Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Người Đàn Ông Bí Ẩn

Chương III: Quán trọ “Belles and Motley”

Tác giả: Agatha Christie

Ông Satterthwaite đang bực. Quả đúng là một ngày tồi tệ. Khởi hành đã muộn thì chớ, đang đi thì bánh xe bị bể, mà tới hai lần. Chẳng những vậy, chủ tớ còn bị lạc đường và cứ lang tháng trên những dãy phố khuya vắng vẻ trong thị trấn Salisbury Plain. Nên bây giờ đã là tám giờ tối hoặc gần như thế, vậy mà họ còn cách nơi phải đến – thành phố Marswick Manor chừng sáu mươi kilômét. Và dường như ông trời muốn trêu chọc con người, bánh xe của họ bị bể lần nữa.

Ông lão Satterthwaite nhỏ thông trông nghiệp chẳng khác gì một con chim sẻ già với bộ lông bù xù lượn qua lượn lại hàng trăm lần trước cửa nhà ga của thị trấn, trong khi anh tài xế đang to nhỏ tranh luận với ta chuyên gia về rượu vang.

– Phải mất nửa tiếng- Tay chuyên gia thấp giọng.

– Nửa tiếng hơn, may ra thì được, Masters, anh lái xe nói giọng lo ngại- Theo tôi thì phải đến bốn mươi lăm phút.

Ông Satterthwaite bất chợt quay lại hỏi, mặt càu cạu:

– Cái…cái chỗ này tên là gì?

Satterthwaite vẫn luôn là một ông già thanh lịch. Không muốn làm tổn thương ngwoif dối thoại, ông cố gắng kiềm chế không văng tục và gọi đích danh “cái nơi khỉ ho cò gáy” đã chực thoát khỏi cổ họng.

– Kirlington Mallet.

Nơi đây chẳng có ấn tượng gì hết. Nhưng khoan đã nào, cái tên này nghe có vẻ quen quen. Satterthwaite khinh khỉnh nhìn những cảnh vật xung quanh, Kirlington Mallet trông chẳng khác gì một dãy phố nhỏ xíu với một bên là xưởng sửa chữa xe ôtô và bưu điện, còn bên kia là ba cửa hiệu to đùng. Xa xa, Satterthwaite nhận ra một tấm biển hiệu đang kêu cọt kẹt trong gió.

– Hình như là một quán trọ thì phải- Satterthwaite nói

– Vâng, nhà trọ “Belles and Motley”, hay như người ta vẫn quen gọi là L’Arlequin aux Grelots- Tay thợ sửa xe trả lời- chính là cái tên trương biển hiệu mà ngài nhìn thấy đó.

– Nếu tôi được phép đưa ra một ý kiến thưa ngài- Masters thẽ thọt- tại sao ngài không ghé qua đó thử xem? Tôi cam đoan là ở đó ngài sẽ được phục vụ một bữa rất chu đáo. Dĩ nhiên là tôi biết ngài không mấy quen với những chỗ tầm thường như thế đâu ạ.

Anh ta ngừng bặt, như thể vừa làm điều gì có lỗi vậy. Bởi vì ông Satterthwaite vốn là khách quen thường xuyên của những sếp bự nhất thành phố. Bởi vì ông vẫn quen được phụ vụ bởi những tay đầu bếp cừ khôi với những món ăn đắt kinh khủng.

– Có lẽ chúng ta phải mất ít nhất bốn mươi lăm phút để sửa xe, thưa Ngài- Masters nói tiếp- Vả lại bây giờ đã là tám giờ tối. Ngài có thể gọi nhờ điện thoại của quán trọ báo cho ngài George Poster và giải thích lý do chúng ta đến muộn.

– Cứ như thể có anh là mọi việc đều ổn thoả hết vậy- Ông Satterthwaite cất giọng chua chát.

Biết phải làm gì trong lúc này, Masters im bặt, không dám hó hé thêm điều gì nữa.

Nhưng Satterthwaite có vẻ như xuôi theo lời đề nghị của người lái xe. Ông kín đáo đưa mắt liếc nhìn tấm biển hiệu, vẫn không thôi đung đưa trong gió ngay đầu phố vả lại cơn đói cũng đang khiến ông cồn cào cả gan ruột.

– L’Ảrlguin aux Grelots- Satterthwaite tư lự- Quả là một cái tên kỳ cục. Tôi không nghĩ là đã nhìn thấy nó ở đâu đó.

– Và những khách trọ rới đó cũng thật kỳ cục- Ông thợ sửa xe bình luận.

Giọng nói của người thợ nghe có vẻ lùng bùng, không rõ.

– Những khách trọ kỳ cục?- Satterthwaite hỏi lại- Anh đã nghe được gì ở đó?

– Cũng chẳng biết phải nói thế nào. Ngài cứ qua đó thì khắc biết- Người thợ tỏ vẻ muốn cắt đứt câu chuyện ở đấy.

Tính tò mò cố hữu thức dậy trong Satterthwaite. Ôn cứ thắc mắc không hiểunhững vị khách trong quán trọ ấy kỳ cục đến mức nào. Mà chắc chắn gã sửa xe này phải biết rõ chứ?! Nhưng dù sao thì mình cũng có bốn mươi lăm phút chờ đợi cơ mà. Thử tới L’ Arlequin aux Grelots xem sao.

Nhu để phụ hoạ thêm cho quyết tâm của ông Satterthwaite, tiếng sấm ẫm ĩ nổi lên từ phía xa, người thợ sửa xe đưa mắt sang Masters:

– Thể nào bão cũng tới. Tôi cảm nhận được mùi vị của nó.

– Vậy đấy! Masters nói – Thế nào còn tới sáu mươi kilômét nữa mới tới nơi!

– Ồ!, Làm gì phải vội vã thế. Tôi cá là anh không thể khởi hành trước khi bão tan. Thật ngạc nhiên nếu ông chủ của anh cứ thích ra đi giữa lúc sấm chớp bão bùng như thế!

– Hy vọng là họ phục vụ ông chủ tôi chu đáo- Viên tào xế thì thầm- Vả lại tôi cũng phải kiếm chút gì bỏ vào bụng nữa.

– Billy Jones là người rất thạo việc, người thợ sửa xe quả quyết. Ai cũng khen anh ta nấu ăn ngon.

Trước cửa quán trọ “ Belles and Motley” hay còn gọi là “ L’ Arlequin aux Grelots”, một người đàn ông dáng to lớn, khoẻ mạnh, chừng năm mươi tuổi cúi đầu thật thấp, dáng vẻ khúm núm trước ông lão bé nhỏ Satterthwaite. Đó chính là William Jones- chủ quán.

