TRÊN VÙNG CAO NHẤT CỦA TARIFA CÓ MỘT PHÁO ĐÀI, XÂY DỰNG BỞI NHỮNG NGƯỜI MA-RỐC. Từ đỉnh của tường thành, một người có thể thấy thoáng hiện Phi Châu. Melchizedek, vua của Salem, ngồi trên tường của của pháo đài chiều hôm ấy, và cảm nhận gió đông Địa Trung Hải thổi vào mặt. Những con cừu bồn chồn gần đấy, không thoải mái với người chủ mới của chúng và sợ hải bởi sự thay đổi quá nhiều. Tất cả chúng muốn là thức ăn và nước uống.
Melchizedek nhìn một chiếc thuyền nhỏ đang rẻ sóng hướng ra ngoài bến cảng. Ông ta sẽ không bao giờ thấy lại chàng trai, chỉ như ông ta chẳng bao giờ thấy lại Abraham một lần nữa sau khi đã nhận thù lao một phần mười. Đấy là việc làm của ông.
Những vị thần không nên có những khát vọng, bởi vì họ không có “huyền thoại cá nhân” Nhưng vị vua của Salem hy vọng chân thành rằng chàng trai sẽ thành công.
Thật là tệ rằng chàng trai sẽ quên tên ta một cách nhanh chóng, ông nghĩ. Ông nên lập lại cho chàng trai. Và thì khi nói về ta, cậu ta sẽ nói rằng Ta là Melchizedek, vua của Salem.
Ông ta nhìn lên bầu trời, cảm thấy một ít bối rối, và nói, “Ta biết nó hư ảo của những hư ảo, như ngài đã nói, Đấng Hoá của tôi. Nhưng một vị vua già đôi khi cũng có một ít tự hào của ông ta”.
°
PHI CHÂU LẠ NHƯ THẾ NÀO NHĨ, CHÀNG TRAI NGHĨ.
Chàng đang ngồi trong một quán rượu giống như bất cứ một quán rượu nào khác ở trên những con đường hẹp của Tarigier. Một số người đàn ông đang hút thuốc bằng một ống vố to tướng và chuyền từ người này sang người khác. Chỉ trong vài giờ chàng thấy nhưng người đàn ông đi bộ tay trong tay, những người đàn bà với những mạng che mặt, và những tu sĩ trèo lên những ngọn tháp và ca ngâm những bài kinh – như mọi người rải rác chung quanh chàng quỳ xuống trên đầu gối và đặt trán họ sát đất.
“Một sự thực hành ngoại đạo,” chàng nói với chính mình. Khi còn bé, chàng luôn luôn nhìn bức tượng thánh Santiago Matamoro từ trên con ngựa trằng của chàng, gươm Ngài vung ra khỏi võ, và những hình ảnh của những người này như quỳ gối dưới chân của Ngài. Chàng cảm thấy rùng mình và khiếp đảm với chính mình. Những người ngoại đạo có những ma quỷ quanh họ.
Bên cạnh ấy, trong sự nóng bỏng của cuộc du hành của mình chàng đã quên một điều, chỉ một điều thôi, điều có thể giữ chàng với kho tàng của chàng trong một thời gian dài: người ta chỉ nói tiếng Ả Rập ở xứ sở này.
Người chủ quán tiến về phía chàng, và chàng trai chỉ một loại thức uồng đã được phục vụ cho bàn bên cạnh. Thì ra đó là trà đắng. Chàng trai muốn rượu vang.
Nhưng chàng không cần phải lo lắng về thứ đó bây giờ. Điều chàng quan tâm là kho tàng của chàng, và chàng phải làm thế nào để tìm được nó. Bán đàn cừu cho chàng có đủ tiền trong túi, và chàng biết rằng trong tiền có phép lạ; ai có tiền thật sự chẳng bao giờ cô đơn. Chẳng bao lâu nữa, có thể chỉ trong vài ngày, chàng sẽ ở tại những những Kim Tự Tháp. Một ông lão, với một tấm giáp ngực bằng vàng ròng, chẳng lừa dối để được sáu con cừu.
