Văn phòng Công ty luật Boone & Boone đặt tại một ngôi nhà cũ đã được cải tạo trên phố Park, cách phố Main ba đoạn đường và mười phút đi bộ đến tòa án. Quanh đấy cũng có rất nhiều luật sư, và toàn bộ các ngôi nhà trên con phố này đều đã trở thành văn phòng luật, kiến trúc, kế toán, kỹ sư.
Công ty có hai luật sư, ông Boone và bà Boone, là hai cộng sự ngang hàng theo mọi nghĩa của từ này. Ông Boone, bố của Theodore, mới bước sang tuổi năm mươi, nhưng trông già hơn rất nhiều, ít nhất là theo suy nghĩ thầm kín của Theodore. Tên ông là Woods, một cái tên mà Theodore có cảm giác hợp để làm họ hơn. Như Tiger Woods, golf thủ. Hay James Woods, diễn viên. Theodore vẫn thường tìm kiếm xem có ai cũng tên Woods nữa không, mặc dù cậu không hẳn quá bận tâm tới chi tiết hơi khó chịu này. Theodore luôn cố không nghĩ vẩn vơ về những thứ ngoài tầm kiềm soát của cậu.
Woods Boone. Đôi lúc, Theodore phát âm nhanh cái tên ấy và nó chệch đi là “woodspoon” (thìa mộc). Cậu đã tra và thấy thìa mộc không hẳn là một từ, nhưng cậu nghĩ nó nên được coi là một từ. Thìa mà làm bằng gỗ gọi là thìa gỗ cơ, không phải là thìa mộc. Nhưng có ai dùng thìa gỗ không nhỉ? Sao phải quan tâm tới chuyện tầm phào như thế chứ? Dù sao thì, như là một thói quen bực mình mà người ta không thể phá bỏ, Theodore vẫn nghĩ về thìa mộc mỗi khi cậu bước tới trước cửa phòng bố và nhìn tên ông khắc bằng mực đen.
Văn phòng của ông Boone trên tầng hai, bước lên vài bậc thang ọp ẹp được phủ tấm thảm ố màu, xơ xác. Ông Boone ở một mình trên gác hai, vì cánh phụ nữ bên dưới đẩy ông lên đấy với hai lý do. Thứ nhất, ông là người bừa bãi, văn phòng của ông không khác một cái xác tàu, mặc dù Theodore rất thích nó. Thứ hai, chướng tai gai mắt hơn nhiều, là ông Boone hút tẩu, nhưng lại thích đóng cửa kín và tắt quạt trần mà hút khiến cho bầu không khí sặc sụa mùi hương nồng nặc của loại thuốc mà bất chợt ngày hôm đó ông thấy khoái. Khói thuốc cũng không làm phiền Theodore, mặc dù cậu thực sự lo lắng cho sức khỏe của bố. Ông Boone không thuộc diện quan tâm đến ngoại hình. Ông ít tập luyện nên người hơi phát tướng. Ông làm việc cật lực nhưng hễ rời văn phòng là bỏ lại hết các rắc rối đằng sau, không giống vị luật sư cộng sự của mình, mẹ của Theodore.
Ông Boone là luật sư bất động sản, mà theo suy nghĩ của Theodore, đây là mảng tẻ nhạt nhất trong các lĩnh vực luật. Bố cậu không bao giờ đến tòa án, chưa bao giờ tranh tụng trước quan tòa, chưa từng đọc cáo trạng trước bồi thẩm đoàn, và dường như cũng chưa bao giờ rời khỏi văn phòng. Thực tế, ông vẫn thường tự coi mình là “luật sư bàn giấy”, và có vẻ hài lòng với kiểu gọi ấy. Hẳn nhiên, Theodore ngưỡng mộ bố mình, nhưng cậu không có ý định khóa chặt sự nghiệp trong một văn phòng nào đó. Không, thưa ngài. Theodore đã định sẽ tiến thẳng vào phòng xử án.
