như sự náo loạn trong hầm mộ đã tăng thêm sự chấn động dưới mặt đất mạnh đến mức giống như một trận động đất, và Umberto nhảy bật lên, vẫy Janice và tôi đứng dậy.

– Đi mau! – Ông giục, lo lắng nhìn các cây cột quanh chúng tôi. – Ta nghĩ chúng ta không còn nhiều thời gian.

Chạy băng qua sàn, chúng tôi suýt bị một trận mưa đá vụn ào xuống qua lỗ trần thủng, và một ngôi sao rơi trúng thái dương tôi, khiến tôi suýt ngất. Dừng lại một chút lấy thăng bằng, tôi trông thấy Alessandro đi tới, sải bước trên đống đổ nát và phớt lờ những lời cảnh báo của các sĩ quan cảnh sát khác. Anh không nói gì, nhưng lúc đấy, anh không cần phải nói. Cái nhìn của anh đã nói lên điều tôi mong được nghe.

Tôi chuẩn bị ngả vào vòng tay của Alessandro thì nghe thấy một tiếng kêu yếu ớt phía sau.

– Tu sĩ Lorenzo! – Tôi thở hổn hển, chợt nhận ra chúng tôi đã quên bẵng vị tu sĩ. Quay ngoắt lại, tôi bắt gặp cảnh tượng thân hình lom khom của ông giữa đống đổ nát, và Alessandro chưa kịp ngăn, tôi đã chạy trở lại, đến chỗ ông già trước khi một tảng vữa to tướng bay trúng tôi.

Chắc Alessandro đang tới ngăn tôi, thì một cây cột nữa đổ sụp giữa chúng tôi trong đám bụi mịt mù, ngay lập tức là một trận mưa vữa bở tơi. Lần này, sự va chạm của cây cột gãy phá toang nền hầm ngay cạnh tôi, bên dưới những tảng đá lát lộ ra không hề có rui xà bằng gỗ, không có bê tông, chỉ là một khoảng không rộng lớn, đen ngòm.

Ngây như đá trước cảnh tượng ấy, tôi dừng lại ngay tại đó, sợ không dám bước tiếp. Tôi nghe thấy Alessandro la hét đằng sau, bảo tôi quay trở lại, nhưng chưa kịp quay người, phần nền tôi đang đứng bắt đầu tách khỏi kết cấu xung quanh. Điều tiếp theo tôi biết là nền không còn nữa, và tôi lao thẳng vào chốn hư không, quá sững sờ không hét lên được, cảm thấy dường như sự gắn kết của thế giới đã tan biến, mọi thú còn lại trong sự hỗn độn mới, là những mảnh, mẩu, tôi và trọng lực.

Tôi rơi bao xa? Tôi muốn nói rằng tôi rơi xuyên qua thời gian, xuyên qua sự sống, cái chết và những thế kỷ quá khứ, nhưng trong phạm vi đo lường thực tế, cú rơi không quá sáu mét. Ít nhất là người ta nói như thế. Họ cũng bảo rằng, may cho tôi, không một tảng đá hay ma quỷ nào đập trúng tôi lúc tôi ngã nhào xuống địa ngục. Có một dòng sông cổ đánh thức bạn khỏi những giấc mơ, và rất ít người được phép nhìn thấy. Tên dòng sông đó là Diana.

Nghe nói tôi vừa rời khỏi rìa của cái nền vỡ vụn, Alessandro bèn nhảy theo tôi, không kịp dừng lại tháo các dụng cụ. Lúc đâm nhào vào làn nước mát, anh bị chìm vì sức nặng của mọi thứ – áo chống đạn, ủng, súng – và mất một lúc mới ngoi được lên. Vật lộn với dòng nước xiết, anh cố rút đèn pin và cuối cùng tìm thấy tôi mềm rũ, mắc trên một tảng đá nhô ra.

Thét gọi các cảnh sát khác nhanh chân lên, Alessandro bảo họ thả sợi dây xuống thấp hơn và kéo mạnh cả hai chúng tôi về hầm mộ của giáo đường. Làm ngơ trước mọi sự và mọi người, anh đặt tôi nằm trên nền, giữa đống đổ nát, ép nước ra khỏi phổi tôi và bắt đầu làm tôi hồi sinh.

Đúng đó, chứng kiến những nỗ lực của anh, Janice không hiểu hết mức độ nghiêm trọng của tình hình, cho đến khi nó ngước nhìn và thấy những người khác đang trao đổi những cái nhìn dứt khoát. Tất cả đều hiể một thực tế mà Alessandro không chịu thừa nhận: tôi đã chết. Đến lúc đó, nước mắt nó mới dâng đầy, và không gì có thể ngăn lại được.

Cuối cùng, Alessandro đành từ bỏ mọi cố gắng cứu sống tôi và chỉ ôm tôi, dường như anh sẽ không bao giờ buông tôi ra lần nữa. Anh vuốt má tôi và thủ thỉ, nói những lời lẽ ra anh nên nói khi tôi còn sống, không cần biết ai nghe thấy. Janice kể, lúc đó trông chúng tôi rất giống pho tượng Romeo và Giulietta, ngoại trừ mắt tôi nhắm nghiền và mặt Alessandro méo mó vì đau đớn. Nhìn thấy anh mất hết hy vọng, em gái tôi giằng khỏi tay những người cảnh sát đang giữ nó và chạy tới chỗ tu sĩ Lorenzo, vồ lấy vai thầy.

– Tại sao thầy không cầu nguyện? – Nó gào lên, lắc người tu sĩ già. – Cầu xin Đức Mẹ Đồng Trinh Maria đi, và nói với Người…- Nhận ra thầy không hiểu, Janice tránh ra, ngước nhìn lên vòm trần vỡ nát và gào đến xé phổi. – Xin hãy làm cho chị con sống lại! Con biết Người có thể làm được điều! Hãy cho chị con được sống!

Không có tiếng trả lời, rốt cuộc nó quỵ gối và gào khóc như điên. Không một người đàn ông nào trong đám đông dám chạm vào nó.

Đúng lúc đó, Alessandro cảm thấy là lạ. Không hơn một sự run rẩy, có khi là chính anh chứ không phải tôi, nhưng thế là đủ cho anh hy vọng. Ôm đầu tôi đu đưa nhè nhẹ, anh lại nói với tôi, lúc đầu dịu dàng, rồi sau đó là nôn nóng.

– Nhìn anh đi! –Anh van nài. – Nhìn anh đi, Giulietta!

Người ta kể rằng cuối cùng, tôi đã nghe thấy tiếng anh, song tôi không ho, không hổn hển hoặc rên rỉ. Tôi chỉ mở mắt và nhìn anh. Khi hiểu sự việc đang diễn ra quanh tôi, hình như tôi mỉm cười và thì thầm

– Shakespeare không thích thế này đâu.

Đấy là tất cả những gì sau này tôi được nghe kể lại, còn tôi hầu như chẳng nhớ được gì. Thậm chí tôi không nhớ nổi tu sĩ Lorenzo quỳ xuống hôn lên trán tôi, hoặc Janice nhảy múa quanh tôi như một thầy tu đạo Hồi đang xoay tròn, lần lượt hôn các sĩ quan cảnh sát tươi cười. Tôi chỉ nhớ cặp mắt của người đàn ông không chịu mất tôi lần nữa, anh đã cố giằng tôi khỏi cái nắm chặt của Shakespeare, để chúng tôi có thể viết nên đoạn kết hạnh phúc của riêng chúng tôi.

Bình luận
× sticky