Ông lão đã nói về những dấu hiệu và những điềm chỉ dẫn, và, khi chàng trai lướt qua eo biển, chàng nghĩ về những điềm chỉ dẫn. Vâng, ông lão đã biết ông ta nói những gì: trong thời gian trên những cánh đồng của Andalusia, chàng đã trở nên thành thạo với việc học hỏi nên chọn con đường nào bằng việc xem sét mặt đất và bầu trời. Chàng khám phá ra rằng sự hiện diện của một con chim nào đấy có nghĩa là có một con rắn ở gần đấy, và với một bụi cây nào đó là dấu hiệu có nước ở trong vùng. Đàn cừu đã dạy cho chàng những việc ấy.
Nếu Tạo Hóa đã hướng dẫn đàn cừu quá tốt, Ngài cũng sẽ hưởng dẫn một người tốt đẹp như thế, chàng nghĩ như thế, và điều ấy đã làm chàng cảm thấy sảng khoái hơn. Trà dường như bớt đắng hơn.
“Cậu là ai?” chàng nghe một giọng hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha.
Chàng cảm thấy an tâm. Chàng đang nghĩ về những điềm lành, và ai đấy đã xuất hiện.
“Tại sao cậu nói tiếng Tây Ban Nha?” chàng trai hỏi. Người mới đến là một chàng trai trẻ trong y phục Tây phương, nhưng nhìn làn da của hắn có thể đoán là y ở thành phố này. Y cũng khoảng tuổi và chiều cao như Santiago.
“Hầu hết mọi người ở đây nói tiếng Tây Ban Nha. Chúng ta chỉ cách Tây Ban Nha hai giờ đồng hồ thôi.
“Ngồi xuống đi, và để tôi đãi cậu một thứ gì ấy,” Santiago, chàng trai đến từ Tây Ban Nha nói. “Và gọi cho mình một ly rượu vang. Mình ghét thứ trà này.”
“Không có rượu vang ở xứ sở này,” cậu trai trẻ mới đến nói. “Tôn giáo ở đây cấm nó.”
Lúc ấy Santiago nói với cậu ta rằng chàng cần đến những Kim Tự Tháp. Chàng gần như bắt đầu nói về kho tàng của chàng, nhưng quyết định không làm như vậy. Nếu thế, có thể những người Ả Rập sẽ muốn một phần của kho tàng như thù lao để đưa chàng đến đấy. Chàng nhớ những gì ông lão đã nói về việc hứa hẹn những gì mình chưa có.
“Mình muốn cậu đưa mình đến đấy, nếu cậu có thể. Mình có thể trả tiền phục vụ cho cậu như một người hướng dẫn đường.”
“Cậu có bất cứ khái niệm gì làm thế nào để đến đấy không?” chàng trai mới đến hỏi.
Santiago chú ý rằng người chủ quán đứng gần bên cạnh, nghe ngóng câu chuyện một cách chăm chú. Chàng cảm thấy không thoải mái với sự hiện diện của ông ấy. Nhưng chàng phải tìm một người dẫn đường,và không muốn mất đi một cơ hội.
“Cậu phải đi xuyên qua cả sa mạc Sahara,” cậu trai trẻ nói. “Và để làm thế, cậu phải có tiền. Tôi cần biết cậu có đủ tiền hay không.”
Santiago nghĩ nó là một câu hỏi lạ kỳ. Nhưng chàng tin tưởng ông lão, người đã nói rằng, khi mình thật sự muốn điều gì, cả vũ trụ luôn chung sức hổ trợ đến thiện ý của mình.
Santiago lấy tiền trong túi và chỉ nó cho cậu trai trẻ. Người chủ quán cũng đi đến và nhìn. Hai người trao đổi vài lời bằng tiếng Ả Rập, và người chủ quán dường như cáu gắt.
“Hãy rời khỏi nơi đây,” cậu trai mới đến nói. “Ông ta muốn chúng ta rời khỏi quán.”
Chàng trai an tâm, đứng dậy trả tiền, nhưng người chủ quán túm chàng lại và nói hàng tràng những lời giận dữ. Chàng trai mạnh mẽ, và muốn trả đủa lại, những chàng đang ở xứ người. Người bạn mới đẩy ông chủ qua một bên và kéo chàng trai ra ngoài với anh ta. “Ông ta muốn tiền của cậu,” cậu trai nói. “Tangier không giống như những nơi khác của Phi Châu. Đây là một bến cảng, và cảng nào cũng có những tên trộm.”