– Ở chỗ chúng tôi có món bittết rất ngon, thưa ngài, cả mứtnữa. Sau đó ngài có thể dùng thêm chút phomát. Lối này, thưa ngài. Lúc này khách trọ ít tìm đến đây. Mùa câu cá đã qua rồi mà. Nhưng mùa đi săn sắp tới, khi đó thì lại chật khách thôi. Hiện giờ có một vị khách đang trọ ở đây, ông ấy tên là Quinn.

…Satterthwaite dừng phắt lại:

– Quinn? Ông vừa nói là Quinn phải không ?

Giọng ông như run lên vì kích động.

– Vâng, đúng thế ? Ồ, chắc chắn thế rồi !

Trong cơn hưng phấn, Satterthwaite quên khuấy mất rằng ở trên đời này có cả ngàn người tên là Quinn. Song ông không mảy may nghi ngờ. Thật kỳ lạ, những gì mà ông vừa nghe thấy hoàn toàn trùng hợp với lời nói của người thợ sửa xe khi nãy : ‘Những khách trọ kỳ cục…’. Còn ví dụ nào khác sinh động hơn ngoài Quinn để chứng minh cho nhận định này ?

– Chúa ơi, chúa ơi, Satterthwaite lẩm bẩm, không thể ngờ được. Lại gặp nữa rồi. Anh này, có phải ông Harley Quinn không ?

– Chính xác, thưa ngài. Đến nơi rồi. Đây này, nhân vật mà tôi vừa mới nói với ngài đó.

Cao, gầy, tóc hung và nụ cười nửa miệng trên môi, ông Quinn đang ngồi tren chiếc ghế kê ở góc phòng.

– Ông Satterthwaite, chúng ta lại gặp nhau nữa rồi- Giọng Quinn vang lên- một giọng nói mà Satterthwaite không thể nào quên- Tôi không thể ngờ lại có vinh hạnh này.

Satterthwaite nồng nhiệt bắt tay ‘người bạn cũ’ :

– Thật sự rất vui. Một vụ hỏng hóc ‘đáng giá ”. Tôi muốn nói về cái ôtô đang sửa ngoài kia. Ông thuê phòng ở đây ư ? Có lâu không ?

– Một đêm duy nhất.

– A ! Tôi thật may mắn.

Thở dài nhẹ nhõm, ông Satterthwaite ngồi xuống phía đối diện, chăm chú quan sát gương mặt của ‘ông bạn’ Quinn, dường như vẫn không ngờ tới sự thật trước mặt. Đối phương nhè nhẹ lúc lắc đầu.

– Tôi đảm bảo với ông là tôi không có tài móc một hũ cá vàng hay một con thỏ ra khỏi mũ đâu.

– Thật tiếc- Ông Satterthwaite tỏ vẻ thất vọng- Phải thú thật là lúc nào tôi cũng coi ông là một nhà ảo thuật. Vâng đúng thế. Một ảo thuật gia đại tài.

– Ngược lại- Quinn tiếp lời- Tôi lại nghĩ là ông mới phải.

– Ồ !- Satterthwaite kêu lên vui sướng- Nhưng không có ông thì tôi làm gì được nào ? Ông đã mang đến cho tôi…Phải nói thế nào nhỉ ?…hơi thở !

Quinn nhìn ông bạn già :

– Ông cứ nói quá ! Đúng ra thì tôi cũng chỉ giúp ông được phần nào thôi mà.

Đầu bếp quán trọ đi vào, mang theo một bánh và một hũ bơ màu vàng. Một ánh chớp nhợt nhạt loé lên và tiếng sấm nổ gần như cùng lúc khi anh ta đặt khay đồ ăn xuống bàn.

– Một đêm chết tiệt, các ngài ạ.-Tay đầu bếp mau mắn.

– Anh định nói là một điểm đáng nhớ ư… ? Satterthwaite chỉnh lại.

– Ồ đúng rồi chính xác là như vậy. Đên nay giống hệt như cái đêm mà đại uý Harwell cùng cô vợ trẻ trở về nhà. Đêm trước khi anh ta biến mất ấy mà.

– A !- Satterthwaite chợt kêu lên- Tôi nhớ ra rồi !

Đúng vậy. Thảo nào lúc nãy khi nghe tay thợ sửa xe nhắc tới cá tên Kirlington tôi đã ngờ ngợ. Tôi đã đọc chi tiết tất cả những gì liên quan tới vụ mất tích bí ẩn của đại uý Richard Harwell. Khắp nước Anh, từ nam chí bắc, tất cả các tờ báo đều đăng trên trang nhất về một vụ mất tích đáng ngờ này. Và hết thảy những ai quan tâm đều cố tìm ra một nguyên nhân để lý giải vụ việc.

– Vâng, tôi nhớ rồi- Satterthwaite nhắc lại- Vụ án xảy ra tại thì trấn Kirlington Mallet.

– Anh ta tới đây vào mùa đông năm ngoái để đi săn- Tay đầu bếp kể lại- Tôi biết rõ anh ta mà. Một thanh niên trẻ, đẹp trai, cao lớn. Một người hoạt bát và hầu như không một chút phiền não. Có kẻ đã ‘thanh toán’ anh ta cùng cô Le Sueur cưỡi ngựa chung với nhau. Tất cả mọi người trong thị trấn này đều nói rằng họ là một cặp rất đẹp đôi. Đúng vậy. Đó là một phụ nữ tuyệt đẹp. Có lẽ chẳng nên tiếc lời khen đối với một người đẹp như thế, dù cho cô ta có là một người nước ngoài, vâng, dân Canada. A, mà có thể đó là một điều bí ẩn chăng. Cô ta có vẻ buồn. Đúng quá rồi ! Các ngài phải biết là cô ta đã bán hết mọi tài sản và một thân một mình ra nước ngoài, Làm sao mà cô ta chịu đựng nổi khi mà phải ở lại đây với một đám người lúc nào cũng dòm ngó mình, đúng là một phụ nữ đáng thương. À, phải, các ngài có cho đó là một điều bí mật đáng nguyền rủa không ?

Tay đầu bếp bỗng dừng lại, như nhớ ra nhiệm vụ của mình anh ta hấp tấp quay về nhà bếp.

– Một bí mật đán nguyền rủa- Quinn tư lự.

Bên tai Satterthwaite những lời nói của Quinn cứ vang lên, thật khó chịu.

– Liệu ông có muốn làm cho tôi tin rằng ông lại một lần nữa thành công, trong khi cảnh sát đã bó tay không ? Giọng Satterthwaite khô khốc.