Vì ông Boone ở một mình trên tầng hai nên văn phòng của ông vô cùng đồ sộ. Những giá sách dài oằn mình chạy dọc hai mảng tường, hai mảng còn lại là bộ sưu tập ngày càng bành trướng những bức ảnh lồng khung mô tả các việc trọng đại của gia đình nhà Woods – bắt tay các chính khách, chụp hình với các luật gia trong buổi gặp gỡ của giới luật, vân vân. Theodore đã ngắm văn phòng của vài luật sư khác trong thị trấn – cậu hay lăng xăng, sục sạo tìm đến những cánh cửa rộng mở – và Theodore phát hiện ra rằng các luật sư đều thích giăng đầy những bức ảnh như thế ở khắp tường, bên cạnh những tấm bằng tốt nghiệp, bằng khen hay giấy chứng nhận hội viên của câu lạc bộ này kia. Bức tường Triển lãm Cá nhân, mẹ cậu thường chế nhạo như vậy, vì tường trong phòng mẹ thường để trống, chỉ treo mấy bức tranh nghệ thuật hiện đại đầy bí ẩn.
Theodore gõ cộc cộc cộc rồi đẩy cửa bước vào. Mỗi chiều, sau giờ học, cậu đều phải đến chào bố mẹ, trừ khi cậu lại bận rộn đâu đó. Bố cậu ngồi một mình sau chiếc bàn cổ ngồn ngộn các chồng giấy tờ. Ông lúc nào cũng chỉ có một mình vì các thân chủ hiếm khi ghé qua. Họ chỉ gọi điện hoặc gửi các thứ qua bưu điện, hoặc fax, hoặc email, họ không cần đến tận Boone & Boone để được tư vấn.
“Chào bố,” Theodore quăng mình xuống ghế.
“Một ngày hoành tráng ở trường chứ hử?” bố cậu hỏi, ngày nào cũng vẫn câu đấy.
“Cũng ổn ạ. Hiệu trưởng cho bọn con đi thực nghiệm ở tòa vào ngày mai. Sáng nay, con đã gặp Thẩm phán Gantry, và bác ấy hứa sẽ cho bố trí chỗ ở ban công.”
“Thế là tốt còn gì. Bọn con may mắn đấy. Cả nửa thị trấn này sẽ dồn về đấy.”
“Bố có định đi không?”
“Bố á? Không,” ông Boone trả lời, phẩy tay vào mấy chồng hồ sơ, như thể chúng đòi hỏi ông phải quan tâm đến chúng ngay lập tức. Theodore đã nghe lỏm được bố mẹ cậu nói chuyện, họ thề sẽ không ghé qua phiên tòa xử tội giết người. Bản thân họ là những luật sư bận rộn, và xem ra, phí thời gian đi xem phiên xét xử của người khác thì chẳng ra làm sao. Nhưng Theodore biết thừa, cũng như mọi người trong thị trấn này thôi, bố mẹ cũng muốn đến đó.
Bố cậu, cả mẹ nữa tuy ít hơn, mỗi khi tránh làm việc gì lại viện cớ đang có quá nhiều vụ phải lo.
“Vụ xử sẽ mất bao lâu ạ?” Theodore hỏi.
“Thấy người ta kháo nhau là có lẽ một tuần.”
“Con nhất định là muốn xem toàn tập.”
“Đừng hòng nghĩ đến chuyện đó, Theodore. Bố đã nói chuyện với Thẩm phán Gantry. Nếu thấy con trong phòng xử trong lúc đáng ra con phải ở trường, bác ấy sẽ cho dừng phiên tòa, gọi bên thừa hành tới hốt con đi ngay. Bố sẽ không nộp tiền bảo lãnh đưa con ra khỏi phòng giam đâu. Con cứ việc ngồi mấy ngày trong đấy với mấy tay anh chị và bọn nghiện ngập.”