Chàng trai tin tưởng người bạn mới, vừa mới giúp chàng ra khỏi một hoàn cảnh nguy hiểm. Chàng lấy tiền ra và đếm nó.
“Chúng ta có thể đến Kim Tự Tháp vào ngày mai,” cậu trai lấy tiền nói như thế. “Nhưng tôi phải mua hai con lạc đà.”
Họ cùng đi qua những con đường hẹp của Tangier. Khắp nơi là những gian hàng trưng bày những vật dụng để bán. Họ đến trung tâm của khu chợ rộng nơi có những cửa hàng lớn. Hàng nghìn người ở đấy, bàn cải, bán và mua; rau cải được bày bán với những con dao găm, và những tấm thảm trải bên cạnh thuốc hút. Những chàng trai chẳng bao giờ lìa mắt với người bạn mới của chàng. Cuối cùng, cậu ta có toàn bộ số tiền của chàng. Chàng nghĩ về việc yêu cầu cậu ta đưa tiền lại cho chàng, những quyết định rằng như vậy sẽ là kém lịch sự và thân hữu. Chàng chẳng biết gì về những phong tục của vùng đất mới lạ mà chàng vừa đến.
“Mình sẽ luôn nhìn cậu ta,” chàng nghĩ như thế. Chàng biết rằng chàng mạnh mẽ hơn bạn chàng.
Đột nhiên, giữa những tất cả những nghĩ ngợi rối rắm ấy, chàng thấy một thanh gươm tuyệt đẹp mà chàng chưa từng thấy bao giờ. Bao gươm được chạm bạc, và chuôi màu đen khảm đá quý. Chàng trai tự hứa với mình rằng, khi nào trở về từ Ai Cập, chàng sẽ mua thanh gươm ấy.
“Hỏi người chủ gian hàng xem thanh gươm ấy bao nhiêu tiền,” chàng nói với người bạn. Rồi thì chàng nhận thấy ra rằng chàng đã lơ đểnh trong vài khoảnh khắc, nhìn thanh gươm. Tim chàng se lại, khi ngực chàng đột nhiên nặng nề. Chàng sợ hải để phải nhìn chung quanh, vì chàng biết chàng sẽ tìm thấy gì. Chàng tiếp tục nhìn vào thanh gươm tuyệt đẹp một lúc nữa. cho đến khi chàng tập trung hết can đảm và nhìn chung quanh.
Chung quanh chàng là chợ, với người đến và đi, la lối và mua hàng, và mùi hương của những thực phẩm lạ… những không thể tìm thấy đâu người đồng hành mới mẻ của chàng.
Chàng muôn tin rằng người bạn mới tách rời chàng chỉ vì một vấn đề bất đắc dĩ. Chàng quyết định ngồi tại chỗ và chờ cậu trai kia trở lại. Khi chàng chờ đợi, một tu sĩ leo lên một ngôi tháp gần đấy và bắt đầu ca ngâm; mọi người trong chợ quỳ gối xuống, chạm trán của họ trên mặt đất, và cùng ca ngâm những bài kinh. Rồi thì như một đàn kiến, họ thu dọn những gian hàng và rời khỏi chợ.
Mặt trời cũng bắt đầu hành trình của nó. Chàng trai nhìn nó xuyên qua những tia nắng của nó cho đến khi nó biến khuất sau những ngôi nhà trắng chung quanh ngôi chợ. Chàng trai nhớ lại rằng khi mặt trời ló dạng sáng hôm ấy, chàng đã ở một lục địa khác, vẫn là một người chăn cừu với sáu mươi con cừu, và tìm cách để gặp một cô gái. Buổi sáng hôm ấy, chàng đã biết mọi thứ sẽ diễn ra khi chàng đi ngang qua những cánh đồng quen thuộc. Nhưng giờ đây, khi mặt trời bắt đầu khuất bóng, chàng đang ở một xứ sở khác, một người lạ trong một vùng đất lạ, nơi mà chàng không thể ngay cả nói chuyện bằng ngôn ngữ chốn này. Chàng không còn là một người chăn cừu, và không còn gì, ngay cả tiền để trở lại và bắt đầu lại mọi thứ.