Quinn lại nở nụ cười quen thuộc :

– Không thể nào ! Ông biết đấy, thời gian đã trôi qua. Ba tháng rồi còn gì. Vụ này khác hẳn những vụ trước.

– Thì vẫn theo lý thuyết của ông ấy, Satterthwaite nhẹ nhàng, theo đó dễ dàng bỏ qua vào thời điểm xảy ra sự việc.

– Vâng, đúng vậy. Thời gian qua càng lâu thì những tình tiết càng trở nên rõ nét. Và khí đó ta có thể phân biệt rõ ràng hơn các mối quan hệ giữa chúng.

Hai người đàn ông cùng im lặng thật lâu.

– Tôi không chắc là nhớ rõ được từng chi tiết đâu, ông Satterthwaite lưỡng lự.

– Tôi thì lại nghĩ ngược lại- Quinn khẳng định.

Không có lời động viên nào mạnh hơn Quinn lúc này. Thường thì Satterthwaite vẫn giữ vai một khán giả trước mọi buồn vui của cuộc đời, nhưng cứ mỗi lần hợp tác với Quinn thì mọi thứ lại đảo lộn hết cả. Ông buộc phải ra sân khấu trong vai chính, còn Quinn lại là một khán giả tinh quái ngồi sau cánh gà quan sát vai diễn của ông.

– Cách đây hơn một năm, cô Eleanor Le Sueur chính thức trở thành chủ nhân của Ashley Grange. Đó là một toà nhà cổ rất đẹp, song đã bị bỏ hoang từ nhiều năm trước. Cô Le Sueur là người Canada gốc Pháp, tổ tiên ông bà cô ta đã đi cư đến lập nghiệp tại đó và đã để lại cho cô ta đã di cư đến lập nghiệp tại đó và đã để lại cho cô ta một di sản kếch sù với vô số đồ cổ của Pháp. Le Sueur cũng là một nhà sưu tầm chuên săn lùng các tác phẩm nghệ thuật với một gu thẩm mỹ rất tinh tế. Vậy nên sau này khi cô ta quyết định bán lâu đài Ashley Grange cùng bộ sưu tập của mình, một triệu phú người Mỹ tên là Cyrus G. Bradburn đã không ngần ngại rút sau mươi ngàn bảng ra mua lại.

Ông Satterthwaite dừng lại lấu hơi.

– Xin lỗi ông về một loạt những chi tiết lằng nhằng. Chúng hình như chẳng có liên quan gì với vụ việc mà chúng ta đang theo đuổi hết. Nhưng dù sao thì qua đóta cũng hình dung được không gian sống của bà Harwell trẻ tuổi.

Ông Quinn hào hứng gật đầu:

– Không gian sống bao giờ cũng quan trọng.

– Bây giờ tôi sẽ tập trung vào nhân vật nữ- Ông Satterthwaite tiếp tục- Hai mươi ba tuổi, tóc vàng, đẹp, hớn hở, tinh tế và giàu có- ông đừng quên điểm này nhé. Vốn là trẻ mồ côi, song Le Sueur luôn được một bà già tên là Saint- Clair rất hoà nhã và học thức kèm cặp. Có nhiều của cải nên không thiếu những gã đàn ông nhòm ngó tới cô ta. Hàng tá gã trai trẻ không đồng xu dính túi luôn tìm cách ve vãn cô ta bất kỳ lúc nào, trong những buổi đi săn, những đêm khiêu vũ…tóm lại là ở tất cả mọi nơi cô ta đặt chân đến. Trong số đó, lãnh chúa trẻ Leccan, một gã đẹp trai và giàu có hơn hẳn thậm chí đã ngỏ lời cầu hôn với Le Sueur, song cô ta đã từ chối thẳng thừng, cho tới khi đại uý Richard Harwell xuất hiện.

Đại uý Harwell đã thue phòng ở quán trọ này để tiện tham gia mùa săn bắn. Đó là một kỵ sỹ cừ khôi, dễ mến, đẹp trai, và hơn hết là một thợ săn thiện nghệ. Ông có nhớ câu thành ngữ “Hạnh phúc thay những tình yêu không vụ lợi”. Vâng những gì xảy ra giữa Richard Harwell và Eleanor Le Sueur cũng từa tựa như vậy đấy. Chỉ sai hai tháng quen nhau, họ quyết định đính hôn.

Ba tháng sau, hôn lễ được cử hành. Đôi vợ chồng trẻ ra nước ngoài hưởng tuần trăng mật nửa tháng, rồi trở về lâu đài Ashley Grange. Tay đầu bếp khi nãy nói với chúng ta là vào cái đêm họ trở về nhà, trời cũng đổ bão nhu đêm nay. Liệu có phải đó là điềm gở không? Ai mà biết được! Nhưng chỉ biết là sáng hôm sau, quãng bảy rưỡi, người ta làm vườn tên John Mathias đã nhìn thấy đại uý Harwell đi dạo một mình trong công viên. Đầu để trần và miệng huýt sáo. Chẳng có chút gì là lo âu hay buồn phiền hết. Nhưng ngay sau đó, chẳng ai còn nhìn thấy đại uý Richard Harwell nữa, dù còn sống hay đã chết.

Satterthwaite dừng lại như để tăng thêm hiệu quả cho câu chuyện của mình. Ánh nhìn chăm chú của Quinn tự như một sự cổ vũ cho những cố gắng của ông bạn già, và Satterthwaite tiếp tục:

– Vụ mất tích này thật khó mà tin được. Không tìm nổi lý do để giải thích. Chỉ khi cô vợ trẻ lo lắng chạy tới báo cảnh sát, và như ông biết đấy, họ đã không làm sáng tỏ được vụ việc.

– Tôi nghĩ là dù sao họ cũng đã đưa ra một số giả thuyết, Quinn lưỡng lự.

– Ồ, có chứ. Giả thuyết đầu tiên được đưa ra là đại uý Harwell bị ám sát, bị “khử”. Nhưng trong trường hợp đó thì cái xác đâu? Chẳng lẽ nó đã bốc hơi ư? Và hơn nữa, động cơ giết người đâu? Ông phải biết là đại uý Harwell không hề có kẻ thù.

Satterthwaite bỗng dừng lại, có vẻ không chắc chắn vào nhận định của mình. Không bỏ lỡ cơ hội, Quinn vặn:

– Ông có nghĩ tới gã trai trẻ Stephen Grant chưa?