Nói đến đấy, ông Boone nhấc tẩu lên, châm một mồi và bắt đầu nhả khói. Cả hai nhìn nhau trân trân. Theodore không chắc có phải bố đùa không, nhưng rõ ràng trông mặt ông hoàn toàn nghiêm túc. Ông với Thẩm phán Garitry là chỗ bạn bè cũ. “Bố đùa thôi phải không?” cuối cùng Theodore cất lời hỏi.
“Một phần thôi. Chắc bố vẫn sẽ kéo con ra khỏi nhà giam, nhưng quả thật bố đã nói chuyện với Thẩm phán Gantry rồi đấy.”
Theodore đang nghĩ cách để xem bằng được vụ xử mà không bị Thẩm phán Gantry phát hiện. Vụ cúp học thì không khó khăn gì.
“Thôi, biến nào,” ông Boone bảo. “Làm cho xong bài vở đi.”
“Vâng, con chào bố.”
Xuống cầu thang, trấn ngay cửa trước là một phụ nữ già nua gần bằng cái văn phòng này. Tên bà là Elsa. Họ bà là Miller, nhưng đây là điều cấm kỵ đối với Theodore và bất cứ ai. Bất kể tuổi tác của mình, mà cũng không ai biết chắc bà bao nhiêu tuổi, bà khăng khăng đòi gọi là Elsa. Dù người gọi bà mới mười ba tuổi. Elsa làm việc cho nhà Boone từ rất lâu trước khi Theodore chào đời. Bà làm lễ tân, thư ký, quản lý văn phòng, và cả tư vấn luật khi cần. Bà điều hành công ty này, và đôi lúc buộc phải làm trọng tài cho những cuộc cãi vã, bất đồng nho nhỏ giữa luật sư Boone tầng trên và luật sư Boone tầng dưới.
Elsa còn là một người rất quan trọng trong cuộc sống của cả ba người nhà Boone. Theodore coi bà như một người bạn, một người tin cẩn.
“Cháu chào Elsa,” cậu dừng bước bên bàn của bà và sẵn sàng ôm bà.
Bà đứng bật dậy khỏi ghế, tràn đầy sức sống như vẫn thế, và ôm siết lấy cậu.
Rồi nhìn cậu, bà hỏi, “Không phải cháu mặc cái áo này hôm thứ Sáu sao?” “Không ạ.” Mà quả là vậy.
“Bác nghĩ cháu đã mặc nó.”
“Bác nhầm rồi, Elsa.” Bà vẫn thường nhận xét về trang phục của Theodore, mà, đối với một cậu trai mười ba tuổi, điều này thật phiền phức. Tuy vậy, nó cũng khiến Theodore phải để ý. Ai đó lúc nào cũng quan sát và ghi chép, và Theodore thường nghĩ về Elsa mỗi khi cậu quáng quàng mặc quần áo vào mỗi sáng. Một thói quen bực mình cậu không bỏ được.
Ngay như tủ áo quần của bà cũng là một huyền thoại. Bà thấp, dáng dấp rất nhỏ – “có thể mặc bất cứ thứ gì”, mẹ cậu từng nói đi nói lại nhiều lần – nhưng bà thích đồ bó màu tối. Hôm nay, bà mặc quần da màu đen cùng chiếc áo len màu xanh lá cây trông hợp mốt một cách lạ kỳ khiến Theodore liên tưởng đến cây măng tây. Mái tóc xám cắt ngắn của bà bóng mượt, chải chuốt. Đôi mắt kính của bà, như thường lệ, tiệp màu với trang phục – hôm nay là màu lá cây. Elsa có thể là bất cứ gì, nhưng không bao giờ tẻ nhạt. Có thể bà sắp bảy mươi, nhưng cái cách bà tiến tới cái tuổi ấy không hề lặng lẽ.
“Mẹ cháu có trong đó không?” Theodore hỏi.
“Có, mà cửa vẫn mở đấy.” Elsa trở lại ghế ngồi. Theodore dợm bước đi.
“Cháu cảm ơn.”
“Bạn cháu gọi đến đấy.”