Tất cả những việc này xãy ra chỉ giữa thời gian mặt trời mọc và lặn, chàng trai nghĩ như thế. Chàng cảm thấy xót xa cho chàng, và than van cho số phận của đời chàng tại sao có thể thay đổi một cách đột ngột và quá mãnh liệt.
Chàng ta quá xấu hổ và muốn bật khóc. Chàng chưa bao giờ quẹt nước mắt ngay cả trước nhưng con cừu của chàng. Nhưng giữa phố chợ trống trãi, và chàng ở xa lắc xa lơ quê nhà, và chàng đã khóc. Chàng khóc vì Tạo Hoá đã bất công, và bởi vì đây là cách mà Đấng Tạo Hoá đã đền trả cho những ai tin tưởng nơi những giấc mơ của họ.
Khi mình có đàn cừu, mình vui vẻ, và mình làm cho những người chung quanh vui lây. Người ta thấy mình đến và hân hoan chào đón mình, chàng nghĩ như thế. Giờ đây, mình buồn và cô độc. Mình sẽ trở nên cay đắng và không tin tưởng ai cả bởi vì có một người đã bội bạc với mình. Mình sẽ ghét những ai tìm thấy kho tàng của họ vì mình chẳng bao giờ tìm thấy kho tàng của mình. Và mình sẽ giữ lấy những gì dù nhỏ nhoi mà mình có, bởi vì mình thật vô nghĩa và quá tầm thường không thể chinh phục được cả cái thế giới cỏn con của chính mình.
Chàng mở túi ra để xem còn gì trong ấy sở hữu của chàng; có thể có một ít còn lại của miếng bánh mì chàng đã ăn trên thuyền. Nhưng tất cả chàng tìm thấy là quyển sách nặng nề, chiếc áo khoác, và hai viên đá mà ông lão đã cho chàng.
Khi nhìn những viên đá, chàng cảm thấy an tâm hơn vì vài lý do. Chàng đã đổi sáu con cừu để được hai viên đá quý giá đã được lấy ra từ tấm giáp ngực bằng vàng ròng. Chàng có thể bán hai viên đá này và mua chiếc vé trở về. Nhưng lần này mình sẽ thông minh hơn, chàng trai nghĩ như thế, dời chúng từ chiếc túi nhỏ để chàng có thể đặt nó trong túi áo của chàng. Đây là một thành phố cảng, và chỉ có một điều thật sự đúng mà bạn chàng đã nói là bến cảng thì đầy những kẻ trộm.
“Mình giống như mọi người khác – Mình thấy thế giới trong những dạng thức mà mình muốn thấy nó xảy ra, không phải những gì nó thật sự diễn tiến.”
Chàng lần những ngón tay chậm rãi trên những viên đá, cảm nhận nhiệt độ và cảm xúc bề mặt của chúng. Chúng là bảo vật của chàng. Chỉ cầm chúng trong tay chàng đã cảm thấy khá hơn. Chúng nhắc chàng nhớ đến ông lão.
“Khi cậu muốn những gì ấy, cả vũ trụ hiệp sức giúp cậu để đạt được nó,” ông lão từng nói như thế.
Chàng trai đang cố gắng để hiểu sự thật của những gì ông lão đã nói. Nơi đó chàng trong một ngôi chợ trống không, và trống rỗng trong lòng, không có một xu với tên của chàng, và không có một con cừu để chăn qua một đêm. Nhưng những viên đá là bằng chứng chàng đã gặp một ông vua – một vị vua đã biết quá khứ của chàng.
“Chúng gọi là Urim và Thummim, và chúng có thể giúp cậu đọc những điềm lành chỉ dẫn.” Chàng trai đặt những viên đá trở lại trong túi nhỏ và quyết định làm một thử nghiệm. Ông lão đã nói để hỏi những câu hỏi rất rõ ràng, và để làm thế, chàng phải biết chàng muốn gì. Vì thế, chàng hỏi ông lão phù hộ chàng vẫn còn bên chàng không?
Chàng lấy một viên đá. Nó là “vâng”.
Chàng hỏi.