– Rồi- Satterthwaite trả lời- Nếu tôi nhớ không nhầm thì Stephen Grant vốn là người coi ngựa của đại uý Harwell, và gã đã bị ông chủ đuổi việc vì một lỗi nhỏ. Buổi sáng hôm vợ chồng Harwell trở về Ashley Grant, người ta thấy gã lảng vảng ở đó, và gã cũng không giải thích được lý do tại sao lại có mặt tại hiện trường. Cảnh sát đã tạm giữ hắn như là nghi can số một, song cũng chẳng tìm được chứng cứ buộc tội và hắn đã được thả ra. Tôi đồng ý với ông là ta có thể tưởng tượng rằng sau khi bị đuổi việc, gã Stephen nuôi ý định trả thù đại uý Harwell. Nhưng rốt cuộc thì chẳng có động cơ nào rõ ràng cả. Thực tế thì đúng như tôi đã nói với ông, đại uý Harwell không có kẻ thù.

– Đúng hơn là không có kẻ thù lộ mặt- Quinn nhận xét.

Satterthwaite xác nhận:

– Tôi cũng cho là thế. Bởi vì cuối cùng thì ta đã biết gì về Richard Harwell? Khi cảnh sát tiến hành dựng phả hệ của nạn nhân thì mới tá hoả là chẳng có chút thông tin nào về đại uý Harwell cả. Richard Harwell là ai? Anh ta có thể đi đâu được chứ? Người ta có cảm giác là vào một ngày đẹp trời, anh ta đã biến mất vào thinh không. Đó là một kỵ sỹ tài ba, và có vẻ là người khá giả. Không một ai ở Kirlington có ý định tìm hiểu kỹ hơn. Cô Le Sueur không có cha mẹ, cũng chẳng có người đỡ đầu để mà quan tâm đến việc tìm hiểu kỹ lưỡng danh tính của người chông mới cưới, có thể cô ta chỉ hỏi han qua loa. Và do đó cảnh sát cũng chỉ đi theo những giả thuyết cũ cho rằng Richard Harwell là người giàu có, bằng không thì hắn là một tên đại bịp. Thế thôi!

Nhưng giả thuyết thứ hai cũng khó thuyết phục nếu uy nghĩ theo lối thông thường. Đúng là cô Le Sueur không có cha mẹ và người giám hộ, nhưng ở Luân Đôn cô ta có một luật sư giỏi sẵn sàng đại diện cho quyền lợi của mình. Và thái độ của đôi vợ chồng này cũng làm phức tạp hơn vụ việc. Lúc đầu, Eleanor hy vọng sẽ chuyển quyền sử dụng một phần tài sản của mình cho chồng, song anh ta đã từ chối, bảo rằng mình cũng đang sở hữu một gia sản không nhỏ. Và đại uý Harwell đã chứng tỏ rằng mình không hề động đến một xu của vợ.

Vậy nên đây không phải là một tên bợm tầm thường, nhưng cũng có thể anh ta có những mánh khoé riêng. Người ta có thể tưởng tượng rằng anh ta dùng mánh đó để doạ vợi mình nếu một ngày nào đó cô ta quyết định cưới người đàn ông khác. Tôi cứ nghĩ anh ta là dạng người như thế, cho đến buổi tối hôm nay.

Quinn hấp tấp hỏi lại:

– Cho đến tối hôm nay?

– Vâng, cho đến tận tối nay. Bởi vì bây giờ tôi không còn tin vào giả thuyết của mình nữa. Thật quái quỷ làm sao khi anh ta có thể hoàn toàn bốc hơi một cách nhanh chóngvào đúng thời điểm mà tất thảy nông dân đang hối hả ra đồng? Mà đầu thì để trần/

– Ông cho là điểm cuối cùng này có gì nghi vấn chăng- nhưng có chắc là người làm vườn đã thực sự nhìn thấy anh ta hay không?

– Rõ ràng …gã làm vườn…John Mathias. Tôi tưj hỏi liệu có nên tập trung một chút vào nhân vật này không?

– Cảnh sát đã kiểm tra lại lời khai của gã này chứ?

– Vâng, họ đã hỏi khá lâu. Không có mâu thuẫn trong lời khai của hắn ta, và vợ hắn cũng xác nhận. Hắn ra khỏi nhà lúc bảy giờ sáng để tới nhà kho làm việc. Từ nhà lão tới đó mất khoảng bốn mươi phút. Còn ở lâu đài, đám gia nhận nghe thấy tiếng khép của ra vào lúc bảy giờ mười lăm, chính là thười điểm mà đại uý Harwell rời khỏ nhà. Nhưng tôi biết là ông đang nghĩ gì.

– Thế à!

– Vâng, Mathias có thể dư thời gian để giết ông chủ của mình. Nhưng tại sao, ông bạn của tôi, tại sao chứ? Vả lại hắn sẽ giấu cái xác ở đâu?

Viên đầu bếp trở lại với một chiếc khay.

– Xin lỗi vì các ngài đã phải đợi lâu.

Nói rồi ông ra bày ra bàn một tảng bít tết to tướng kèm theo một đĩa khoai tây chiên giòn tan. Mùi vị của chúng làm điếc cả mũi ông Satterthwaite.

– Thật tuyệt vời- Satterthwaite nhã nhặn- Chúng tôi đang tranh luận với nhau về vụ mất tích của đại uý Harwell. Theo anh thì người làm vườn, cái gã Mathias ấy là người thế nào?

– Mathias đã từng làm công ở Essex. Nhưng tôi nghĩ là chẳng có gì hay ho ở cái chỗ chết tiệt ấy cả. Hắn cũng chẳng có lý do gì mà quanh quẩn ở đó.

Ông Satterthwaite xiên một lát bít tết, Quinn cũng máy móc làm theo. Gã đầu bếp đích thực là một kẻ “ buôn chuyện”, nhưng ông Satterthwaite chẳng thấy khó chịu.

– Vâng, nhưng tôi muốn hỏi lão Mathias là loại người gì cơ?

– Tầm trung niên. Hồi đó hắn ta còn to béo lắm, nhưng bây giờ thì hắn oằn người vì thấp khớp. Chính vì vậy mà hắn chỉ nằm suốt ngày trên giường, có khi chẳng còn làm việc được nữa. Theo ý tôi thì cô Eleanor giữ lão lại vì tình thương, mà cô áy cũng dễ thương lắm cơ, bởi vì lão còn làm gì ngoài vườn tược được mấy. Thế cho nên vợ lão mới phải nai lưng làm việc nhà. Bà ta là đầu bếp mà, chẳng nề hà việc gì hết.