“Ai ạ?”
“Cậu ta nói tên là Sandy và bảo có thể sẽ ghé qua.”
“Vâng ạ.”
Theodore đi dọc hành lang. Cậu dừng lại trước một cánh cửa và chào Dorothy, thư ký phòng bất động sản, một phụ nữ tử tế nhưng chán ngắt như chính ông chủ trên tầng của mình. Cậu lại dừng trước một cánh cửa khác và chào Vince, nhân viên tư vấn luật lâu năm, trợ tá cho bà Boone.
Marcella Boone đang có điện thoại khi Theodore bước vào và ngồi xuống ghế. Bàn của bà, làm bằng kính và chrome, được bày biện gọn gàng, cả mặt bàn hầu như còn trống, một hình ảnh trái ngược với chiếc bàn trên phòng chồng bà. Hồ sơ các vụ đang thụ lý nằm ngay ngắn trêno chiếc giá sau lưng. Mọi thứ chỗ nào vào chỗ đấy, trừ có đôi giày không mang trên chân bà mà xếp cạnh đấy. Đó là đôi giày cao gót, theo cách hiểu của Theodore thì điều đó có nghĩa bà đã ở tòa án cả ngày. Bà đang mặc trang phục ở phòng xử án – juyp và vest màu mận chín. Mẹ cậu lúc nào cũng xinh đẹp và chỉnh tề, nhưng dạo này mẹ còn cố gắng xinh đẹp và chỉnh tề hơn nữa mỗi khi đến tòa án.
“Đàn ông có thể trông như mấy tên ngốc,” bà đã nói thế rất nhiều lần. “Nhưng lại luôn đòi phụ nữ trông phải ra dáng. Công bằng kiểu gì vậy?”
Elsa luôn đồng tình cho rằng như vậy thật không công bằng.
Sự thật là bà Boone thích tiêu tiền vào áo quần và thích trông xinh đẹp. Ông Boone lại chẳng chút quan tâm tới thời trang, và lại càng ít quan tâm đến sự ngăn nắp. Ông chỉ hơn bà ba tuổi, nhưng về tinh thần thì già hơn bà đến cả thập kỷ.
Vào lúc này đây, bà Boone đang trao đổi với một vị thẩm phán, người này lại đang bất đồng với bà. Khi cuối cùng cũng đặt được chiếc điện thoại xuống, thái độ của bà thay đổi rất nhanh. Bà mỉm cười, “Chào con trai. Hôm nay con thế nào?” “Tuyệt ạ. Mẹ thì sao ạ?”
“Vẫn thế. Ở trường có gì hay ho không?”
“Chỉ là mai có buổi thực nghiệm, dự thính một phiên tòa. Mẹ có đến không?”
Bà đã lắc đầu nói không. “Mẹ có buổi điều trần lúc 10 giờ trước ông Thẩm phán Stanford. Mẹ có một đống việc, không ngồi đồng tại một phiên tòa được.”
“Bố bảo bố đã nói chuyện với Thẩm phán Gantry, hai người đã lên hẳn một kế hoạch hòng tách con khỏi vụ xử. Mẹ có tin nổi không?”
“Hẳn là mẹ cũng hy vọng như vậy. Việc học phải được ưu tiên hàng đầu.”
“Mẹ, ở trường chán lắm. Con thích mỗi hai môn thôi. Mấy thứ khác chỉ phí thời gian.”
“Mẹ sẽ chẳng bao giờ nói học hành là phí phạm.”
“Con có thể học nhiều hơn từ phòng xử.”
“Có thể, nhưng nay mai con sẽ có cơ hội dành rất nhiều thời gian ở đó. Còn bây giờ, chúng ta tập trung vào lớp Tám. OK?”
“Con đang tính tham gia mấy khóa luật Online. Có một trang web rất hay với mấy thứ cũng ra trò.”
