Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mang Em Trở Lại

Chương 15

Tác giả: Sharon Sala

Tory đang đứng ở hành lang khi họ dỡ tấm ván đầu tiên trên sàn nhà. Ngay khi miếng gỗ bị kéo ra, một âm thanh như tiếng súng đanh gọn xuyên qua không khí, cô co rúm người. Và với mỗi một miếng ván được lôi ra, cô lại nghe văng vẳng tiếng Oliver Hale.

Tôi đã để cô ấy dưới bồn tắm.

Cô rùng mình. Người mẹ tội nghiệp của cô. Hai mươi lăm năm chờ đợi được yên nghỉ. Rồi Brett bước tới sau lưng, vòng cánh tay ôm cô.

“Tory, em có sao không?” anh hỏi

Sự khẩn thiết trong giọng nói của anh khó mà lầm được, và sau khám phá của cô sáng sớm nay, cô không thể đổ lỗi cho anh. Có lẽ anh đang chờ đợi cô suy sụp tinh thần.

Tory cảm thấy cằm Brett đang đặt trên đỉnh đầu mình, cảm thấy ngón cái của anh đang vuốt ve mạch đập trên cổ tay mình. Ổn không ư? Chừng nào anh còn đi bên cạnh cô, cô sẽ luôn luôn ổn.

“Vâng, Brett, em không sao.”

Những người đàn ông mặc áo bảo hộ vàng xuất hiện ở khắp nơi. Họ kéo đinh, dỡ ván, tháo các bức tranh. Hai lần cô đã phải tránh sang bên để người ta đi qua, nhưng lần nào cô cũng trở lại chỗ ngay, không chịu từ bỏ nơi mình đang đứng. Đây đã là nhà cô và cơn ác mộng của cô. Hơn bất kỳ ai khác, cô có quyền ở đây.

Trong khi việc phá dỡ căn phòng nhỏ tiếp tục, Denton Washburn ló đầu qua một cánh cửa sổ để mở bên tay phải họ và chào.

“Chào cô, Lancaster. Anh Hooker. Lộn xộn quá nhỉ.”

“Vâng.” Tory nói.

Đúng lúc đó Rentshaw bước ra khỏi nhà tắm và vẫy cô. “Cô Lancaster, chúng tôi nói chuyện với cô một phút được không?”

Sự hoảng sợ nhanh chóng trỗi dậy, nhưng Tory buộc mình phải bình tĩnh. Nếu họ tìm được gì thì họ đã nói rồi.

“Muốn anh đi cùng không?” Brett hỏi.

“Tory lắc đầu. “Không, em không sao.’’

Anh chạm vào tóc cô rồi hôn lên một bên má, chăm chú nhìn theo cho đến khi cô tới cuối hành lang và bắt đầu nói chuyện với Rentshaw. Hài lòng vì Tory sẽ ổn cả, anh đi lại chỗ cửa sổ nơi ông cảnh sát trưởng đang đứng, rồi ngồi xổm xuống để ngang tầm mắt với ông ấy.

“Ông có rảnh không?” Brett hỏi.

Khi Hooker hạ giọng xuống, mức độ quan tâm của Washburrn tăng lên. Rõ ràng dù điều Hooker muốn hỏi là gì, anh ta cũng không muốn quảng bá nó.

“Có chuyện gì?”. Vị cảnh sát trưởng hỏi.

“Hôm qua ông đã kể với chúng tôi rằng ông tham gia giải cứu Tory.”

Washburn gật đầu. “Nếu anh có thể gọi việc đó là giải cứu. Tôi thì luôn nghĩ nó là giải thoát. Chúng tôi có cứu được cô bé đó ra khỏi cái gì đâu.” Ông cau mày khi nhớ lại tình trạng của Tory lúc được tìm thấy.”Mọi chuyện đều đã kết thúc trước khi chúng tôi tới đây, nhưng đúng, tôi là một trong những cảnh sát tới mang cô bé ra khỏi nhà.”

“Được rồi.” Brett nói. “Chúng tôi biết ông đến đón cô ấy, nhưng không biết người ta đã bảo cho các ông như thế nào? Ai đã gọi cho ông? Ai đã bảo với ông là cô ấy ở đây?”

Một thoáng tò mò hiện trên mặt Washburn. “Anh biết đấy, chuyện đã lâu lắm rồi. Tôi phải nghĩ đã.”

“Vậy thì ông hãy nghĩ đi,” Brett nói. “Chuyện này quan trọng đấy.”

Washburn quay lại và nhổ nước bọt, ông nhìn chăm chăm xuống đấy một lúc, lông mày nhíu lại. Cuối cùng ông nhìn lên.

“Anh phải hiểu rằng để chắc chắn chuyện này, tôi sẽ phải đào xới những hồ sơ đã rất cũ, nhưng tôi đang nghĩ là mình nhận được một cú điện thoại nặc danh. Hình như người đó nói rằng lúc xe qua đã nghe thấy tiếng thét, hay cái gì đại loại là như thế.”

“Chết tiệt.” Brett đột ngột đứng dậy. Anh đã lo sợ một chuyện như thế

Giờ Washburn còn hơn cả tò mò. Không chờ được mời, ông vòng ra cửa trước, vài phút sau đến đứng với Brett trong căn phòng trống đầu hành lang.

“Giờ thì anh trả lời tôi một câu hỏi.” Washburn nói.

Brett không hứa trước. “Nếu có thể.”

“Điều tôi vừa mới nói với anh có một ý nghĩa nào đó mà tôi không biết, đúng không?’’

Brett gật.

“Chuyện gì vậy? Chúng tôi đã bỏ sót điều gì?”

Brett từ từ hít vào. “Khi ông mang Tory trở về thị trấn, cô ấy có được bác sĩ nào khám không?”