Chàng đặt tay trong túi, và cảm nhận chúng quanh một viên đá. Khi chàng làm như thế, cả hai viên đá luồn qua một lổ hổng và rơi xuống đất. Chàng trai chưa bao giờ để ý đến rằng có một lổ hổng trong túi. Chàng quỳ xuống để tìm Unim và Thummim và đặt chúng trở lại trong túi. Những khi thấy chúng nằm đấy trên mặt đất, một ý niệm nẩy ra trong đầu chàng.
“Hãy học để nhận thấy những điềm lành, và theo lời hướng dẫn của chúng,” ông lão từng nói như thế.
Một điềm lành. Chàng trai mĩm cười với chính mình. Chàng nhặt hai viên đá và đặt chúng trở lại trong túi của chàng. Chàng chẳng quan tâm đến việc khâu lại lổ hổng – những viên đá có thể rơi mất bất cứ khi nào chúng muốn. Chàng đã học rằng có những việc nào đấy mà một người nên hỏi về chúng, để không lẫn tránh “huyền thoại cá nhân” của một người. “Mình đã hứa rằng mình sẽ làm những quyết định của chính minh,” chàng nói với chính mình.
Nhưng những viên đá đã nói với chàng rằng ông lão vẫn ở bên chàng, và điều ấy làm chàng cảm thấy vững chãi hơn. Chàng nhìn chung quanh khu chợ trống không một lần nữa, cảm thấy kém liều lĩnh hơn trước đó. Đây không là một nơi kỳ lạ; nó là một nơi mới mẻ.
Cuối cùng, điều chàng luôn luôn muốn chỉ là: biết vùng đất mới. Ngay cả nếu chàng có thể chẳng bao giờ đến được những Kim Tự Tháp, chàng đã du hành xa hơn bất cứ người chăn cừu nào chàng biết. Ô, nếu họ chỉ biết bao nhiêu là sự khác biệt chỉ trong hai giờ đồng hồ bằng thuyền từ nơi họ ở, chàng nghĩ. Mặc dù thế giới mới của chàng lúc này chỉ là một ngôi chợ trống không, chàng đã thấy nó khi nó đang thừa thải với đời sống, và chàng sẽ chẳng bao giờ quên nó. Chàng nhớ lại thanh gươm. Nó làm chàng tổn thương một ít để nghĩ về nó, nhưng chàng chưa bao giờ thấy một thanh gươm như thế trước đây. Khi lẫm nhẩm những việc như thế, chàng nhận thấy rằng chàng phải lựa chọn giữa việc nghĩ chính chàng như một nạn nhân đáng thương của một tên lừa đảo hay như một người mạo hiểm trong việc truy lùng kho tàng của chàng.
“Mình là một người mạo hiểm, đi tìm kho báu”, chàng nói với chính mình.
CHÀNG BỊ LAY TỈNH GIẤC BỞI AI ĐẤY. Chàng đã ngũ đi lúc nào không hay ở giữa chợ,và đời sống trong chợ đã bắt đầu trở lại.
Chàng không có một xu dính túi, nhưng chàng có niềm tin. Chàng đã từng quyết định, đêm hôm trước, rằng chàng sẽ là một người mạo hiểm như những người chàng hâm mộ, thán phục trong những quyển sách.
Chàng bước đi chậm rãi qua khu chợ. Những người buôn bán đã bày hàng trên kệ, và những cậu bé phụ giúp những người bán kẹo làm việc của nó. Người bán kẹo có một nụ cười trên mặt anh ta: anh ta vui vẻ, nhận biết đời sống anh ta là gì, và đã bắt đầu một ngày làm việc. Nụ cười anh ta làm chàng nhớ lại ông lão – một vị vua huyền bí chàng đã gặp. “Người bán kẹo này không làm kẹo để sau đó anh ta có thể du lịch hay kết hôn với người con gái chủ quán. Anh ta đang hoạt động bởi vì nó là những gì anh ta muốn làm,” chàng trai nghĩ như thế. Chàng nhận thấy rằng chàng có thể làm như ông lão đã từng làm – cảm nhận một người gần hay xa với “huyền thoại cá nhân” hay nguyện ước của họ. Chỉ nhìn họ. Thật dễ dàng, và tuy vậy minh chưa bao giờ làm việc này trước đây, chàng nghĩ như thế.
