Tìm kiếm Meldon Geurin có nickname là Brick không mất nhiều thời gian lắm. Chỉ vài câu hỏi đã dẫn đến quán bar mà anh ta yêu thích, dẫn đến tên một vài người bạn của anh ta và dẫn đến câu nói. “À, Brick, ừ, anh ta và bà bồ già, ừ, có cãi nhau gì đó và tôi nghe là anh ta đang cãi vã với Victor.”
“Họ của Victor là gì vậy?” thám tử Roger Bernsen hỏi giọng rất nhã nhặn những ngay cả khi anh hỏi rất nhã nhặn thì vẫn có vẻ đe doạ vì thám tử Bersen có khung người rắn chắc, nặng khoảng 250 pound với giọng nói ồm ồm ễnh ương phát ra từ cái cổ 20 in sơ và biểu hiện cho thấy rằng anh chẳng cách cơn thịnh nộ điên cuồng bao xa. Anh mặc kệ giọng nói của mình, không quan tâm đến khối lượng của mình và rèn luyện cách thể hiện ý muốn. Toàn bộ đặc điểm đó tạo nên một con người rất đáng sợ.
“Ừm – Abies. Victor Abies.”
“Anh có biết Victor sống ở đâu không?”
“Trong thành phố.”
Viên thám tử của Sterling Heights liên lạc với phòng cảnh sát Detroit và Meldon “Brick” Geurin dẫn đến và giam giữ để thẩm vấn.
Ngài Geurin đang ở trong tâm trạng cáu kỉnh khi thám tử Bernsen ngồi xuống và nói chuyện. Mắt anh ta toé máu và anh ta bốc mùi chua chua của kẻ say rượu vì thế có lẽ sự cáu gắt của anh ta một phần do rượu nữa.
“Ngài Geurin,” viên thám tử nói với giọng lịch sự nhưng vẫn khiến cho Geurin nao núng, “lần cuối ngài gặp bà Marci là khi nào?”
Đầu Geurin ngẩng bật dậy, hành động mà hình như anh ta thấy hối hận. Khi anh ta có thể nói, anh nói buồn thảm, “Đêm thứ năm.”
“Thứ năm? Ngài chắc chứ?”
“Đúng thế, tại sao? Có phải cô ấy nói tôi đã ăn trộm gì à? Cô ấy ở đó khi tôi rời đi và nếu cô ấy nói tôi lấy cái gì của cô ấy thì đó là nói dối.”
Thám tử Bernsen không phản ứng lại. Thay vì thế, anh nói, “Ngài ở đâu từ đêm thứ năm vừa rồi?”
“Nhà giam,” Geurin nói thậm chí còn rầu rĩ hơn trước. Thám tử Bernsen ngồi lùi lại, chỉ có một dấu hiệu ngạc nhiên thể hiện ra bên ngoài. “Ngài ở nhà giam nào?” “Detroit.”
“Ngài bị bắt khi nào?”
“Đêm thứ năm vừa rồi.”
“Và ngài được trả tự do khi nào?”
“Chiều qua.”
“Thế là ngài đã làm khách của thành phố Detroit 3 ngày à?” Geurin cười ngớ ngẩn. “Khách. Đúng vậy.”
“Vì tội gì?”
“Lái xe khi say rượu và họ nói tôi đã chống cự.”
Tất cả những điều này có thể kiểm tra dễ dàng. Thám tử Bernsen mời Geurin một cốc cà phê nhưng không ngạc nhiên khi anh ta từ chối. Để Geurin một mình, viên thám tử bước ra ngoài gọi đến phòng cảnh sát Detroit. Thực tế đúng như Geurin đã nói. Từ 11h34 đêm thứ năm đến 3h41 chiều chủ nhật, Geurin ở trong nhà giam.
Một bằng chứng ngoại phạm chắc chắn.
Lần cuối cùng người ta thấy cô Dean còn sống là khi cô và 3 người bạn rời khỏi quán Ernie vào đêm thứ sáu. Theo tình trạng cơ thể và độ cứng của xác chết, cộng thêm các nhân tố về nhiệt độ trong căn nhà có điều hoà không khí, cô Dean đã bị giết vào khoảng đêm từ sáu đến sáng thứ bảy.