“Có chứ.” Washburn nói. “Chính tôi đã đưa cô bé đến bệnh viện. Thậm chí còn phải phụ một tay đè cô bé xuống cho bác sĩ khám.” Khi nhận ra điều mình nói nghe thật kinh khủng, ông tỏ vẻ hối hận. “Anh phải hiểu…cô bé đã rất kích động. Thực tế là, khi tôi trông thấy Tory ngày hôm đó, tôi đã chắc chắn cô bé sẽ không trở lại bình thường được nữa.” Rồi ông lắc đầu và thở dài. “Trừ vài vết xước cũ trên đầu gối và bị mất nước ít nhiều, cơ thể cô bé đó vẫn ổn. Nhưng đó là một tình huống rất xấu. Tôi còn nghĩ không thể làm cô bé bĩnh tĩnh lại được.”

“Và làm sao ông là được?” Brett hỏi “Theo tôi còn nhớ, chính cô y tá đã làm nên điều kỳ diệu. Cuối cùng cô ấy bảo tất cả đàn ông chúng tôi ra ngoài, kể cả bác sĩ. Rồi cô ấy bế Tory lên tay và bắt đầu đung đưa. Việc đó không làm cho Tory ngừng khóc, nhưng cô bé đã ngừng hét.” Washburn đã rùng mình, “Chết tiệt, nhưng tiết hét kinh khủng lắm. Cô bé đã hét đến vỡ cái cổ họng nhỏ ra.”

“Vậy là cô bé đã ngừng hét khi tất cả đàn ông đi ra ngoài, có phải ông đang nói thế không?”

Washburn gật đầu. “Ừ, cũng gần như …” rồi ông chợt hiểu ra điều vừa nói. Nhiều năm trước ông đã bỏ sót các đầu mối, nhưng giờ ông đã trải qua nhiều buổi hội thảo về lạm dụng trẻ em đến nỗi không thể không nhận thấy mối liên hệ. Ông bước lùi lại, mặt tái nhợt.

“Ôi chết tiệt.” Washburn vã mồ hôi khi tưởng tượng những gì một đứa trẻ đã phải chịu đựng. “Đã có chuyện gì với cô bé vậy?”

Brett thở dài. Việc này quá phức tạp. Liệu Washburn có hiểu không? Nhưng anh cần câu trả lời, và để có được chúng, anh phải tin cậy ai đó.

“Ông phải hiểu là cho mãi đến gần đây. Tory không nhớ gì về quá khứ của mình trừ chuyện đã bị chuyển từ nhà bố mẹ nuôi này sang nhà bố mẹ nuôi khác. Và tuần trước cô ấy đã bắt đầu gặp ác mộng, nhưng khi tỉnh lại thì không bao giờ nhớ được chúng là thế nào.”

Washburn gật đầu. “Dễ hiểu thôi, Đó là phản ứng trì hoãn do gặp phải khủng hoảng cùng cực. Kiểu như bệnh rối loạn thần kinh sau thảm họa mà các cựu chiến binh mắc phải.” Giọng ông bắt đầu run run, và gần như thì thầm: “Chuyện gì đã xảy ra cho cô bé, Hooker?”

“Rõ ràng Hale đã nợ kẻ nào đó một số tiền. Hắn tới để tìm Hale, nhưng chỉ thấy Tory đang trốn trong tủ quần áo. Hắn đã lấy lại món nợ trên người cô ấy.” Rồi giọng Brett bắt đầu run lên vì giận dữ, và anh đi đi lại lại trong phòng. “Nhưng tôi cứ nghĩ mãi cố ấy đã thoát khỏi bị giết như thế nào. Nếu có kẻ bệnh hoạn đến mức cưỡng hiếp một đứa trẻ, thì chuyện hắn không giết cô ấy để bịt miệng đúng là một điều kỳ diệu.”

Ai đó đứng ở ngoài ngưỡng cửa, liếc nhìn họ, rồi đi tiếp về chỗ cái hố đang đào. Washburn chờ đến khi tiếng bước chân mất hẳn đi mới nói tiếp:

“Căn cứ vào tình trạng của Tory lúc đó, có thể hắn nghĩ răng cô bé sẽ không tỉnh táo trong suốt phần đời còn lại, và bất kể cô bé đã biết gì cũng không nói ra được. Theo một cách nào đó, hắn đã nghĩ đúng. Bất kể hắn là ai, hắn cũng đã trốn thoát từ lâu rồi.”

“Tôi cũng đoán thế,” Brett nói.

Washburn thấy ân hận và nghĩ mình phải chịu một phần trách nhiệm trong chuyện này. Nhưng lúc đó ông còn non nớt quá. Mới vào nghề, ông chỉ biết làm theo những mệnh lệnh mà thôi.

“Nếu có gì tôi giúp được thì cứ hỏi,” ông nói.

Brett lắc đầu. “Với những thông tin ít ỏi mà chúng ta có, không thể nào đoán được kẻ đã gây ra chuyện này. Người duy nhất biết sự việc có lẽ là mẹ Tory và Hale, nhưng cả hai đều đã chết. Tory đã sẵn sàng bỏ qua. Tôi không có lựa chọn nào khác ngoài làm theo cô ấy. Tất cả đều là do cô ấy quyết định.”

Và ngay khi đang nghĩ về cô, Brett nghe tiếng Tory gọi mình.

“Brett! Anh đang ở đâu?”

Anh quay ngoắt lại. Giọng cô hơi hoảng hốt khiến anh giật nảy người.

“Trong này,” anh kêu và chạy ra.

Tory gặp Brett ở ngưỡng cửa, xin lỗi trước khi anh kịp nói. “Em xin lỗi,” cô nói. “Chỉ là khi không nhìn thấy anh, em…”

Anh ôm cô. “Không sao, em yêu. Lúc nào cần em cứ việc hét váng tên anh lên. Thế trong kia có chuyện gì?”

Tory trông thấy Washburn nhìn mình rồi quay đi chỗ khác, trong giây phút ấy, không cần hỏi cô cũng biết họ đang nói về chuyện gì. Kỳ lạ thay, cô không quan tâm nữa.

“Họ gặp chút trở ngại,” cô nói. “Trừ vài miếng ván ở ngoài cửa, sàn nhà chẳng còn gì cả.”

“Và…?”

Hai đồng tử trong mắt Tory giãn rộng, như thể cô vừa mới nhìn vào một hố đen.