“Cưng à, con chưa đủ sức vào trường Luật đâu. Chúng ta đã nói chuyện này rồi. Hãy tận hưởng lớp Tám, rồi hoàn thành bậc trung học, rồi hơn nữa. Giờ con vẫn là một cậu nhóc, đúng không? Vậy cứ vui vẻ làm một cậu nhóc đi.” Theodore nhún vai, không nói gì.
“Thôi nào, giờ con làm cho xong bài vở đi.”
Điện thoại của bà đổ chuông, Elsa đang nối một cuộc gọi quan trọng khác. “Mẹ xin lỗi, Cún cưng, và hãy mỉm cười đi nào,” bà Boone nói. Theodore nhẹ nhàng rời khỏi văn phòng. Cậu mang ba lô xuyên qua phòng photo, vẫn hỗn độn như thế, rồi tìm đường xuyên qua hai phòng lưu trữ nơi chất đầy những thùng lớn hồ sơ.
Theodore biết chắc mình là cậu học sinh lớp Tám duy nhất ở Strattenburg có văn phòng luật riêng. Đó là một gian nhỏ như chiếc hộp được ai đó cơi nới từ thập kỷ trước, và trước khi Theodore tiếp quản, công ty dùng nó để cất những cuốn sách luật cũ rích lỗi thời. Bàn làm việc của cậu không có ngăn kéo, không được tinh tươm như bàn của mẹ nhưng gọn gàng hơn nhiều so với bàn của bố. Ghế ngồi là chiếc ghế xoay cũ mèm cậu vớt vát được từ đống đồng nát vào cái lần bố mẹ nâng cấp thư viện gần chỗ của Elsa.
Ngồi trên chiếc ghế ấy là chú chó Judge. Mỗi ngày nó đều có mặt ở văn phòng, ngủ nghê hoặc lặng lẽ lang thang đây đó, cố hết sức tránh mọi người vì họ lúc nào cũng bận rộn. Nó thường bị đuổi cổ khỏi các cuộc họp. Cuối ngày, nó thơ thẩn trở về văn phòng của Theodore, trèo lên ghế ngồi đợi.
“Chào Judge,” Theodore vừa nói vừa xoa đầu nó. “Hôm nay có gì bận không?”
Judge nhảy xuống sàn, đuôi ngoáy tít, ra điều mừng rỡ. Theodore an tọa nơi chiếc ghế bỏ ba lô lên bàn. Cậu nhìn quanh phòng. Trên một bức tường, cậu dán tấm poster lớn của đội Twins cùng lịch thi đấu của họ trong mùa giải này. Theo câu hiểu, cậu là cổ động viên duy nhất của Twins ở thi trấn này. Minnesota cách xa một nghìn dặm và Theodore chưa từng đến đó. Cậu ủng hộ đội Twins vì ở Strattenburg không ai làm vậy. Cậu chọn Twins từ mấy năm trước và giờ vẫn gắn bó với họ bằng một lòng trung thành sâu sắc đã được kiểm nghiệm qua thời gian.
Trên bức tường khác là bức chân dung biếm họa lớn của Theodore Boone, luật sư hành nghề, mặc com lê và đeo cà vạt, đang đứng ở tòa án. Lơ lửng trên đầu nhân vật, không chệch một li, là chiếc búa và dòng chữ “Bác bỏ!” Phía sau, các vị bồi thẩm nghiêng ngả cười nhạo Theodore. Trên góc phải phía dưới bức tranh, họa sĩ nguêch ngoạc tên mình, April Finnemore. Cô bé đã vẽ tặng Theodore bức biếm họa một năm trước, nhân dịp sinh nhật cậu. Uớc mơ của cô bây giờ là bay tới Paris, và dành phần đời còn lại vẽ phong cảnh đường phố.
Một cánh cửa dẫn tới hàng hiên nhỏ nhìn ra mảnh sân sau rải sỏi được dùng làm chỗ đỗ xe.