– – À, còn bà này, vợ lão làm vườn ấy, thì sao?- Ông Satterthwaite hỏi tiếp, rõ ràng là thích nói chuyện hơn là những món ăn hấp hẫn trên bàn.

Nhưg câu trả lời của viên đầu bếp làm ông thất vọng.

– Cũng như mọi người cả thôi, đứng tuổi, cau có, hơn nữa còn điếc đặc. Các ngài phải nhớ là tôi chẳng biết gì mấy về đám này đâu. Họ mới tới đây một tháng trước khi vụ việc xảy ra. Nhưng riêng về Mathias thì mọi người vẫn khen rằng lão tưng là một người làm vườn nổi tiếng. Cô Eleanor cũng thường xác nhận điều này.

– Cô ta thích làm vườn chứ?- Quinn nhẹ nhàng hỏi.

– Không, thưa ngài, không thể nói như vậy. Cô ấy không giống như phần lớn mấy mụ đàn bà ở đây chỉ suốt ngày lê la trên đất cát và quanh quẩn với những việc không tên ngoài vườn. Tôi thấy như vậy thật ngu ngốc. Không, các ngài ạ, cô Le Sueur không mấy khi tới đây. Trừ mùa đông để đi săn. Thời gian còn lại cô ấy sống ở Luân Đôn hoặc ra ngươc sngoài, ở những biệt thự xa hoa, nơi mà như người ta hay nói với tôi là dân Pháp thậm chí chẳng hề dí một ngón chân xuống nước vì sợ hỏng từ… đồ lót.

Ông Satterthwaite cười.

– Thế còn đại uý Harwell? Chẳng lẽ anh ta không dính líu vào chuyện …đàn bà sao?

Đáng lẽ Satterthwaite phải từ bỏ giả thuyết này ngay từ đầu, ông không nghĩ là mình lại có thể đặt ra câu hỏi như vậy. Gã đầu bếp phản đối ngay lập tức:

– Không bao giừo. Không, tôi đã nói với các ngài đây là một bí ẩn khủng khiếp rồi mà.

– Thế anh nghĩ gì về vụ này?

– Tôi nghĩ gì ư?

– Vâng?

– Cũng chẳng có gì hết. Vâng, tôi nghĩ chắc chắn là anh ta bị giết. Nhưng kẻ nào đã ra tay thì có trời mà biêt được. Tôi sẽ mang pho mát đến cho các ngài.

Nói đoạn, gã đầu bếp quầy quả bước thấp bước cao ra khỏi phòng. Cơn bão tưởng chừng đã dịu lại bỗng trở nên dữ dội hơn. Những tia chớp loằng ngoằng, kem theo tiếng sấm ầm ầm, khiến ông lão bé nhỏ Satterthwaite cứ giật mình thon thót. Rồi trong tiếng nổ ấy, bất thần, một cô gái trẻ hiện lên trước cửa với khay pho mát trên tay.

Cao lớn, tóc hung, tren gương mặt đẹp phảng phất vẻ u buồn, cô gái nom giống hệt ông chủ quán trọ Bells and Montley khiến có thể đóan ngay họ là hai cha con.

– Chào Marry. Quả là một đêm bão bùng đáng nhớ- Quinn nói.

– Tôi ghét những đêm như thế này- Cô gái thầm thì.

– Cô sợ sấm phải không ?- Satterthwaite nhẹ nhàng hỏi.

– Sợ sấm ư ?Ồ không phải vậy. Tôi chẳng sợ cái gì hết. Nhưng cứ mỗi khi bão đến thì mọi thứ lại bắt đầu. Và ta lại nói chuyện với ngươi, và ta lại nói chuyện với ngươi, cứ lặp đi lặp lại, như một lũ vẹt vậy. Và bố tôi lại lẩm bẩm ‘Nó làm tôi nhớ lại, vâng, cái đêm mà đại uý Harwell đáng thương…’. Cứ huyên thuyên thế suốt.

Cô gái quay về phía ông Quinn.

– Ngài đã từng nghe chưa ? Có nghĩa lý gì chứ. cứ lảm nhảm suốt ? Người ta không thể để quá khứ ngủ yên hay sao ?

– Quá khứ sẽ chỉ còn là quá khứ một khi người ta đoạn tuyệt với nó- Quinn nhận xét.

– Ông muốn nói là người ta không thể đoạn tuyệt với quá khứ ư ? Và rằng đơn giản là ông ấy muốn biến mất trong cõi thinh không ? Ông ấy không phải là người đầu tiên trong số những quý ông hào hoa làm như vậy đâu.

– Cô tin là anh ta tự biến mất ư ?

– Tại sao không nào ? Thế còn hơn là đi tin rằng một chàng trai dễ thương nhu Stephen Grant có thể giết chết ông ta. Tôi cứ tự hỏi rằng vì lẽ gì mà anh ấy phải giết ông ta chứ ? Đồng ý là anh ấy đã từng uống say và nói vài lời ngu ngốc với ông đại uý, sau đó bị ông ta đuổi việc. Nhưng anh ấy đã tìm được một chỗ làm mới còn tốt hơn ấy chứ. Vả lại cũng chẳng có lý do gì mà phải giết người máu lạnh như thế.

– Cảnh sát cũng khẳng định là anh ta vô tội- Satterthwaite nói.

– Cảnh sát ư ? cho tôi xin lỗi đi ! Mỗi khi Stephen bước vào quán rượu cũng có kẻ tình mò đằng sau. Họ không thực sự tin rằng anh ấy giết Harwell, nhưng cũng không dám khẳng định là anh ấy vô tội. nên họ cứ theo dõi anh ấy, và khi bị phát hiện thì lại lỉnh đi. Đó không phải là cuộc sống của một con người. Các ngài cứ thử nghĩ mà xem, khi mà lúc nào cũng có người kè kè bên cạnh như thể mình là một con vật hoang vậy. Và tại sao bố tôi lại không chấp nhận đám cưới giữa tôi và Stephen. ‘Con nên đặt những quả trứng của mình vào một cái giỏ chắc chắn hơn, con gái ạ. Bố không ghét bỏ gì Stephen cả, thậm chí còn có thiện cảm nữa, nhưng con thấy đấy, chúng ta đều chưa biết rõ về cậu ta, phải không nào.. ?’

Cô gái dừng lại. Cơn giận làm tim cô đập thình thịch trong lồng ngực. Và cô tiếp tục :

– Thật độc ác. Stephen thậm chí không dám làm đau cả một con muỗi. Nhưng rồi bi giờ lúc nào anh ấy cũng phải sống trong cảnh bị người khác nghi ngờ là kẻ giết người. Anh ấy trở nên cáu bẳn, tôi biết mà. Và Stephen càng tỏ ra như thế thì mọi người lại càng nghĩ rằng anh ấy đang che dấu điều gì đó.