“Mẹ không có ở đó, anh ạ. Họ đã lôi cả sàn nhà lên, nhưng mẹ không có ở đó.”

Bụng dạ Brett thắt lại. Trời ạ. Lại về con số không.

“Cưng ơi, đã hai mươi lăm năm rồi. Chắc chắn họ không nghĩ là một thi thể vẫn nằm nguyên tại chỗ chứ. Vì sự phân hủy và động vật, thật kỳ diệu nếu…”

Anh để lửng câu nói.

Tory gật đầu. “Họ cũng bảo như thế. Họ định sau bữa trưa sẽ bắt đầu đào. Chuyên gia giám định đang dựng một chỗ để kiểm tra tất cả chỗ đất họ vừa đưa lên. Anh ta nói dù chỉ còn những mẩu xương, anh ta cũng sẽ tìm được.”

“Vậy thì được rồi,” Brett nói. “Nào, mình đi khỏi đây thôi. Cả anh và em đều cần không khí trong lành và ánh nắng, phải không?”

Tory gật đầu rồi nhìn vào cảnh sát trưởng Washburn. “Chú đến chỗ chiếc RV với bọn cháu đi. Bọn cháu có nhiều đồ ăn lắm.”

Washburn hài lòng vì được cô mời, nhưng cổ họng ông đang nghẹn ứ, thức ăn trôi qua không nổi. Ông chỉ có thể nhìn cô và nén khóc. Sau những điều vừa biết, có lẽ ông sẽ không bao giờ còn thấy đói nữa.

“Không, nhưng cảm ơn cháu. Chú phải trở lại thị trấn và kiểm tra vài thứ ở văn phòng. Nếu cháu định đi picnic bên ngoài chiếc RV thì chú khuyên là nên chọn chỗ xa một chút. Đám phóng viên chết tiệt đang cắm trại trên đường chính, lượn lờ như một lũ kền kền. Rất có thể bọn họ đang dùng ống kính tele để theo dõi cháu từ xa đấy.”

“Cháu không sợ bị lên hình,” Tory nói. “Nhưng cháu không thích không gian riêng bị xâm phạm.”

“Chúng tôi sẽ cẩn thận,” Brett nói. “Và cảm ơn vì lời cảnh báo, nhưng tôi cũng cảnh báo lại ông. Nếu bọn họ còn lao vào Tory một lần nữa thì sẽ có người phải về nhà với bên mắt tím bầm, và đó sẽ không phải là tôi.”

Washburn cười. “Tôi sẽ chuyển lời cảnh báo của anh khi gặp họ.”

Tory gần như không đụng đến chỗ bánh sandwich của mình. Cô chỉ cắn vài miếng chiếu lệ rồi cầm máy ảnh lên và đi lang thang về phía lũ bò trên bãi cỏ đằng sau chiếc hàng rào tạm bợ.

Brett đứng nhìn cô chụp hết ảnh này đến ảnh kia, nhưng khi cô bò xuống dưới hàng rào và bắt đầu đi về phía bầy gia súc, anh quyết định phải can thiệp. Anh không muốn phải giải cứu cô khỏi lũ bò điên tiết.

“Tory! Chờ đã!” Brett chạy về phía Tory.

Cô dừng bước và quay đầu, chờ anh bắt kịp. Khi Brett tới chỗ hàng rào, cô cười toe và nâng máy ảnh lên, chĩa ống kính chụp cảnh anh trèo qua hàng rào thép gai ba tầng. Anh đã quá lớn không thể bò ở dưới và chân quá dài không trèo ở giữa được. Chỉ còn thiếu vài phân là chạm đến người, anh quăng một chân qua sợi dây trên cùng của hàng rào, rồi cẩn thận quăng chân còn lại. Và cô đã bắt được tất cả trên phim.

Brett nhìn lên ngay khi cô vừa chụp một tấm, và nụ cười của anh xứng đáng được chụp thêm tấm khác.

“Đến sáng mai anh có phải hối hận vì việc này không?” Brett hỏi.

Tory cười lại với anh. “Có thể. Nhưng em hứa là em vẫn sẽ tôn trọng anh.”

Ngạc nhiên vì sự hóm hỉnh không ngờ của cô, Brett ngửa đầu ra sau cười phá lên. Tiếng cười làm động mấy con bò. Chúng cụp đuôi và bỏ chạy trối chết ra sau bãi cỏ.

“Xem anh đã làm gì này,” Tory rên lên.

Brett chỉ vào con bò Angus to lớn đang chạy sau chót. “Thế còn hơn là phải đặt em lên cái cây trước mặt con bò đó.”

Tory trông có vẻ ngạc nhiên. “Em đã không nghĩ đến.”

Brett vòng cánh tay quanh vai cô và xoay người cô về phía ngôi nhà.

“Chúng mình nên trở lại. Họ sắp đào rồi.”

Tory đi theo anh, đột nhiên im lặng sau giây phút vui sướng.

Gió chiều cứ như trêu ngươi, chẳng khác nào một cô bé ngồi ghế sau không bao giờ thực hiện lời hứa. Mồ hôi chảy xuống lưng Tory khi họ đi đến chỗ hàng rào. Ngay khi Brett bắt đầu trèo qua, cô tóm lấy tay anh.

“Nhỡ mẹ không có ở đó thì sao?”

Chính Brett cũng tự hỏi như vậy. Nhưng nghe giọng cô nói, những nghi ngờ của anh càng mạnh hơn, bởi anh không có câu trả lời mà cô muốn nghe.

“Nhỡ bác sĩ nói đúng thì sao?” Tory nói tiếp. “Nhỡ đâu Oliver Hale bị điên? Nhỡ mẹ em vẫn còn ở đâu đó ngoài kia?”

Brett ôm má Tory bằng cả hai tay, kéo mặt cô lên cho đến khi cô buộc phải nhìn vào mắt anh.

“Đó có phải suy nghĩ của em không? Người mẹ mà em đã nhớ ra có thể bỏ rơi em như vậy được sao?”