Như thường lệ, Theodore lôi các thứ trong ba lô ra và bắt đầu làm bài về nhà. Cậu phải làm xong trước giờ ăn tối, theo đúng quy định khá cứng nhắc do bố mẹ đặt ra từ khi cậu vào lớp Một. Tình trạng hen suyễn ngăn cậu chơi các môn thể thao đồng đội mà cậu tha thiết muốn tham gia nhưng lại góp phần đảm bảo cho các điểm A của cậu ở trường. Bao năm qua, cậu buộc lòng chấp nhận sự thật rằng thành tích học tập của mình là sự bù đắp xứng đáng cho những cuộc chơi cậu bỏ lỡ. Dù sao, cậu cũng có thể chơi golf, cậu và bố có lịch chơi hằng tuần vào 9 giờ sáng thứ Bảy.
Có tiếng gõ trên cửa sau. Judge đang nằm trong ổ dưới gầm bàn, khẽ gầm gừ.
Sandy Coe cũng là học sinh lớp Tám trường trung học, nhưng khác lớp. Theodore biết cậu ta sơ sơ. Sandy là một cậu trai hiền hòa, ít nói. Cậu muốn đến nói chuyện và Theodore mời cậu tới văn phòng của mình. Sandy ngồi vào chiếc ghế duy nhất còn lại, một chiếc ghế gấp Theodore dựng ở góc. Khi cả hai ngồi vào chỗ, căn phòng đã thành ra chật chội.
“Chúng mình nói chuyện riêng được không?” Sandy hỏi. Cậu tỏ vẻ ngượng ngùng, lo lắng.
“Chắc chắn rồi. Chuyện gì nào?”
“Ùm, mình nghĩ mình cần một lời khuyên. Thực ra, mình không hiểu sự tình lắm nên cần tìm ai đó nói chuyện.”
Theodore, nhà tư vấn, nói, “Mình đảm bảo bất cứ điều gì cậu nói ra sẽ được giữ bí mật.”
“Được. Thế này nhé, bố mình mất việc từ mấy tháng trước, và, ừm, mọi chuyện trong nhà trở nên khá tệ.” Cậu ngừng lại, chờ Theodore nói gì đó.
“Mình rất tiếc.”
“Và tối hôm qua, bố mẹ mình có cuộc nói chuyện gay gắt ở trong bếp, mà đáng lẽ mình không nên nghe. Nhưng mình không đừng được. Cậu hiểu tịch biên là gì không?”
“Biết.”
“Nó là gì vậy?”
“Ngày nay có rất nhiều dạng tịch biên. Nghĩa là khi một người có nhà mà không thanh toán được tiền thế chấp vay mua nhà thì ngân hàng sẽ thu hồi ngôi nhà đó.”
“Mình chẳng hiểu tí tẹo nào.”
“OK. Nó là thế này.” Theodore vơ một quyển sách, đặt lên giữa bàn. “Giả sử đây là căn nhà cậu muốn mua. Nó có giá một trăm ngàn đô la, và vì cậu không có một trăm ngàn, cậu đến ngân hàng hỏi vay tiền.” Theodore đặt một quyển vở bên cạnh quyển sách. “Đây là ngân hàng.”
“Hiểu rồi.”
“Ngân hàng cho cậu vay một trăm ngàn này, và giờ cậu có thể mua căn nhà từ người bán. Cậu đồng ý phải trả ngân hàng, giả sử là năm trăm đô la một tháng, trong vòng ba mươi năm.”
“Ba mươi năm ư?”
“Ừ. Đấy là hợp đồng thông thường. Ngân hàng tính thêm một khoản phí cho vay gọi là lãi suất – và thế là mỗi tháng, cậu trả một phần của một trăm ngàn, cộng thêm một khoản tiền lãi. Vậy là ai cũng được việc. Cậu mua được căn nhà cậu muốn, còn ngân hàng kiếm được tiền từ khoản lãi kia. Mọi thứ đều tốt đẹp cho đến khi có chuyện xảy ra, cậu không thể thanh toán tiền vay hằng tháng.”