– Không thể làm gì được sao ?- Satterthwaite ân cần.

Lòng trắc ẩn trong ông lại trỗi dậy. Song điều hiển nhiên là dù những nghi ngờ đối với Stephen có mỏng manh và hão huyền đến đâu chăng nữa thì anh ta cũng không ngăn được những lời buộc tội về anh ta, bởi vì anh ta có động cơ giết người.

Cô gái quay về phía ông :

– Chỉ có sự thật mới có thể giúp được anh ấy. Chỉ khi nào người ta tìm thấy đại uý Harwell, hoặc ông ấy tự trở về. Nếu như người ta biết được rốt cuộc điều gì đã xảy ra…

Cô gái nức nở chạy ra khỏi phòng.

– Một cô gái dễ thương- Satterthwaite lên tiếng- Hẳn là cô ấy buông lắm. Tôi muốn…Giá mà tôi có thể làm điều gì đó giúp cô bé.

– Nhưng chúng ta đã làm tất cả những gì có thể- Quinn nói- và lại, cũng chỉ còn vẻn vẹn nửa tiếng nữa là xe ông sửa xong. Ông Satterthwaite nhìn bạn, nghi ngờ »

– Ông tin là chúng ta có thể khám phá ra sự thật trong khi cứ ngồi tranh luận không với nhau thế này sao ?

– Ông có một vốn sống vô cùng phong phú- Quinn chậm rãi trả lời. Hơn hẳn mọi người.

Satterthwaite cay đắng :

– Ồ ! Nhưng tôi đã sống được mấy dâu !

– Tầm nhìn của ông rất sắc sảo. Ông nhìn thấy mọi chuyện trong khi những người khác chẳng hơn gì kẻ mù.

– Đúng vậy- Satterthwaite giả bộ vênh váo- Tôi là nhà quan sát vĩ đại.

Nhưng nỗi cay đắng trong ông vẫn còn đấy. Sau vài phút im lặng, ông tiếp :

– Lý thuyết của tôi là thế này : để nắm bắt được nguyên nhân của một hiện tượng, cần phải nghiên cứu những hiệu ứng.

– Đúng thế- Quinn hưởng ứng.

– Trong trường hợp này, hiệu ứng là cô Le Sueur, tôi muốn nói tới bà Harwell, và hiện giờ vẫn còn là một phụ nữ đã có chồng. Cô ta không còn son…Cô ta không thể tái hôn nữa. Mặt khác, nếu ông để ý kỹ thì sẽ thấy Richard Harwell là một nhân vật phức tạp, một người đàn ông có quá khứ bí ẩn, một con người hiện đang tồn tại giữa thinh không.

– Tôi cũng hiểu điều đó- Quinn nói- Nhưng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy ở đây tất cả những gì phải nhìn, những gì không thoát khỏi tầm mắt của chúng ta. Sự thực thì đến bây giờ, tôi cũng cảm nhận đại uý Richard Harwell là một nhận vật ám muội.

Ánh nhìn của Quinn đầy vẻ nghi ngờ. Ở một khía cạnh nào đó, những lời của Quinn như một mệnh lệnh bắt buộc Satterthwaite phải suy nghĩ khác đi :

– Vậy là chúng ta đã nghiên cứư về những hiệu ứng- Satterthwaite nói – Hay nói khác đi là những gì mà tôi gọi là kết quả. Và bây giờ, hãy thử…

– Nhưng ông vẫn chưa đề cập tới những kết quả mang tính ‘vật chất’, Quinn gợi ý.

Ông Satterthwaite đồng ý sau một giây suy nghĩ.

– Ông nói có lý. Cần phải đi tới tận cùng mọi hiện tượng. Để tóm gọn lại, có thể nói như vậy : Kết quả của tấn thảm kịch này là bà Harwell vẫn còn là một mệnh phụ đã có chồng và không có khả năng tái hôn ; và rằng ngài Cyrus G. Bradburn đã có thể tậu được lâu đài Ashley Grange và bộ sư tập đồ cổ của chủ nhân với giá…hình như là sáu mươi ngàn bảng, phải không ông ?… ; và rằng ai đó, từ Essex, đã mướn John Mahias về làm vườn. Ông có thấy vẻ gì đó mờ ám trong cụm từ « ai đó ở Essex » cũng như « nhân vật Cyrus G Bradburn ». Liệu có phải là một sự sắp đặt cho việc đại uý Harwell biến mất hay không ?

– Có vẻ nhu ông đang mỉa mai- Quinn nói

Ông Satterthwaite ném cho đối phương cái nhìn sắc lẹm :

– Nhưng ông chẳng từng đồng ý là gì…

– Dẫu vậy- Quinn chặn lại- Nhưng mà giả thuyết này có vẻ kỳ cục sao ấy. Liệu chúng ta có gì khác không ?

– Hãy thử tưởng tượng rằng chúng ta có mặt vào cái ngày tiền định ấy. Hai chúng ta đều biết rằng vụ mất tích xảy ra vào buổi sáng.

– Không, không- Quinn cười- Cần phải sắp xếp theo kiểu khác để tưởng tượng của chúng ta có hiệu quả hơn. Hay quyết định thế này, cứ xem là vụ mất tích của đại uý Harwell đã trôi qua hàng trăm năm rồi. Bây giờ là năm 2025 và chúng ra đang ngồi chiêm nghiệm lại quá khứ.

– Ông quả là một người kỳ lạ- Satterthwaite ngạc nhiên- Ông luôn tin vào quá khứ mà không phải là hiện thực trước mắt. Tại sao vậy ?

– Ông chẳng vừa nói với tôi từ « không gian » là gì. Ở hiện tại, làm sao chúng ta có thể cảm nhận được « không gian » ?..

– Thật chí lý- Satterthwaite nhượng bộ- Vâng, đúng thế. Hiện tại thường tỏ ra rất…quê mùa.

– Ồ, từ ngữ của ông mới thú vị làm sao- Quinn tán thưởng.

– Cảm ơn ông- Satterthwaite trả lời, hai tay vòng lại vẻ cung kính.

Nhưng Quinn nhanh chóng kéo ông Satterthwaite trở về với vấn đề trước mắt.

– Thế này nhé…nếu như lấy năm 2025 làm mốc cũng không ổn, thử lùi lại hơn một năm xem. Ông hãy tóm tắt những đặc trưng cơ bản của một trăm năm trước bằng khả năng cô đọng thiên tài của mình xem nào !