Như vậy, Geurin không phải kẻ sát nhân.
Một thực tế đơn giản là viên thám tử đã gặp một vấn đề hóc búa hơn là giả thiết ban đầu của anh. Nếu Geurin không làm thì ai đã làm? Cho đến lúc này họ chưa xem xét tất cả các mối quan hệ lãng mạn khác, không có người tình giận dữ vì bị cô ấy từ chối nào được xem xét ngoài Geurin. Thực tế là do cô và Geurin đã chia tay vào đêm thứ năm nên giả thuyết đó không bị loại bỏ hoàn toàn. Nhưng sự tấn công có vẻ vì lý do rất cá nhân, thể hiện ở sự thịnh nộ, giết hại dã man và phá huỷ mọi đặc điểm nhận diện của nạn nhân. Nạn nhân bị dao đâm sau khi đã chết vì bị búa đập nhưng tên sát nhân vẫn còn rất giận dữ và đã dùng thêm dao. Vết thương chảy máu rất ít cho thấy tim cô đã ngừng đập khi cô nhận những nhát dao đó. Sự tấn công tình dục cũng xảy ra sau khi cô đã chết.
Marci Dean biết kẻ sát nhân và có lẽ đã cho hắn vào nhà vì không có dấu hiệu phá huỷ do đột nhập. Do Geurin đã bị loại khỏi diện tình nghi, viên thám tử phải quay về điểm xuất phát.
Anh phải lần theo dấu vết của cô từ đêm thứ sáu, anh nghĩ. Bắt đầu từ quán Enrnie. Cô ấy đã đi đâu từ đó? Cô ấy có đến một hai quán bar nào khác không hay có thể bắt bồ với một anh chàng nào đó, đưa anh ta về nhà với cô không?
Lông mày anh nhíu lại vì suy nghĩ, anh quay trở lại với Geurin. Anh ta đang ngồi rũ ở ghế, mắt nhắm lại. Anh ta ngồi thẳng dậy khi thám tử Bernsen đi vào phòng. “Cám ơn ngài đã hợp tác,” thám tử Bernsen nói với giọng lịch sự. “Tôi sẽ sắp xếp cho ngài quá giang nếu ngài cần.”
“Gì thế? Tất cả những gì ông muốn hỏi tôi đấy à? Chuyện gì vậy?”
Thám tử Bernsen ngập ngừng. Nếu như có điều gì anh ghét thì đó là thông báo cái chết của ai đó. Anh ta vẫn có thể nhớ hình ảnh cha tuyên uý đi vào cửa năm 1968 và báo cho mẹ anh biết rằng chồng bà sẽ không bao giờ còn sống và trở về từ Việt Nam nữa. Ký ức đau buồn muốn làm não anh nổ tung.
Nhưng Geurin đã bị rắc rối vì việc này và anh ta xứng đáng được biết. “Cô Dean đã bị tấn công tại nhà riêng…”
“Marci?” Geurin đứng thẳng dậy, đột nhiên trở lên nhanh nhẹn, toàn bộ kiểu cách của anh ta thay đổi. “Cô ấy có bị thương không? Cô ấy có ổn không?” Thám tử Bernsen lại ngập ngừng, thấu hiểu cảm xúc của con người thật không dễ chịu. “Tôi rất tiếc,” anh nói dịu dàng nhất có thể, biết rằng tin tức này sẽ làm Geurin đau khổ hơn anh đã nghĩ trước đó. “Cô Dean đã không còn sau vụ tấn công.”
“Không còn? Ý ông là cô ấy… cô ấy chết rồi ư?”
“Tôi rất tiếc,” viên thám tử nói lần nữa.
Brick Geurin ngồi choáng váng trong giây lát rồi bắt đầu từ từ sụp xuống. Anh vùi khuôn mặt râu ria vào lòng bàn tay và nức nở.