Trong một lúc, những bối rối cuối cùng của Tory biến mất. Cô nhìn vào anh. Đôi mắt mở lớn và tập trung vào người đàn ông đã neo giữ cô với thế giới này.

“Không. Người mẹ mà em nhớ thà chết còn hơn để em đi.”

Câu nói sáo rỗng xưa cũ vụt ra khỏi miệng Tory trước khi cô kịp suy nghĩ, nhưng ngay khi nói ra, cô biết mình đã tự trả lời được câu hỏi trên.

Nụ cười của Brett rất dịu dàng, nụ hôn anh đặt lên khóe miệng cô cũng vậy.

“Em hiểu rồi đấy,” anh khẽ nói.

Tory thở dài. “Em sẽ rất mừng khi mọi việc xong xuôi.”

Brett ôm cô, nhấc cô lên và đặt xuống mặt đất ở bên kia hàng rào rồi trèo qua nó như lúc nãy.

Không một ai sẵn sàng nhìn vào Tory Lancaster và nói với cô điều họ nghĩ trong đầu nhiều giờ qua. Đến bốn giờ, tất cả những gì họ lôi ra khỏi ngôi nhà cũng là một đống đất, một mũi tên, hai đồng xu trước thời nội chiến và một cái lọ Mason chứa hai viên đá và một chú thằn lằn ngay đơ. Tất cả mọi người đều không tin rằng họ có thể tìm được dù chỉ một chút dấu vết của bà Ruth Lancaster, chưa nói đến thi thể bà.

Rentshaw đã sẵn sàng nhổ rễ, nhưng mệnh lệnh dành cho anh ta là rất rõ ràng. Một người đã thú nhận vụ giết người rồi phi tang xác chết. Trách nhiệm của anh ta là nạy sàn tất cả các căn phòng trong nhà trước khi bỏ cuộc. Anh ta là một người tỉ mỉ. Ngày mai họ sẽ kết thúc công việc. Khi đó, chỉ đến khi đó, anh ta mới bãi bỏ cuộc đào bới. Tory đã buồn nản đến mức bỏ cuộc và chẳng còn trông mong gì đến điều kì diệu. Cô đã đi về chiếc RV, đóng cửa và kéo rèm.

Brett thất vọng gấp đôi. Anh vẫn còn đau đớn vì biết người phụ nữ mình yêu đã bị cưỡng hiếp. Cho dù việc đó xảy ra đã hai mươi lăm năm, đối với anh nó chỉ như vừa xảy ra hôm qua. Thêm vào đó là thực tế họ trắng tay với mỗi xẻng đất xúc lên. Anh không muốn nghĩ về nó, nhưng khả năng Hale bị mất trí và nói dối trắng trợn đã xuất hiện trong đầu óc anh. Rồi anh tự hỏi mình, tại sao một người sắp chết lại phải nói dối? Nếu Hale tin vào quyền năng của đấng tối cao, ông ta sẽ thấy là mình không đạt được gì và mất đi mọi thứ.

Không, Brett tin chắc rằng Oliver Hale không nói dối, mặc dù khả năng ông ta bị ảo giác là có thật. Và nếu thế thì số phận không thể độc ác hơn được nữa, khi đưa hy vọng cho người này và lừa mị kẻ khác đi vào cõi chết.

Cho đến lúc này họ chỉ có thể chờ đợi.

“Nào, con yêu, mang hoa đến cho mẹ nào.”

Người phụ nữ chỉ vào chiếc rổ nông chứa đầy hạt giống mà cô vừa mua ở cửa hàng, rồi mỉm cười khi nhìn sự tập trung trên mặt cô con gái bé nhỏ, đang lúng túng giữa con búp bê kẹp dưới cánh tay và những chậu hoa nhỏ cần phải mang.

“Có lẽ nếu đặt Búp bê Cưng xuống con sẽ mang chúng dễ hơn.”

Cô bé cau mày. “Ôi mẹ ơi, không được đâu. Búp bê Cưng đang giúp con. Chúng con sẽ trồng trong chậu và nhìn chúng lớn.”

Người phụ nữ cứu được rổ hạt giống ngay trước khi nó bị đổ ra đất. Rồi cô bé đứng bên cạnh trong lúc mẹ chuyển từng chậu hoa một vào cái thùng gỗ cũ đã bị vỡ một nửa, lấp đầy khoảng trống bằng những bông hoa màu vàng và da cam trên nền lá xanh.

“Mình xong chưa?”

Người phụ nữ vỗ đống đất quanh cây cúc vạn thọ một lần cuối rồi đứng dậy, sung sướng nhìn thành quả của mình.

“Ừ, Búp bê Cưng, mình xong rồi. Con thấy sao?”

Cô bé chuyển con búp bê của mình sang tay kia rồi cau mày, như thể đang suy nghĩ câu trả lời lung lắm. Một chú ong đã vục đầu vào chỗ mật trên bông hoa gần đó, còn trên bông khác thì có một chú bướm rập rờ. Bé chỉ vào đó.

“Bọn chúng tích… con chũng tich.”

“Cũng thích,” mẹ bé nói, nhẹ nhàng chỉnh lại đôi câu chữ còn ngọng nghịu của con gái. Nhưng cô quên luôn nhiệm vụ khi bé nhìn lên và mỉm cười.

“Nếu hai mẹ con đều thích, thì mình xong việc rồi.”

Khuôn mặt người phụ nữ lộ vẻ ngạc nhiên, rồi sung sướng. Cô vươn tay cho con gái và kéo bé lên đùi mình, ôm bé thật chặt.

“Con là cô bé tuyệt vời nhất mà một người mẹ có được, con có biết thế không. Tory Lee?”

“Có, con biết ạ.” Cô bé nói, rồi cười khúc khích.

Người phụ nữ gạt một lọn tóc ra khỏi đôi mắt bé gái rồi hôn vào lông mày ướt mồ hôi của bé.

“Và ai nói cho con biết con là cô bé tuyệt vời nhất của mẹ?” cô hỏi.

Cô bé ghé sát, thì thầm vào tai mẹ.