Ông Satterthwaite im lặng suy nghĩ. Sau một hồi, ông lên tiếng.

– Đã một trăm năm trôi qua, đó là năm của bột gạo và những loài ruồi. Vâng! Năm 1924 còn có thể coi là năm của trò chơi ô chữ và của lũ trộm chuyên trèo tường.

– Rất tuyệt- Quinn nhận xét. Nhưng ông có thể tập trung nói về đất nước này mà không phải là một nơi nào khác không ?

– Về trò chơi ô chữ thì phải thú thật là tôi chẳng biết gì mấy. Nhưng về lũ trộm trèo tường thì tôi rành lắm. Ông có nhớ một loạt nhữngvụ trộm không thể tưởng tượng nổi tại các lâu đài ở Pháp không ? Người ta vẫn phán đoán là chỉ duy nhất một tên có thể thực hiện liên tiếp các vụ đột nhập kinh thiên động địa đó. Bọn trộm thực hiện ngoạn mục những cú khoét ngạch với một khả năng kỳ lạ. Cảnh sát cũng tựng nghi ngờ một nhóm trộm « thiên tài »…Nhà Clondinis. Tôi đã có lần đọc qua về lũ này… Vô cùng ấn tượng. Nhóm này gồm mẹ và hai đứa con, một gái một trai. Chúng khuân đi hàng đống của cải một cách hết sức bí hiểm. Nhưmà thôi những chuyện này chẳng ăn nhập gì với vấn đ mà chúng ta đang bàn luận.

– Vâng- Quinn trả lời- song cũng không đến nỗi đưa chúng ta đi quá xa đâu. Cùng lắm cũng chỉ đến bên kia eo biển Manche thôi mà.

– Nơi mà những quý bà Pháp không thèm nhúng ngón chân xuống nước, nhu tay đầu bếp hay chuyện lúc nãy từng nói phải không- Satterthwaite cười.

Vài phút im lặng trôi qua, không khí bỗng trở nên nặng nề.

– Nhưng tại sao anh ta biến mất !- Satterthwaite tiếp tục câu chuyện- Tại sao ? Tại sao ? Thật không thể nào tin được ! Cứ như một trò ảo thuật vậy.

– Có khi là thế- Quinn nói- Một trò ảo thuật. Có lẽ bí ẩn nằm ở đó. Chúng ta bắt đầu xâm nhập được vào « không gian » rồi. Và nói một cách chính xác nhất thì ý nghĩa của một trò ảo thuật là gì ?

– Đôi tay khéo léo của nhà ảo thuật tạo ra ảo giác cho khán giả, đó chính là bí quyết. Ông Satterthwaite đưa ra nhận định.

– Chính xác là như vậy. Ảo giác. Nó thường được tạo ra từ sự khéo léo của đôi tay, nhưng đôi khi là nhờ những phương tiện khác. Có rất nhiề mánh khoé. Ảo thuật gia có thể bắn một phát súng lục, hay vẫy một chiếc khăn mùi xoa đỏ, rốt cuộc là tạo ra một thứ gì đó mà công chúng tưởng là thật, song thực tế lại không phải như vậy. Người ta nhìn những gì gây ấn tượng mạnh- và những gì lý thú- và người ta quên mất phải nhìn những gì quan trọng- những gì ẩn giấu sau đó.

Ông Satterthwaite chúi người về phía trước, mắt mở to.

– Sự thật được ẩn giấu bên trong, phải vậy không ?

Thấy đối phương không trả lời, ông tiếp, giọng tư lự :

– Một « phát súng lục », Nhưng « phát súng » dó nằm ở thời điểm nào trong trò ảo thuật này ? Đâu là « hành động » gây ấn tượng mạn làm đảo lộn trí tưởng tượng của chúng ta.

Satterthwaite dừng lại lấy hơi rồi tiếp tục :

– Sự biến mất. Hãy tập trung vào yếu tố này. Liệu đây có phải là một hành động ảo thuật không ?

– Vậy ư ? Ông cho rằng sự việc xảy ra hoàn toàn không phải là điều thương tâm như mọi người lầm tưởng, mà chỉ là một “phương tiện” thôi sao?

– Không thể nói như vậy được… Ông cho rằng việc cô Le Sueur bán lâu đài Ashley Grange trong hoàn cảnh đó và bỏ đi lại không có lý do ư?

– Ông nghĩ sao?

– Nghĩ sao ư? Có chứ. Đây là một hành động rất hớ hênh, tôi cho là vậy. Và người ta chắc đã hỏi rất nhiều về giá trị của bộ sưu tập. Nhưng…đợi đã nào…

Satterthwaite dừng lại một lát, rồi bông tuôn ra ào ào:

– Ông hoaà toàn có lý. Người ta đã quá chăm chú hướng đèn chiếu về phía đại uý Harwell. Trong khi cô ta thì lại ung dung trong bóng tối. Cô Le Sueur! Tất cả chúng ta đều quan tâm: “ vậy thì đại uý Harwell thực chất là ai ? Anh ta đến từ nơi nào ? », nhưng không một ai đặt nghi vấn lên cô ta, bởi vì cô ta đường đường là… nạn nhân. Liệu cô ta có đúng là một người Canada gốc Pháp ? Liệu cô ta có thự sự thừa kế bộ sưu tập giá trị đó không ? Ông đã đúng khi nói rằng chúng ra không đi quá xa vấn đề. Chỉ đến bên kia eo biển Manche. Những vật sưu tập được mạo nhận thực chất chỉ là chiến lợi phẩm thu được từ các cụ trộm tại những lâu dài ở Pháp, mà trong đó chủ yếu là các tác phẩm nghệ thuật giá trị, và do đó rất khó tiêu thụ, trên thực tế, ả ta đã mua ngôi nhà chẳng phải với mục đích để ở. Ả dọn tới đó, rồi ả bỏ một khoản tièn lớn để thuê một bà người Anh không chê vào đâu được làm người hộ tống ả cho ra vẻ quyền quý. Sau đó thì hắn đến. Tất cả đều là mưu mô chuẩn bị từ trước. Lễ cưới, vụ mất tích và những sự kiện ý nghĩa khác. Có điều gì tự nhiên hơn việc một người đàn bà trẻ mệt mỏi vì đau khổ muốn bán đi tất cả những gì có thể gợi cho mình nỗi tiếc thương vê niềm hạnh phúc đã mất ? Ngài quý tộc người Mỹ kia đich thực là một tay mơ, chỉ biết rằng những vật kia là thật và rất giá trị, nhiều thứ thậm chí là vô giá. Vậy là ông ta đề nghị mua lại và ả ta chấp thuận. Rồi ả rời khỏ nơi tang thương trong vai nhân vạt chính của tấn thảm kịch. Âm mưu đã bước đầu được hoàn tất. Công chúng té ra chỉ tập trung vào đôi bàn tay khéo léo và sản phẩm của ngón nghề ảo thuật.