Chị gái cô, Shelley đến bậc cửa nhà Jaine khi chưa đến 7h sáng ngày hôm sau. “Chị muốn gặp em trước khi em đi làm mất,” cô nói mạnh mẽ khi Jaine mở cửa phòng bếp.
“Hôm nay em không đi làm.” Jaine nói và vô thức lấy thêm cái chén khác từ chạn và đổ đầy cà phê, đẩy nó qua chỗ Shelly. Giờ thì là chuyện gì đây? Cô không còn đủ sức mà chịu đựng sự xúc phạm của chị cô nữa.
Shelly đặt cái cốc lên bàn vào vòng tay quanh người Jaine, kéo cô vào lòng. “Chị không biết gì cho đến khi xem bản tin sáng và chị đến ngay đây. Em ổn chứ?” Nước mắt lại làm mắt Jaine cay xè dù cô đã nghĩ rằng mình không còn có thể khóc thêm được nữa. Cô nên khóc to lên. “Em ổn,” cô nói. Cô đã không thể ngủ ngon, không thể ăn nhiều và cảm thấy như thể từng khớp xương của mình đang bốc cháy nhưng cô đang cố gắng. Dù cái chết của Marci có đau đớn thế nào thì cô biết rằng cô ấy đã trải qua rồi. Người lớn tuổi nào biết lo liệu cho thời gian trước mắt là người đã hiểu tường tận quy luật bởi vì đó là sự thật hiển nhiên.
Shelly ôm dọc theo cánh tay cô, nhìn ngắm gương mặt nhợt nhạt khô nẻ và đôi mắt sưng mọng của cô. “Chị mang đến 1 quả dưa chuột,” cô nói. “Ngồi xuống đi,”
Dưa chuột?
“Tại sao?” Jaine hỏi giọng đề phòng. “Chị định làm gì với nó?”
“Thái lát rồi đắt lên mắt em, con bé ngốc.” Shelly nói bực tức. Giọng cô thường có vẻ bực tức khi nói chuyện với Jaine. “Nó sẽ làm giảm sưng.”
“Em có miếng dán mắt rồi.”
“Dưa chuột tốt hơn. Ngồi xuống.”
Vì quá mệt mỏi, Jaine ngồi xuống. Cô nhìn Shelly lôi quả dưa chuột khổng lồ ra khỏi túi khoác vai và rửa nó rồi nhìn ngó xung quanh. “Dao nhà em đâu?”
“Em không biết. Ở một trong những ngăn kéo.”
“Em không biết dao nhà mình để đâu à?”
“Xin chị đấy. Em chưa sống ở đây nổi 1 tháng. Khi chị và Al chuyển nhà, chị mất bao nhiêu thời gian để dỡ đồ?”
“Ừm, xem nào, bọn chị chuyển nhà được 8 năm rồi vì thế bọn chị mất 8 năm.” Vẻ hài hước loé lên trong mắt Shelly khi cô bắt đầu đóng mở các ngăn kéo một cách có trật tự. Có tiếng gõ nhẹ ngoài cửa nhà bếp rồi cửa nhà bếp mở ra trước khi cô kịp ngồi dậy. Sam bước vào bếp. “Anh thấy có chiếc ô tô lạ và anh qua đây để chắc chắn rằng không có tên phóng viên nào làm phiền em,” anh nói với Jaine. Một binh đoàn phóng viên đã gọi điện đến vào đêm hôm trước, bao gồm cả người đại diện cho 4 kênh truyền hình nổi tiếng nhất. Shelly ngó nghiêm với quả dưa chuột lớn trong tay. “Anh là ai?” cô hỏi thẳng thừng.
“Cảnh sát, hàng xóm của cô ấy,” Sam nói. Anh nhìn quả dưa. “Tôi đã cắt ngang việc gì à?”
Jaine muốn đánh cho anh một trận nhưng cô không còn năng lượng nữa. Tuy nhiên, có gì đó trong cô thấy nhẹ nhõm hơn vì sự hiện diện của anh. “Chị ấy định đắp lên mắt em.”
