(In trong tập: Nghệ thuật và Không gian của ARS & VITA 2013)
(In trong tập: Nghệ thuật và Không gian của ARS & VITA 2013)
Tranh Mặc họa Trung Quốc chứa đựng hai yếu tố: một là đường nét và mảng tối, hai là một không gian trống rỗng màu trắng. Khi, theo cách thức hội họa châu Âu, tôi nhận thấy, mình xuất phát từ đường nét và mảng tối, và khi nhìn khoảng không phủ kín bằng một không gian màu trắng, tôi không hiểu gì hết.
Tôi cứ tưởng đây là sự mô tả một vật, một phong cảnh hoặc một hiện tượng. Trong một giây may mắn tôi chợt nhận ra đây không nói về hai lực, hai sức mạnh hình thức hóa như nhau. Không. Màu trắng không phải là môi trường, là không gian thụ động, là sự trống rỗng, là hư vô, là sự tình cờ. Không, và không. Đúng hơn nó tạo ra màu đen (đường nét, mảng tối), giống như màu đen tạo ra màu trắng. Quyền lực tạo ra hình thức là màu trắng. Vũ trụ, hư vô. Cái phi xác định. Infinitezimális (cực tiểu).
Đối với con mắt châu Âu chỉ có đường nét màu đen và mảng tối. Họ chỉ nhìn thấy những cái đó. Họ chỉ cho rằng những cái đó tồn tại. Không gian, vũ trụ, màu trắng, hư vô, họ không nhận ra. Trong một giây may mắn tôi không xuất phát từ màu đen sang màu trắng, mà đi từ màu trắng sang màu đen. Đấy là giây phút tôi bỗng chợt hiểu tranh Mặc họa Trung Quốc. Cùng lúc, tôi cũng chợt hiểu, mặc dù màu trắng ở “bên ngoài” là “môi trường” là “không gian” – thế nhưng nó lại chính là cái bên trong, chính là nội dung, là nhân vật và là thời gian.
Tất cả những điều này bởi vì, tôi đã không nhìn từ màu đen có thể “sờ” bằng cảm giác đến màu trắng, mà tôi nhìn từ màu trắng phi xác định sang màu đen.
Chủ thể là vị trí mà từ đó thực tại có thể nhìn thấy.
Tôi không đặt vị trí vào sự vật mà vào lực tạo ra hình thức, không đặt vào khách thể mà đặt vào chủ thể. Không vào cái lồ lộ mà vào tính chất phép thuật của nó.
Hội họa hiện đại không còn nghi ngờ gì nữa có quan hệ họ hàng với Mặc họa Trung Quốc. Nó chỉ có một sai lầm duy nhất, vẫn luôn xuất phát từ màu đen, từ kinh nghiệm cảm giác, từ khách thể, và coi không gian là cái thụ động và trống rỗng. Đây vẫn là sự sùng bái thần tượng (idolatria). Chủ nghĩa hiện thực. Khách thể-phức tạp. Hậu trường. Đây vẫn chưa là thực tại.
Người họa sĩ hiện đại lớn là kẻ nhận ra không phải một cái gì hình thức hóa tạo nặn ra hư vô, mà là hư vô tạo nặn, hình thức hóa ra một cái gì. Là người hiểu, màu trắng, sự trống rỗng, khoảng không và chủ thể nhỏ nhất không có ở bên ngoài, mà ở bên trong, không phải cái lộ thiên mà là tính chất huyền thuật, không phải khách thể mà là chủ thể. Tôi cho rằng, hoàn cảnh để người họa sĩ được sinh ra, phải chín muồi.
Chừng nào chúng ta mới chỉ nhìn thấy đường nét và các hình dạng trên tranh, chừng đó chúng ta mới chỉ nhìn thấy nửa bức tranh. Giống như tranh châu Âu thực chất chỉ là nửa bên ngoài của hiện thực. Chừng nào chúng ta chưa hiểu rằng từ bên ngoài sự trống rỗng trắng tác động vào bên trong không là gì khác, ngoài là một sức mạnh đã được hình thức hóa tác động từ bên trong ra ngoài, chừng đó chúng ta hoàn toàn không thể am hiểu gì về hiện thực thật sự của hội họa.
(Ghi chép về tranh Mặc họa Trung Quốc)
Feruccio Busoni trong tác phẩm Mũ học âm nhạc đã viết: trong âm nhạc châu Âu, trong âm nhạc thực thụ ông chỉ thấy có hai yếu tố: một là fermata (âm ngắt) và hai là quãng nghỉ.
Quãng nghỉ, sự im lặng, sự tĩnh lặng là sự dâng tràn đầy ắp cao nhất của âm thanh. Điều này trong Mặc họa Trung Quốc là không gian trống rỗng, là cái hư vô. Tranh châu Âu chín mươi tám phần trăm là âm nhạc và hai phần trăm là quãng nghỉ (sự tĩnh lặng, khoảng không, sự phi xác định, sự im lặng). Tranh Trung Quốc ít nhất sáu mươi phần trăm là quãng nghỉ, sự im lặng và bốn mươi phần trăm là âm nhạc.
Tranh Mặc họa Trung Quốc bơi trong hư vô.
Có những bức tranh không có cả quãng nghỉ, Nặng nề. Trong điêu khắc quãng nghỉ là tính chất méo mó trong tượng, thiếu chi, là đá giữ nguyên sự sần sùi nguyên thủy.
Không cần tạo dựng hình thức cho vật thể mà cần cho cái hư vô – một quãng nghỉ đã được xác định đúng đắn. Thượng Đế sống trong cái hư vô. .
Chỉ một lần, một lần duy nhất, từ khi có thế gian, Thượng Đế không chịu nổi tiếp, đã gần như cất tiếng. Gần như thôi. Khi trái tim Ngài đập mạnh và Ngài muốn kêu thét. Đấy là khoảnh khắc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thánh giá thốt lên: Cha ơi, Cha, sao Cha nỡ bỏ rơi con!
Thượng Đế không lên tiếng. Ôi! Giá mà ta biết Thượng Đế muốn thét lên điều gì. Và sau những từ ngữ này, một quãng nghỉ khủng khiếp nhất có thể hình dung đã xuất hiện. Đây chính là quãng nghỉ của sự hú gào. Đây là quãng nghỉ của sấm rền.