Ông Satterthwaite dừng lại, mạt nhuốm đỏ niềm kiêu hãnh chiến thắng.

– Nếu không có ông thì sẽ không bao giờ tôi hiểu được- Satterthwaite nói tiếp giọng xúc động- Ở ông tôi tìm thấy một hiệu ứng thật kỳ lạ. Người ta thường chú ý đén sự việc mà chẳng cần biết chúng muốn nói lên sự thật gì. Ông thật khéo tay khi hướng mọi người đi đúng đường. Nhưng vẫn còn một điểm bí ẩn. Harwell chắc chắn đã rất vất vả để có thể « biến mất ». Sau vụ mất tích, tất cả cảnh sát Anh đã nhảy vào cuộc để tìm kiếm. Thực tế thì đơngiản nhất là trốn ngay tại lâu đài Ashley Grange, nếu như hắn biết tự xoay xở.

– Tôi nghĩ là hắn không thể nào trốn xa lâu đài Ashle Grange được- Quinn nhận định.

– Nhà của Mathias, ông muốn nói như vậy đúng không ? Ông Satterthwaite hỏi.

– Nhưng cảnh sát chắc đã lục tung chỗ này lên rồi.

– Nhiều lần nữa là khác, tôi nghĩ vậy- Quinn trả lời.

– Thế thì gã Mathias này…-ông Satterthwaite nhíu mày.

– Và cả bà Mahias nữa- Quinn tiếp.

Satterthwaite ngước nhìn ông bạn :

– Chúng đúng là nhóm trộm Clodinis. Nhóm trộm này có ba tên. Hai đứa con đóng vai Harwell và Eleanor Le Sueur. Nhưng còn mẹ chúng ? Chính là bà Mathias ư ? Trong trường hợp này…

– Mathias có phải là bị thấp khớp nặng không ?

Quinn tiếp tục đóng vai một người vô can chẳng biết gì.

– Đúng rồi !- Ông Satterthwaite kêu lên- Tôi biết rồi. Tôi tin là mình có thể diễn đạt được. Ông nghe nhé. Mathias ở đó một tháng. Trong thời gian này, Harwell và Eleanor đã bỏ ra mười lăm ngày để thực hiện cái gọi là tuần trăng mật, họ cùng nhau ở Luân Đôn. Đúng một tháng cho Mathias kịp hiện diện ở lâu đài Ashley Grange. Có nghĩa là Harwell không đi đâu hết. Một người có năng khiếu có thể đón tốt cả hai vai Harwell và Mathias. Và khi Harwell « tới » Kirlington Mallet thì Mathias đã kịp thời “bị” thấp khớp nặng và phải « đóng đinh » trên giường. Sự hiện diện của « bà Mathias » cũng là dối trá. Vai « bà Mathias » là không thể thiếu vì nếu không có nhân vật này thì lấy ai để đưa ra chứng cớ về việc Mathias nằm liệt giường ? Ông nói đúng. Harwell không trốn trong nhà của Mathias. Mà hắn là Mathias. Sau khi dựng xong kịch bản về hai vợ chồng « nhà Mathias ». Le Sueur loan tin rằng tìm thấy chúng ở Essex. Sự thật thì chúng chẳng hề đi đâu hết…

Có tiếng gõ cửa và Masters rụt rè bước vào phòng :

– Xe của ngài đang đợi sẵn ở ngoài rồi ạ.

Ông Satterthwaite đứng dậy, cùng lúc, Quinn cũng bước tới cửa sổ và vén tấm ri đô lên.

– Bão đã tan- Quinn nói.

Satterthwaite mang găng tay vào:

– Tuần tới tôi có hẹn ăn tối với cảnh sát trưởng hạt Yard. Tôi sẽ nói với ông ta về phán đoán của mình.

– Thực ra muốn kiểm tra cũng không khó lắm. Chỉ cần so sánh catalogue bộ sưu tập của Eleanor Le Sueur với danh sách số vật quý đã bị lấy cắp mà cảnh sát Pháp đang lưu giữ là ra ngay thôi mà.

– Đúng rồi- Satterthwaite nói- Thế thì không may cho quý ngài Bradburn rồi. Nhưng…

– Tôi tin là ông ta đủ giàu để có thể chịu nổi sự mất mát nhường ấy- Quinn tiếp lời.

Ông Satterthwaite bắt tay người bạn:

– Tạm biệt- Tôi không biết phải nói với ông như thế nào để diễn tả sự cảm kích về cuộc gặp ngẫu nhiên này. Ngày mai ông lại ra đi, phải không?

– Có thể là ngay tối nay. Nhiệm vụ của tôi ở đây đã kết thúc. Ông biết rồi đấy, tôi chỉ là một vị khách kỳ cục ghé qua đây thôi mà.

Ông Satterthwaite bỗng nhớ lại chính xác những từ đã từng được nghe trong buổi tối nay. Thật kỳ lạ. Ông rời khỏi phòng trọ để ra xe, ông lại nghe thấy giọng người đầu bếp hay chuyện:

– Một bí ẩn khủng khiếp- Anh ta nói. Vâng, một bí ẩn khủng khiếp.

Thực tế thì anh ta cũng phải thay từ “khủng khiếp” bằng một từ gì đó nghe có vẻ bớt bi kịch hơn. Vì sự thật thì chẳng có thấn thảm kịch nào xảy ra ở khu ngoại vi buồn tẻ này hết. Ông chủ quán và gã đầu bếp hay chuyện quả rõ khéo khi trầm trọng hoá vấn đề hù doạ những khách trọ đến đây. Chẳng gì khác hơn ngoài một vụ lừa đảo siêu hạng.

Ông Satterthwaite duỗi dài trong chiếc xe Limousine tiện nghi. Khom người lên phía trước để nhìn lại một lần nữa quán trọ, ông vẫn còn kịp thoáng thấy cô gái trẻ Mary đang bước xuống bậc thềm, trên đầu là chiếc biển hiệu đang kêu kèn kẹt.

– Giá như chỉ mình cô bé biết- Ông thì thầm- Nếu chỉ mình cô bé này biết những gì ta sắp làm cho cô…

Chiếc biển hiệu mang dòng chữ Belles and Motley vẫn đung đưa nhè nhẹ trong gió.

Bình luận
× sticky