Anh liếc xéo sang bên, cái nhìn theo kiểu em-đùa-đấy-à “Nó sẽ lăn lông lốc.”
Cô quyết định phải đánh anh mới được. Sau này. “Lát dưa chuột.”
Biểu hiện của anh chuyển sang thái độ hoài nghi, anh-muốn-nhìn-tận-mắt. Anh đến ngăn kéo và lôi ra chiếc cốc khác, rót đầy cà phê cho mình. Anh lơ đãng đứng dựa đôi chân dài của mình vào tủ đựng đồ, chờ đợi. Shelly quay ra phía Jaine, thái độ còn hơn là sửng sốt. “Ai thế?” cô hỏi.
“Hàng xóm của em,” Jaine nói. “Shelly, đây là Sam Donovan. Sam, đây là chị em, Shelly.”
Anh giơ tay ra. “Rất vui được gặp chị.” Shelly bắt tay nhưng trông cô như thể không muốn thế. Cô tiếp tục tìm kiếm dao. “Em sống ở đây mới ba tuần và em đã có một người hàng xóm tự ý vào nhà và biết em để máy pha cà phê ở đâu cơ à?”
“Tôi là thám tử,” Sam nói, cười toe. “Công việc của tôi là tìm đồ.”
Shelly ném cho anh cái nhìn như thể nữ hoàng Victoria, điều đó cho thấy cô chẳng có gì thích thú cả.
Jaine nghĩ đến chuyển đứng dậy và ôm anh chỉ vì anh làm cô thấy khá hơn. Cô không biết cô đã làm gì với anh hôm qua. Anh như một tảng đá, đứng vững như bức tường giữa cô và các cuộc điện thoại và khi Sam nói với ai đó là hãy dừng ngay việc gọi điện, có gì đó đáng trong giọng nói của anh khiến người ta phải chú ý. Nhưng hôm nay anh sẽ không ở đây, cô nhận thấy điều đó. Anh đã mặc đồ đi làm, trong chiếc quần âu màu vỏ dà sáng và một chiếc sơ mi màu trắng bảnh bao. Máy nhắn tin của anh gắn ở thắt lưng và khẩu súng lục thì ngự ở phía thận phải. Shelly nhìn anh không chớp như thể anh là người ngoại quốc, chỉ tập trung một nửa vào việc tìm dao thôi. Dù vậy, cuối cùng cô cũng mở đúng ngăn kéo và lôi ra một con dao gọt.
“Ồ,” Jaine nói với vẻ thích thú không ồn ào. “Hoá ra nó ở đó.”
Shelly quay mặt về phía Sam, một tay cầm dao, một tay cầm dưa chuột. “Các người đã ngủ cũng nhau chưa?” Cô hỏi giọng thù địch.
“Shelly!” Jaine nói gay gắt.
“Chưa,” Sam nói với giọng tự tin tuyệt đối.
Im lặng bao trùm nhà bếp. Shelly bắt đầu gọt dưa chuột với những nhát cắt ngắn đầy hằn học. “Trông hai người không giống chị em lắm,” Sam quan sát như thể anh không dừng ở mẩu đối thoại lạnh nhạt.
Họ đã nghe câu nhận xét đó hay đại loại ý như vậy từ khi mới sinh. “Shelly giống bố nhưng mang sắc thái của mẹ còn em thì giống mẹ nhưng mang sắc thái của bố.” Jaine nói vô thức. Shelly cao, cao hơn Jaine gần 5 in sơ, cao lêu nghêu và tóc màu vàng hoe. Mái tóc màu vàng hoe được túm lên nhưng trông rất hợp với đôi mắt màu nâu lục nhạt của Shelly.
“Chị sẽ ở với cô ấy cả ngày nay chứ?” Sam hỏi Shelly. “Em không cần ai với ở cùng em cả,” Jaine nói. “Đúng thế,” Shelly trả lời.
“Hay can thiệt và giữ đám phóng viên cách xa cô ấy được không?”
“Em không cần ai ở với em cả,” Jaine nhắc lại. “Được,” Shelly nói với Sam.