“Búp bê Cưng nói với con. Cái gì em cũng biết.”

Một con bò rống lên trên bãi cỏ đằng sau chiếc RV. Cách đó một quãng, chú bê con trả lời bằng tiếng kêu ai oán. Vài phút sau, bãi cỏ trở lại yên ắng khi con bò cái đã định vị được chỗ của con mình.

Brett lăn người trên giường rồi ngồi dậy, thắc mắc không biết mình đã nghe thấy gì. Tory đang ngủ bên phía sát tường, và trông có vẻ như cô chưa hề động đậy từ lúc anh đắp chăn cho cô.

Bầu không khí tĩnh lặng, oi bức, làm anh nghĩ đến chuyện đóng cửa sổ để bật điều hòa. Nhưng việc đó chắc sẽ đánh thức Tory tỉnh dậy, và điều đó là điều anh muốn tránh. Chưa cần mất ngủ cô đã vật vã và mệt mỏi đủ rồi.

Brett trượt ra khỏi giường, tìm đường đến chỗ tủ lạnh trong bóng tối. Có lẽ uống thứ gì đó thật lạnh sẽ làm anh mát mẻ hơn, rồi anh có thể thư giãn để ngủ trở lại. Anh mở cửa, lấy một lon nước ngọt rồi lại đặt vào thay vào đó chọn hộp nước cam. Caffeine thì chắc chắn là anh không cần rồi.

Sau khi uống hết hộp nước, anh ném cái vỏ rỗng vào thùng rác rồi mở cửa nhìn ra ngoài. Sương đêm trên lá cỏ sáng lấp lánh dưới ánh trăng, giống như những viên kim cương trắng trên mặt vải nhung. Anh bước ra, dừng lại ở bậc thang và hít vào thật sâu. Bình yên đến trong giây phút ấy, làm dịu đi những căng thẳng đã khiến anh thức giấc và mang lại sự thanh thản để anh thấy biết ơn nơi mình đang ở. Và rồi, như một lời thì thầm trong gió, mùi đất mới đào thoảng vào mũi anh, nhắc anh nhớ ra nó đã từng ở đâu và tại sao lại phải đào nó lên.

Brett nhìn về ngôi nhà cũ, và đây không phải lần đầu tiên anh suy nghĩ xem có nên phóng hỏa đốt trụi nó để tẩy uế thay cho Tory không. Anh không thể giúp cô xua đuổi những con quỷ của mình, nhưng anh có thể xóa sạch những thứ gợi nhắc đến chúng. Rồi sự tỉnh táo trở lại với anh trước khi biến ý nghĩ thành hành động. Anh quay lưng lại với quá khứ và bước vào trong, khóa cánh cửa lại sau lưng.

Một chiếc lò xo giường kêu cọt kẹt. Brett vội rảo bước, đột nhiên thấy lo là Tory sẽ thức dậy một mình.

Anh dừng ở ngưỡng cửa, lắng nghe. Hơi thở của cô vẫn đều. Tốt. Cô vẫn ngủ say.

Khi Brett đi lại chiếc giường. Tory xoay người nằm sấp, một tay hất ra, tay kia kẹt dưới ngực. Anh đứng ở chân giường nhìn cô ngủ, tự hỏi làm sao một người lại có thể thay đổi toàn bộ cuộc sống của người khác như thế. Anh không thể tưởng tượng ra thế giới không có cô.

Khao khát được chạm vào cô, Brett trèo lên giường, khẽ nằm xuống bên cạnh Tory rồi trượt tay quanh cổ cô. Trong lúc anh làm thế, Tory lại xoay người để dùng ngực anh làm gối. Brett mỉm cười với chính mình, nhìn xuống và ngắm cô trong ánh trăng mờ mờ. Rồi nụ cười của anh đông cứng lại và nhạt đi, trái tim anh nảy lên đau đớn khi anh đưa tay lên má cô, dùng đầu ngón tay vẽ một đường lặng lẽ theo dòng nước mắt của cô.

Jesus.

Đó là một lời cầu nguyện chứ không phải nguyền rủa. Brett kéo Tory vào lòng, muốn mang cô tránh xa nỗi đau, nhưng vẫn biết rằng điều duy nhất mình làm được là ở bên cạnh khi cô cần tới.

Rentshaw không giấu nổi nỗi bồn chồn. Họ chỉ còn một phòng nữa chưa đào, rồi mọi thứ sẽ kết thúc. Nếu họ xới cái sàn đó lên mà vẫn không tìm thấy mảnh xương nào của Ruth Lancaster, anh sẽ dừng mọi hoạt động lại.

Art Beckham không vui vẻ gì với những việc họ đã làm trên sàn nhà và trong chuồng gia súc của anh ta. Anh ta đã giành được một thỏa thuận với cấp trên của Rentshaw để có một sàn nhà mới trước cuối tuần này.

Cảnh sát trưởng Calio Rock đã biến mất tăm mất tích, để cho Rentshaw đóng vai trò ông chủ cũng như giải quyết giới truyền thông. Đám phóng viên liên tục đòi những câu trả lời anh không có, còn Tory Lancaster thì nhìn chằm chằm vào anh bằng đôi mắt mở to, đầy ám ảnh. Vào lúc đó, anh ước gì mình đã đi kinh doanh đồ gia dụng với bố vợ. Vào lúc này, bán máy rửa bát đĩa có vẻ hấp dẫn hơn nhiều so với ở đây.

Tory đã mang theo máy ảnh, rút lui vào thói quen cũ bằng cách nhìn thế giới qua con mắt tách biệt thứ ba. Cô không chịu tin là họ sẽ thất bại. Cô không thể đương đầu với sự thật, bởi sự thật sẽ đẩy cô trở lại điểm xuất phát.

Có chú chim đậu trên hàng rào thép gai, mỏ ngậm một con sâu. Cô nâng máy ảnh lên, tập trung vào chú chim và bấm máy ngay khi nó ghim con sâu vào gai thép.

Chắc ăn quá nhỉ, Tory nghĩ và chỉnh phim tiến lên để chụp tấm tiếp theo.