Khi hàng kệ đã được bày biện, người bán kẹo mời chàng trai một cây kẹo đầu tiên anh ta vừa làm trong ngày. Chàng trai cảm ơn anh ta, ăn nó, và tiếp tục trên con đường của chàng. Khi chàng chỉ qua khỏi một đoạn ngắn, chàng nhận ra rằng, trong khi họ bày biện hàng quán, một trong những người của họ nói tiếng Ả Rập và người kia nói tiếng Tây Ban Nha.
Và họ hiểu nhau một cách hoàn toàn.
Phải có một ngôn ngữ không lệ thuộc trên chữ nghĩa, chàng trai nghĩ như thế. Mình từng có kinh nghiệm với những con cừu và giờ đây nó xảy ra với con người.
Và chàng không nhận thức chúng bởi vì chàng đã trở nên quá quen thuộc với chúng. Chàng nhận thấy rằng: Nếu mình có thể học để hiểu ngôn ngữ này không lệ thuộc trên mặt chữ, chàng có thể hiểu được thế giới này.
Thư giản và không vội vả, chàng quyết định rằng chàng sẽ đi bộ ngang những con đường hẹp của Tangier. Chỉ bằng cách như thế chàng mới có thể đọc được những điềm chỉ bảo. Chàng biết rằng nó sẽ đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn, nhưng những người chăn cừu biết tất cả về sự kiên nhẫn. Một lần nữa chàng thấy rằng, trên mãnh đất lạ ấy, chàng sẽ áp dụng cùng những bài học mà chàng đã từng học với đàn cừu.
“Tất cả là một,” ông lão đã nói như thế.
°
NGƯỜI BÁN PHA LÊ THỨC DẬY MỖI NGÀY, VÀ CẢM THẤY BỰC BỘI cũng như những buổi sáng khác. Ông ta đã ở cùng một vị trí đã ba mươi năm rồi: một gian hàng ở trên đỉnh đồi của một con đường nơi rất ít khách hàng ghé qua. Giờ đây quá trễ để mà thay đổi bất cứ thứ gì – một việc duy nhất mà ông ta đã từng học để làm là mua và bán những vật dụng bằng pha lê. Cũng có thời khi có nhiều những khách hàng biết gian hàng của ông ta: những thương gia Ả Rập, Pháp và những nhà địa chất Anh, những binh sĩ Đức là những người luôn luôn có nhiều tiền. Trong những tháng ngày ấy thật là tuyệt vời để bán pha lê, và ông ta từng nghĩ ông ta sẽ giàu có. Và có những người đàn bà xinh đẹp ở bên cạnh khi ông ta trở về già.
Nhưng thời gian ấy đã qua. Tangier đã thay đổi. Thành phố Ceuta bên cạnh đã phát triển nhanh hơn Tangier, và thương mại đã xuống dốc. Hàng xóm dời đi, và chỉ còn một it gian hàng nhỏ ở đỉnh đồi. Và không ai sẽ leo lên đồi để mua hàng qua một vài cửa hiệu nhỏ.
Nhưng người bán pha lê không có lựa chọn nào khác. Ông ta đã sống ba mươi năm trong đời để mua và bán những vật dụng bằng pha lê, và bây giờ đã quá trễ để làm những việc khác.
Ông ta đã dành hết buổi sáng để quan sát những sự đến và đi bất thường hiếm hoi trên đường phố. Ông ta đã làm việc ấy hàng bao năm trời và biết thời khắc của mọi người qua lại. Nhưng, chỉ trước buổi ăn trưa, một chàng trai trẻ dừng trước cửa hàng. Chàng trai ăn vận bình thường, nhưng dưới con mắt từng trải của ông chủ gian hàng pha lê có thể thấy là chàng trai trẻ không có tiền để mua sắm. Mặc dù vậy, ông ta cũng quyết định dời bửa ăn lại trong vài phút cho đến khi chàng trai tiến tới.
°
MỘT TẤM BIỂN TREO TRÊN CỬA CHO BIẾT RẰNG VÀI NGÔN NGỮ được nói trong cửa hiệu. Chàng trai thấy một người đàn ông xuất hiện sau quầy hàng.
“Tôi có thể lau sạch những ly tách trong cửa sổ, nếu ông muốn,” chàng trai nói. “Xem ra dường như không có ai mua chúng bây giờ.”