“Tốt,” Jaine nói. “Đây là nhà em, Không ai thèm nghe em cả.”
Shelly cắt hai lát dưa chuột. “Ngửa đầu em ra sau và nhắm mắt lại.”
Jaine ngửa đầu ra và nhắm mắt. “Em nghĩ rằng em sẽ phải nằm xuống.”
“Quá muộn rồi.” Shelly thả lát dưa chuột màu xanh mát lạnh lên đôi mắt đau rát của Jaine.
Ôi, cảm giác thật mát lạnh dễ chịu đến không ngờ. Có lẽ cô sẽ cần đến đầy một giỏ dưa chuột trước khi lễ tang của Marci kết thúc, Jaine nghĩ, nỗi buồn lại quay trở lại. Sam và Shelly đã đẩy nó đi được một chốc và cô rất biết ơn họ vì điều đó.
“Anh nhận được điện thoại từ phòng trinh thám,” Sam nói. “Bạn trai Marci, Brick, ở trong nhà giam Detroit từ đêm thứ năm đến tận chiều muộn thứ sáu. Anh ta trong sạch.”
“Kẻ lạ đã xâm nhập và giết cô ấy ư?” Jaine hỏi, bỏ lát dưa chuột ra và ngẩng đầu nhìn anh.
“Bất kể là ai thì cũng không có dấu hiệu đột nhập.” Cô đã đọc điều đó trên tờ báo buổi sáng. “Anh biết nhiều hơn là điều anh nói phải không?”
Anh nhún vai. “Cảnh sát luôn biết nhiều hơn điều họ nói.” Và anh sẽ không tiết lộ bất cứ chi tiết nào nữa; cô có thể nói điều đó qua việc anh chuyển thái độ của mình dưới gương mặt của một cảnh sát. Cô cố gắng không tưởng tượng những chi tiết có thể. Anh tu hết cốc cà phê và rửa qua loa cái cốc, úp nó lên giá. Sau đó anh cúi xuống hôn cô, áp lực trên đôi môi cô ấm áp và ngắn. “Em có cả số máy nhắn tin lẫn số di động của anh nên nếu em cần anh thì hãy gọi nhé.”
“Em ổn mà,” cô nói với anh. “À – Anh có biết chị của Marci đã ở đây hay chưa không?”
Anh lắc đầu. “Chị ấy quay về Saginaw rồi. Chị ấy không thể làm thêm điều gì ở đây nữa. Ngôi nhà vẫn bị phong toả và cần phải khám nghiệm tử thi trong các trường hợp thế này. Mất bao lâu thì còn phụ thuộc vào khả năng làm việc của phòng M.E. nữa. Có lẽ tang lễ ít nhất phải dời đến cuối tuần này.
Có một chi tiết khác cô không muốn nghĩ đến là cơ thể Marci đang phải nằm trong ngăn lạnh vài ngày nữa. “Ngày mai em sẽ đi làm. Em muốn giúp chị cô ấy sắp xếp mọi thứ nếu chị ấy muốn nhưng em chưa biết phải làm những gì.”
“Chưa đâu.” Anh hôn cô lần nữa rồi nâng cánh tay cô lên, tay vẫn cầm lát dưa chuột và đặt vào mí mắt cô. “Để chúng ở đấy. Trông em kinh khủng quá.”
“Vâng, cám ơn anh,” cô nói khô khốc và nghe anh cười thầm khi anh rời đi.
Im lặng lại tiếp tục rồi Shelly nói. “Anh ta thật khác biệt.”
Khác biệt với 3 gã hôn phu của Jaine, ý cô là vậy. Không hề có gì đùa bỡn cả.
“Vâng,” Jaine đồng ý.
“Có vẻ khá nghiêm túc đấy. Em chưa quen anh ta lâu mà.”
Nếu như Shelly biết! Shelly có thể tính ra Jaine đã ở đây được ba tuần. Không thể biết được cô sẽ nói gì nếu như cô biết rằng trong hai tuần đầu tiên Jaine đã nghĩ rằng Sam là tên nát rượu hay tên bán thuốc phiện nào đó.