Cái gì đó lạo xạo trong cỏ phía bên trái, cô quay ngoắt lại, nhìn qua ống kính máy ảnh thấy một chú thỏ nâu nhảy ra.

“Nhanh quá, mình không kịp chụp,” Tory lẩm bẩm rồi lau vệt mồ hôi, đi về phía bóng râm.

Cỏ ở đây mát hơn, cô đá giày ra khỏi chân, cảm nhận những nhánh cỏ trượt trên ngón chân mình và cù gan bàn chân. Cô tháo máy ảnh khỏi cổ và dựa vào thân cây, nheo mắt trước ánh sáng mặt trời. Làm thế nào giống như nhìn cả thế giới qua một khe rèm, chỉ tập trung vào khoảng hẹp của cuộc sống trước mặt mình chứ không còn gì khác nữa.

Và đó là lúc Tory trông thấy chiếc thùng gỗ vỡ một nửa, nằm dựa vào chồng cỏ khô của Art. Vài miếng ván đã bị rơi mất, và cái vòng trong sắt ở giữa đã gỉ sét. Nhưng phần còn lại của chiếc thùng vẫn đủ để cô nhớ lại… và cô nhớ nó đã từng ở đâu. Cô đứng dậy, tim đập thình thịch.

“Brett!”

Tory cất tiếng gọi anh trong lúc chạy, lờ đi cơn đau ở bàn chân để trần, cô lao qua sân về phía đống cỏ khô.

Giờ thì cô đang gào thét anh. Vài người ra khỏi ngôi nhà, một số tò mò, những người khác tròn mắt đầy lo sợ, tìm kiếm một mục tiêu vô định.

Brett đang ở trong nhà thì nghe Tory gọi, anh chỉ mất một giây để quay người và chạy. Anh cảm giác như tim mình đã ngừng đập rồi khởi động lại hàng chục lần. Anh lao ra khỏi cửa, ánh mắt lập tức tụ lại chỗ đám đông bên đường, nhưng khi không thấy cô ở đó, anh quay lại sau nhà, vừa gọi tên cô vừa chạy.

Có một nhóm người đang đứng cạnh đống cỏ, nhìn chằm chằm vào người phụ nữ mà họ tin là đã phát điên. Tory đang quỳ và ôm chặt chiếc thùng gỗ cũ như thể đó là hũ vàng ở cuối cầu vồng trong câu thành ngữ. Và cô liên tục lẩm bẩm một câu:

“Cái chậu. Ông ta đã chôn mẹ ở dưới cái chậu.”

Brett gạt đám người sang một bên, quỳ thụp xuống bên cạnh Tory.

“Tory. Anh đây. Nói cho anh biết có chuyện gì.”

Giọng cô vỡ òa khi cô ngẩng khuôn mặt đẫm nước mắt lên nhìn anh.

“Cái chậu. Đó là thùng trồng hoa của mẹ. Chúng ta đã tìm sai chỗ rồi. Ông ta đã không đặt mẹ dưới bồn tắm. Mà là cái chậu này. Ôi Chúa ơi, Brett, mẹ ở dưới giếng.”

Tất cả mọi người đông cứng tại chỗ khi Tory đứng dậy, thúc giục Brett đi theo mình. Dường như cô đã quên hết mọi người xung quanh. Cô vượt qua đống cỏ để đi về phía hàng cây, rồi dừng lại đột ngột đến nỗi Brett suýt thì giẫm vào chân cô. Khi cô bắt đầu nhổ cỏ, Brett tóm lấy cánh tay cô, hạ bớt nhiệt huyết của cô với việc đang làm.

“Tory, em đang nói năng lung tung đấy. Em đã thấy…”

Rồi anh cũng nhìn thấy nó. Nó đã bị che khuất bởi đám cỏ độc cao tới tận thắt lưng mà cả lũ bò cũng không chịu gặm. Thứ gì đó đã che mất nắp giếng bằng bê tông.

Ôi Chúa ơi… có thể nào?

“Tory, nói cho anh biết em nhớ ra điều gì!”

Cô nhìn lên anh, rồi nhìn lại đám người kia. Mùi cỏ bị vặt lên và hơi nóng tràn ngập trong mũi cô, gan bàn chân cô bắt đầu đau. Nhưng cô sẽ chăm sóc bản thân sau, sau khi cô chỉ cho họ nơi mẹ đang nằm. Cô chỉ vào cái nắp bê tông.

“Cái chậu kia. Mẹ con em luôn trồng hoa trong cái chậu kia. Và nó nằm ở đó… trên nắp cái giếng cũ đã cạn. Oliver không nói dối. Chúng ta chỉ hiểu nhầm ông ấy thôi[1].”

[1] Nguyên văn là chữ “tub”, vừa có nghĩa là bồn tắm vừa có nghĩa là chậu.

Rentshaw đổi chiến thuật ra lệnh cho tất cả mọi người tập trung tại chỗ. Trong vòng vài phút, một đội thợ đã quỳ xuống, cùng nhau đẩy và nín thở khi tấm bê tông bắt đầu trượt đi.

Brett cầm tay Tory, nhưng lần này không ai giúp được cô. Từng phân một, cái hố bên dưới bắt đầu lộ ra, và khi lỗ hổng rộng hơn ba mươi centimet, Tory tìm đường đến miệng giếng, nhìn vào trong.

Ai đó bật đèn pin và tất cả những người khác làm theo cho đến khi một luồng sáng tương đối rộng chiếu thẳng xuống giếng. Ánh sáng nhấp nháy giống như một loại đèn hiệu, trượt trong bóng tối và soi tỏ một bộ xương nhỏ nhắn, hoàn chỉnh ở đáy giếng. Phần còn lại của chiếc thắt lưng da vẫn vòng quanh eo, một bên chân đi giày còn chân kia thì không.