“Vậy tiền thế chấp vay mua nhà là gì?”
“Đấy, hợp đồng kiểu mình vừa nói là thế chấp vay mua nhà. Ngân hàng có quyền với ngôi nhà chừng nào khoản vay chưa được trả hết. Khi cậu không trả được tiền gốc và lãi hằng tháng, ngân hàng có quyền tới thu hồi nhà. Ngân hàng đá cậu ra và sở hữu ngôi nhà. Cái đó gọi là tịch biên.” Theodore đặt quyển vở trùm lên, che kín quyển sách.
“Lúc họ nói chuyện bọn mình phải dọn đi, mẹ mình chỉ khóc. Nhà mình đã ở đây từ khi mình ra đời.”
Theodore mở laptop, bật nguồn lên. “Thật khủng khiếp,” cậu nói. “Dạo gần đây, chuyện này thường xuyên xảy ra.”
Sandy cúi gằm, trông gần như suy sụp “Tên bố cậu là gì?”
“Thomas. Thomas Coe.”
“Còn mẹ?”
“Evelyn.”
Theodore hỏi nhát gừng. “Địa chỉ nhà cậu?” “814 Bennington.”
Lại nhát gừng. Cả hai cùng đợi, chợt Theodore thốt lên, “Ôi trời.”
“Gì vậy?”
“Đó là Ngân hàng Security Trust, ở phố Main. Mười bốn năm trước, bố mẹ cậu vay một trăm hai mươi ngàn đô la trong ba mươi năm. Đã bốn tháng nay nhà cậu chưa thanh toán tiền hằng tháng.” “Bốn tháng ư?”
“Ừ.”
“Những cái này đều có trên mạng sao?”
“Ừ, nhưng không phải ai cũng tìm được.” “Sao cậu làm được?”
“Có cách mà. Nhiều văn phòng luật trả phí để được truy cập một mảng dữ liệu nào đó. Hơn nữa, mình cũng biết cách đào sâu hơn một chút.”
Sandy thậm chí còn cúi gằm thấp hơn, và lắc đầu. “Vậy là nhà mình sẽ mất nhà sao?”
“Không hẳn.”
“Ý cậu là sao? Bố mình có đi làm đâu.”
“Còn một cách ngăn vụ tịch biên, cầm cự với ngân hàng, giữ ngôi nhà một thời gian, có thể là đến lúc bố cậu đi làm frở lại.” Sandy trông đầy hoang mang.
“Cậu từng nghe đến tình trạng phá sản chưa?” Theodore hỏi.
“Có lẽ rồi, nhưng mình không hiểu.”
“Nó là lựa chọn duy nhất của nhà cậu hiện nay. Bố mẹ cậu phải xin đề xuất bảo hộ phá sản. Nghĩa là bố mẹ cậu phải thuê luật sư đại diện đệ đơn lên Phòng án Luật Phá sản.”
“Phí thuê luật sư mất bao nhiêu?”
“Đừng lo chuyện đó. Quan trọng là đi gặp luật sư.”
“Cậu không thể làm chuyện đó sao?”
“Tiếc là không. Bố mẹ mình cũng không phải là luật sư về phá sản. Nhưng có một người cách đây hai nhà, Steve Mozingo, chú ấy là người rất tốt. Bố mẹ mình thường giới thiệu khách hàng sang đấy. Họ rất thích chú ấy.”
Sandy viết nguệch ngoạc cái tên ra giấy. “Và cậu nghĩ bọn mình có thể giữ được căn nhà?”
“Ừ, nhưng bố mẹ cậu phải đi gặp người này càng sớm càng tốt.”
“Cảm ơn cậu, Theodore. Mình không biết phải nói sao.”
“Không có gì. Giúp được là mình vui rồi,” Sandy vội vã vọt qua cửa, như thể muốn bay về nhà với một tin tốt lành. Theodore nhìn cậu bạn lấy xe rồi mất hút sau bãi đậu xe.
Thêm một khách hàng nữa hài lòng.