“Em không biết nó nghiêm túc thế nào,” cô nói, biết rằng cô đang nói dối. “Em không hấp tấp lao vào cái gì hết.” Về phần mình, cô không thể nghiêm túc hơn nữa. Cô đã yêu gã thiểu năng to xác ấy rồi. Nhưng anh cảm thấy cái gì, cảm thấy như thế nào thì vẫn còn phải bàn thêm.
“Tốt đấy,” Shelly nói. “Điều cuối cùng mà em muốn là một cuộc đính hôn tan vỡ nữa.”
Cô có thể ở bên Jaine cả ngày mà không động chạm đến những ký ức đau khổ của Jaine nhưng Shelly chưa bao giờ được tiếng là tế nhị cả. Mặt khác, Jaine cũng chưa từng nghi ngờ rằng chị cô rất yêu cô khiến chị cô thường xuyên cư xử không khéo léo chút nào.
Điện thoại reo, Jaine nhấc lát dưa chuột ra khỏi mắt và với lấy cái máy không dây cùng lúc với Shelly. “Sam dặn chị trả lời điện thoại,” Shelly rít lên người gọi đến có thể nghe thấy cô.
Chuông reo.
“Và từ khi nào chị làm theo yêu cầu của kẻ mà chị vừa mới cảnh báo em nên chống lại hắn?” Jaine hỏi giọng khô khốc.
“Không hoàn toàn là cảnh báo…”
Chuông reo.
Biết rằng cuộc tranh cãi nhỏ này có thể tiếp tục đến nửa tiếng. Jaine bấm nút “talk” trước khi máy trả lời tự động tự trả lời. “A lô.”
“Mày là đứa nào?”
“Cái gì?” Cô hỏi ngạc nhiên.
“Mày là đứa nào?”
Cô ngắt máy và đặt ống nghe xuống, cau mày khó chịu. “Ai thế?” Shelly hỏi.
“Nặc danh. Marci, T.J. và Luna đã nhận được từ khi cái List bị phán tán.” Giọng cô hơi khác khi cô nói đến Marci. “Cùng 1 gã, hắn ta luôn nói cùng một câu.”
“Em đã báo cho công ty điện thoại về những cuộc gọi gây rối này chưa?”
“Không phải cuộc gọi gây rối. Hắn chỉ nói, “Mày là đứa nào?” với giọng thì thầm ma quái thôi. Em đoán là đàn ông nhưng mà khó có thể khẳng định được khi hắn thì thầm như thế.”
Shelly đảo mắt. “Cuộc gọi nặc danh về cái List? Em có thể cá đó là đàn ông. Al nói rằng tất cả đàn ông ở công ty thực sự bị ấn tượng bởi nhiều phần của nó. Chị sẽ nói cho em biết phần họ không thích là phần nào.”
“Những phần họ không đủ tiêu chuẩn?” Cô hỏi như đoán.
“Đàn ông rất dễ đoán phải không?” Shelly di chuyển quanh bếp, mở chạn và cửa. “Chị đang làm gì thế?”
“Tìm xem mọi thứ nằm ở chỗ nào để chị không phải tìm lại khi chị bắt đầu nấu nướng nữa.”
“Chị nấu?Cái gì?” Trong một thoáng ngừng lại, Jaine tự hỏi liệu Shelly có mang tất cả những thứ cần thiết cho món ăn mà cô định nấu vào bữa tối cho gia đình cô hay không. Rốt cuộc, cô mới lôi có mỗi quả dưa chuột khổng lồ ra khỏi túi mình; có Chúa mới biết còn những gì trong đó. Có lẽ là thịt nướng chăng?
“Bữa sáng,” Shelly nói. “Cho chị em mình. Và em cũng sẽ ăn nữa.”