Những người xung quanh cô đều ồ lên, nhưng Tory không nghe, không thấy gì hết. Cô đang nhìn thế giới qua màn nước mắt. Khi cô bắt đầu đung đưa trên hai đầu gối, lặng lẽ khóc như một đứa trẻ đã tan nát trái tim, không còn ai cầm được nước mắt nữa. Cô cúi xuống, không hề biết Brett đang giữ mình thật chặt. Bằng giọng nói ngọt ngào, trong veo, cô gọi người phụ nữ bên dưới.

“Mẹ ơi… mẹ… con đã về.”

Đoạn kết

Brett nằm dài trên giường. Ngoài chiếc áo sơ mi còn đang vắt trên ghế gần cửa, anh đã ăn vận chỉnh tề và sẵn sàng đi. Quần jeans của anh đã cũ, đôi giày tennis sạch sẽ. Còn áo sơ mi của anh, cái mà anh vẫn chưa mặc vào, thì cùng tuổi với cô bé đang ngồi vắt vẻo trên đầu gối anh.

Những lọn tóc đen uốn quanh mặt bé, và cái nơ nhỏ mà Tory vừa mới kẹp vào tóc bé vài phút trước giờ đang lủng lẳng ở tai. Bé trèo từ chân này sang chân kia của bố, xin xỏ một chuyến “cưỡi nhựa” nữa, thi thoảng dừng lại xem mẹ bé đang làm gì. Ở tuổi lên ba, bé đã có sự quyến rũ với tất cả những phụ kiện nữ tính. Dù có thêm nước hoa hay ruy băng, son môi hay ngọc trai, Bonnie Ruth Hooker vẫn chỉ có khuôn mặt là thiên thần, tính khí thì rõ là một tiểu yêu.

Brett liếc nhìn lên ảnh bìa của một tạp chí được đóng khung và gắn minh họa ở trên tường. Một khuôn mặt trong đám đông. Anh nhớ lại cảm giác tự hào khi trông thấy nó được lên quầy báo. Một người khác đứng tên bài báo bên trong, giải thích chuyện bức ảnh Tory chụp đã trở thành công cụ để giải mã một vụ án kéo dài hai mươi lăm năm liên quan đến quá khứ của cô như thế nào, nhưng bức ảnh thì đứng tên Tory. Vợ anh đã trở thành một ngôi sao trong ngành. Anh phải nhìn trở lại con gái vì Bonnie đá vào khoeo chân anh lúc bò ngang qua đùi. Brett với tay xuống và nâng con lên quá đầu, cười phá lên và đung đưa bé.

“Làm ơn đi Tory. Em chưa xong cơ à? Cô Priss đang làm anh thâm tím hết cả.”

Tory nhìn vào trong gương, mỉm cười với hình ảnh phía sau lưng cô. “Con vừa mới ăn một que kem,” cô cảnh báo chồng. “Cẩn thận không anh nhận lại nó vào mặt đấy.”

Brett hoảng hốt hạ con gái xuống giường rồi cười toe với gương mặt đỏ lựng nhỏ bé. “Con không làm thế đâu nhỉ?” anh lẩm bẩm, cố gắng chỉnh lại chiếc nơ trên tóc con nhưng không thành công.

“Một phút nữa em sẽ chỉnh lại nó. Ngay khi em tết xong tóc.”

Brett vui mừng vì thoát nhiệm vụ, anh nhìn Tory kéo tóc ra và chia thành ba lọn to.

“Ngày lễ Tưởng niệm[1] ở nhà mẹ lúc nào cũng vui nhưng mà nhốn nháo lắm đấy. Em nhớ năm ngoái không?”

[1] Nguyên văn: Memorial Day một ngày lễ quốc gia của Hoa Kì được tổ chức vào thứ Hai cuối cùng của tháng năm để tưởng nhớ những người phục vụ trong quân đội.

Tory nhướng một bên chân mày. Khi ấy Bonnie mới chưa đầy hai tuổi, mà bé đã thả chú mèo Cynthia ra sân cùng với con chó nhà hàng xóm. Những gì xảy ra tiếp theo là địa ngục.

Cô cười toe toét. “Khi nào có cặp đôi nhà Celia và Bonnie thì nhốn nháo đã là nói giảm rồi.”

“À, mẹ là người đã làm hư chúng. Sau khi Celia và cả nhà cô ấy chuyển tới Tulsa, mẹ chỉ còn cách bán căn nhà ở Denver và chuyển tới Oklahoma để gần tất cả chúng ta.”

“Bà nội,” Bonnie nói, và quay lộn nhào trên giường, Brett tóm được bé trước khi bé lao đầu xuống.

“Cẩn thận nào,” anh lẩm bẩm, đặt bé con vào giữa hai chân mình, một lần nữa cố đưa chiếc nơ về chỗ cũ.

“Đừng lo,” Tory nói. “Em chỉnh nó ngay đây mà.”

Bonnie nằm ép lên bụng bố, đột nhiên nhận ra mẹ đang làm một việc thú vị với tóc.

“Làm cho con,” bé xin, chỉ vào đoạn tóc Tory đang tết.

“Không được con yêu ạ. Tóc con chưa đủ dài,” Tory nói.

“Đáng lẽ là đủ rồi nếu nó không dán cái mà ai cũng-biết-là-gì ấy lên đầu tháng trước.”

Tory cười toe. “Vâng, và nếu anh không để cái ai cũng-biết-là-gì ấy ở chỗ con bé với tới được thì đã không có chuyện gì xảy ra.”

Brett nhăn nhó. “Có phải là ở trong tầm với đâu,” anh nhắc cô nhớ lại. “Chúng ở trong tủ đấy chứ.”

Tory đảo mắt. “Và con bé cũng ở trong tủ.”

Brett cười. “Con gái bé bỏng xinh xắn của bố. Đáng lẽ ra chúng mình nên đặt tên con là Tarzana, chứ không phải Bonnie.”

Bonnie chuyển sự chú ý từ mái tóc mẹ sang con búp bê cũ đang ngồi trên cái giá trong góc.

“Búp bê của mẹ à?” bé hỏi, chỉ vào cái giá.

Tory với lấy dải băng buộc tóc. Bonnie đã hỏi câu đó cả ngàn lần, và Tory nghĩ bé sẽ còn hỏi thêm một ngàn lần nữa trước khi đủ lớn để bỏ qua chuyện đó.