Ông chủ nhìn chàng ta mà không trả lời.
“Đổi lại, ông có thể cho tôi một bửa ăn.”
Ông chủ củng không nói gì, và chàng trai cảm thấy rằng ông ta đang có một quyết định. Trong túi, chàng có một chiếc áo khoác – chàng chắc chắn sẽ không cần nó trong sa mạc. Lấy áo khoác ra, và bắt đầu lau chùi những chiếc ly tách. Trong nữa giờ đồng hồ, chàng đã lau sạch những chiếc ly tách trong cửa sổ, và, khi chàng đang làm việc ấy, có hai người khách hàng vào trong cửa hiệu và mua vài vật dụng pha lê.
Khi hoàn tất việc lau chùi, chàng hỏi ông chủ thực phẩm để ăn. “Hãy đi với tôi và dùng bửa trưa,” người thương gia pha lê bảo chàng.
Ông ta cất dấu hiệu trên cửa. và họ đi đến một gian hàng cà phê nhỏ gần đấy. Khi họ ngồi xuống cái bàn duy nhất nơi ấy, người thương gia cười to.
“Cậu không phải làm việc lau chùi ấy,” ông ta nói. “Kinh Coran bảo tôi phải cho những người đói ăn.”
“Ô, thế thì tại sao ông để tôi làm việc ấy?” chàng trai hỏi.
“Bởi vì những vật pha lê ấy bẩn quá. Và cả tôi cùng cậu cần phải lau sạch những tư tưởng tiêu cực trong tâm hồn chúng ta.”
Khi họ đang ăn, người thương gia quay sang chàng và nói: “Tôi muốn cậu làm việc trong cửa hàng của tôi. Hai người khách đến mua hàng trong khi cậu đang làm việc, và đấy là một điềm lành.”
Người ta nói nhiều về những điềm lành; chàng chăn cừu nghĩ như thế. Nhưng họ thật sự không biết họ nói gì. Chỉ như khi mình không nhận biết rằng trong bao nhiêu năm mình đã nói chuyện một ngôn ngữ không lời với đàn cừu của mình.
“Cậu có muốn làm việc cho tôi không?” người thương gia hỏi.
“Tôi có thể làm cho ông cả ngày hôm nay,” chàng trai trả lời. “Tôi sẽ làm cả đêm, cho đến khi trời sáng, và tôi sẽ lau sạch tất cả những vật dụng pha lê trong cửa hàng của ông. Đổi lại, tôi cần tiền để đến Ai Cập ngày mai.”
Người thương gia cười to. “Ngay cả cậu lau chùi pha lê cả năm…ngay cả nếu cậu kiếm được một món hoa hồng tốt khi bán từng món pha lê, cậu sẽ vẫn phải vay tiền để đi đến Ai Cập. Có hàng nghìn cây số của sa mạc giữa nơi đây và nơi ấy.”
Một khoảnh khắc im lặng quá nặng nề dường như cả thành phố đang say ngũ. Không một âm thanh từ chợ, không một sự tranh cải của những người mua bán, không một người trèo lên những ngọn tháp để ca ngâm. Không hy vọng, không mạo hiểm, không vị vua già hay “huyền thoại cá nhân’’, không kho tàng, và không Kim Tự Tháp. Nó như là cả thế giới rơi vào trong im lặng bởi vì tâm hồn chàng trai như thế. Chàng trai ngồi đấy, nhìn thờ thẩn qua cánh cửa của hàng cà phê, ước gì chàng chết đi, và rằng mọi thứ sẽ chấm dứt vĩnh viễn ngay lúc ấy.
Người thương gia nhìn chàng một cách lo lắng. Tất cả những vui thích ông ta thấy sáng nay đột nhiên biến mất.
“Tôi có thể cho cậu tiền cậu cần để cậu trở về xứ sở của cậu, này con trai của ta,” người thương gia nói thế.
Chàng trai không nói gì. Chàng đứng lên, sửa lại áo quần, và cầm túi xách chàng lên.
“Tôi sẽ làm việc cho ông,” chàng nói.
Và sau một lúc im lặng lâu nữa. chàng thêm, “tôi cần tiền để mua một ít con cừu.”