Thực sự là sáng nay Jaine thấy đói, cô đã bỏ bữa tối hôm trước. Shelly có nghĩ cô bị điên không nhỉ? Không cách nào cô từ chối thức ăn được. “Em sẽ cố,” cô nói ngoan ngoãn và thay lát dưa chuột trên mắt cô khi chị gái cô lăng xăng chuẩn bị làm-bánh-kếp-thập-cẩm.
Corin đứng nhìn chằm chằm vào điện thoại, cảm thấy sự thất vọng đang nhấn chìm hắn xuống dưới những con sóng. Mụ ta đã không nói gì. Ít nhất mụ ta cũng không chửi bới hắn như những người khác. Hắn đã nghĩ mụ ta sẽ làm thế và chuẩn bị tinh thần cho bất cứ điều gì mụ ta có thể nói. Mụ ta có cái mồm rộng, mẹ hắn sẽ nói thế. Hắn thường không đồng tình với cách mụ ta nói chuyện ở công ty, nói đệm với từ chửi thề. Mẹ hắn cũng sẽ không thích mụ ta chút nào.
Hắn không biết làm gì bây giờ. Giết mụ chó cái đầu tiên, là một cảm giác… rất mạnh. Hắn không lường được rằng nó lại hoang dại, kích thích đến mức gần như là vui sướng tột độ như thế. Hắn thấy hãnh diện nhưng sau đó hắn lại thấy sợ. Không biết Mẹ sẽ làm gì nếu mẹ biết hắn thích thú điều đó? Hắn luôn luôn sợ quá mức rằng mẹ sẽ tìm ra sự thích thú thầm kín khi bị mẹ trừng phạt. Nhưng mà giết người… ôi, giết người. Hắn nhắm mắt lại, đu đưa người một chút khi hắn làm dịu mọi khoảnh khắc trong đầu hắn. Cú sốc hiện lên trong mắt mụ chó cái khoảng một giây trước khi cái búa đập vào mụ, những tiếng phang bình bịch và sự sung sướng trào lên trong huyết mạch của hắn, cảm giác hắn là người có-tất-cả-quyền-năng khi biết rằng mụ ta không thể dừng hắn lại bởi vì hắn quá mạnh – Nước mắt làm nhoè mắt hắn bởi vì hắn đã hưởng thụ nó quá nhiều và giờ nó đã đến thúc.
Hắn đã không còn hưởng thụ được bất cứ điều gì từ ngày hắn giết chết Mẹ.
Không – đừng nghĩ về điều đó nữa. Họ nói rằng hắn không nên nghĩ về điều đó, Nhưng họ lại nói hắn nên uống thuốc, họ đã sai ở điểm này phải không? Những viên thuốc làm hắn biết mất. Vì thế có lẽ hắn nên nghĩ về Mẹ. Hắn đi vào phòng tắm, kiểm tra gương. Đúng thế, hắn vẫn đang ở đây.
Hắn mang về một thỏi son từ nhà mụ chó cái đó. Hắn không biết tại sao. Sau khi mụ ta chết, hắn đi loanh quanh, xem xét đồ đạc của mụ và khi hắn đi vào phòng tắm của mụ để kiểm tra hắn trong gương, hắn chú ý thấy một lượng lớn đồ trang điểm vương vãi khắp nền nhà tắm. Mụ chó cái tin tưởng vào việc làm đẹp bản thân lắm phải không? Được, mụ ta sẽ không cần đến những thứ này nữa, hắn nghĩ và lấy một thỏi son bỏ vào túi. Từ hôm đó nó vẫn nằm ở túi trang điểm trong phòng tắm của hắn. Hắn mở nắp thỏi soi và vặn xoắn dưới đáy. Một hình dáng tục tĩu đỏ thẫm dài dài thò ra trông như dái chó. Hắn biết dái chó trông thế nào bởi vì hắn đã – không, đừng nghĩ về điều đó nữa.
Hắn nhướn người ra trước, thận trọng tô môi hắn với màu đỏ tươi. Hắn đứng thẳng lên và nhìn chằm chằm vào mình trong gương. Hắn cười, đôi môi đỏ thắm của hắn kéo căng ngang hàm răng hắn và hắn nói, “Chào Mẹ.”