“Ừ, búp bê của mẹ đây,” cô nói.

“Nó bẩn quá,” Bonnie nói.

Tory mỉm cười. Những câu hỏi của Bonnie không bao giờ thay đổi. “Ừ, nó bị bẩn, bởi vì mẹ đã lạc mất nó.”

“Nhưng mẹ đã tìm lại được,” Bonnie nói.

“Ừ, mẹ tìm được,” Tory nói.

“Rồi mẹ tìm thấy con,” bé kêu lên rồi giơ hai tay ra hiệu chiến thắng, như thể bé vừa mới cán đích và chiến thắng trong cuộc đua.

Brett lăn bé ra khỏi đùi mình và đặt bé xuống sàn, cười khùng khục khi anh khẽ vỗ mông bé. “Ừ, đại loại là sau đó bố mẹ đã tìm thấy con.”

“Con đi lấy hoa đây,” bé kêu lên và lao ra khỏi phòng trước khi có ai kịp phản đối.

Brett định đi theo, Tory lắc đầu. “Không sao. Em đã cắt chỗ hoa mang ra nghĩa trang rồi. Em cho con một bông hoa nhựa. Chắc chẳng tai hại gì nhỉ?”

Brett kéo Tory vào vòng tay mình, ôm hai hông cô và kéo cô lại gần. Khi cô vòng tay quanh cổ anh, thế giới của anh lại trở nên bình yên. Cô thơm tho và càng ngọt ngào hơn khi nếm thử.

“Anh yêu em.” Brett khẽ nói. “Rất nhiều”

Tận hưởng nhịp đập trái tim anh bên dưới tai mình, Tory thở dài, ước gì họ có thể cứ như thế và mãi mãi. “Em cũng yêu anh.” Cô thì thầm. “Nhiều hơn anh biết.”

Một tiếng choang phá vỡ giây phút của họ. Hai người nhìn nhau rồi cùng lao ra ngoài.

Tory ra khỏi xe và vươn vai trong lúc Brett khóa cốp. Nghĩa trang đông đúc quá. Cô nhìn về phía Bonnie, đảm bảo là cô bé vẫn trong tầm mắt trước khi để những suy nghĩ của mình đi lang thang.

Những tháng tiếp sau ngày cô tìm được thi thể của mẹ thật điên rồ. Những giấy tờ cần thiết để bốc mộ bố mẹ cô rồi chôn lại ở Oklahoma dường như không bao giờ xong. Có vẻ như không ai thích thay đổi cả. Nhưng Tory thì khác. Cô thích thú với thay đổi. Và nhờ có sự kiên quyết của Brett, những buổi tư vấn cho nạn nhân bị cưỡng hiếp mà cô tham dự đã hàn gắn được những vết thương cũ. Giờ cô đã ổn về mọi mặt.

Tory cảm thấy có thứ gì đó chạm lên tay và quay lại. Brett đang đưa cho cô bó hồng và một bó cúc vạn thọ nhỏ hơn.

“Em có sao không?”

“Em ổn,” cô nói, trông thấy sự nhẹ nhõm trên mặt anh trước khi anh bước đi. Cô bất giác gọi lớn: “Brett.”

Anh quay lại.

“Em yêu anh.”

Tia nhìn của anh ôm trọn khuôn mặt cô và Tory trông thấy sự thật, trước khi cả khi anh nói.

“Anh cũng yêu em.”

Rồi con gái họ chen ngang và giây phút ấy trôi qua… nhưng không hề bị lãng quên.

“Mẹ, sao mình lại đặt hoa trên mặt đất?”

Tory đưa cho con gái mấy bông hồng. Bonnie đang ở độ tuổi gì cũng muốn biết, và Tory sẵn lòng trả lời mọi thứ cô bé cần biết, nhưng không hơn.

“Chúng mình đang trang trí nấm mộ này.”

“Mộ là gì ạ?”

Brett nghe thấy câu hỏi và nhìn Tory cảnh giác. “Em có muốn anh mang con lại xe không?”

Tory lắc đầu. “Không. Con chỉ tò mò thôi mà.”

Rất may Bonnie đã quên mất câu hỏi cuối và chuyển sang câu khác.

“Cái gì kia ạ?” bé hỏi, chỉ vào hàng chữ khắc trên bia mộ ở bên cạnh.

“Nó ghi là ‘Ruth Ann Lancaster.’ Còn cái kia là ‘Danny Lee Lancaster.’ Đó là bố và mẹ của mẹ. Cả hai đều đã lên thiên đàng khi mẹ còn bé như con.”

Bonnie cau mày. “Con không thích thiên đàng.”

Tory quỳ xuống và ôm bé, ngay lập tức hiểu ra.

“Mẹ không bỏ rơi con đâu, con yêu. Mẹ ở ngay đây, cả bố cũng thế.” Rồi cô đứng dậy và quay sang tấm bia bên cạnh.

Bonnie nhìn lên mặt mẹ và nhăn trán khi họ đặt hoa lên mộ.

“Mẹ buồn à?”

“Hơi hơi,” Tory nói.

“Con cầm tay mẹ nhé,” Bonnie nói.

“Anh cũng thế,” Brett nói thêm.

“Cám ơn, các tình yêu,” cô khẽ nói và cầm tay hai người.

Khi họ trở lại xe, Tory liếc nhìn lại chỗ hoa mình vừa mới đặt lên mộ: hoa hồng cho bố, hoa kia cho mẹ. Những bông hoa màu vàng và da cam trông thật bé nhỏ so với vài bó hoa khác quanh chúng. Nhưng kích cỡ của bó hoa không quan trọng, quan trọng là ý nghĩa đằng sau chúng.

Năm này qua năm khác, bà Ruth Lancaster đã đánh dấu sự trở lại của mùa xuân bằng cách trồng những bông hoa nhỏ bé kia trong cái thùng gỗ cũ, cho nên chỉ có chúng mới thích hợp để đánh dấu nơi bà an nghỉ vĩnh hằng

Bình luận