Một người đàn ông Anh Cát Lợi đang ngồi trên một chiếc ghế bành trong một kiến trúc bốc mùi súc vật, mồ hôi, và bụi; nó là một phần của nhà kho, một phần của bãi súc vât. Mình không bao giờ nghĩ mình đến một nơi như vậy, ông ta nghĩ, khi lật qua những trang của tờ báo hóa học hàng ngày. Mười năm trong trường đại học, và bây giờ mình đang ở trong một bãi súc vât.
Nhưng ông ta phải tiến tới. Ông ta tin tưởng ở những điềm lành. Cả cuộc đời và tất cả sự học vấn được tập trung để tim một thứ ngôn ngữ chân chính cho cả nhân loai. Trước nhất ông ta học Quốc tế ngữ Esperanto, kế đến là những tôn giáo thế giới, và bây giờ là thuật giả kim. Ông ta biết nói Quốc tế ngữ, ông ta hiểu rõ những tôn giáo, nhưng ông ta chưa là một nhà giả kim. Ông ta đã làm sáng tỏ những chân lý phía sau những câu hỏi, nhưng việc học của ông ta đã đưa ông ta đến trước một điểm mà dường như ông ta không thể đi qua. Ông ta đã cố gắng vô hiệu quả để mở ra môt mối quan hệ với một nhà giả kim. Nhưng những nhà giả kim là những người kỳ lạ, họ chỉ nghĩ về họ, và hầu như luôn luôn từ chối giúp đở ông. Ai biết được, có thể họ đã thất bại trong việc khám phá bí mật của Kiệt Tác – Tảng đá của nhà Triết học – và vì lý do này giữ kín kiến thức của họ cho chính họ mà thôi.
Ông đã bỏ nhiều may mắn thuận lợi dành cho ông từ bố của ông, một cách vô vọng tìm kiếm Tảng đá của Triết gia. Ông đã bỏ ra một số thời gian khổng lồ ở các thư viện của thế giới, và đã mua tất cả những sách hiếm có nhất và quan trọng nhất về giả kim. Trong một quyển ông đã đọc rằng, nhiều năm về trước, một nhà giả kim Ả Rập đã thăm viếng Âu Châu. Nó nói rằng, ông ta hơn hai trăm tuổi, và rằng ông ta đã khám phá ra Tảng đá của Triết gia và Thuốc Trường Sinh Bất Lão. Người đàn ông Anh Cát Lợi có ấn tượng một cách sâu đậm bởi câu chuyện. Nhưng ông ta chẳng bao giờ nghĩ nó là gì khác hơn là một chuyện thần thoại hoang đường, nếu không có một người bạn của ông ta – trở về từ một cuộc thám hiểm khảo cổ học trong sa mạc – nói với ông về một người Ả Rập sở hữu những năng lực lạ thường.
“Ông ta sống tại ốc đảo Al-Fayoum, bạn ông nói. “Người ta nói rằng ông ta hai trăm tuổi thọ, và có thể chuyển bất cứ kim loại nào biến thành vàng.”
Người đàn ông Anh Cát Lợi không thể kềm chế sự kích thích nóng bỏng của ông ta. Ông đình hoãn tất mọi nhiệm vụ, mọi lời hứa hẹn, và cùng với những quyển sách quan trọng nhất của ông , và bây giờ ở đây, ngồi trong một nhà kho bụi bám, hôi hám. Bên ngoài, một đoàn người khổng lồ đang chuẩn bị cho một chuyến băng ngang Sahara, và là hành trình xuyên qua Al-Fayoum.
Tôi sẽ tìm ra cái lão giả kim kỳ quái ấy, người Anh Cát Lợi nghĩ như thế. Và mùi súc vật trở nên dễ chịu hơn một ít.
Một người Ả Rập trẻ, cũng đầy hành lý, bước vào và chào người Anh Cát Lợi.
“Ông hướng về đâu?” chàng Ả Rập hỏi.
“Tôi sẽ đi vào sa mạc,” ông ta trả lời, và trở lại đọc sách. Ông ta không muốn bất cứ sự trao đổi nào lúc này. Điều ông ta cần làm là ôn lại tất cả những gì ông ta đã học bao năm qua, bởi vì nhà giả kim chắc chắn sẽ thử thách ông ta.
Chàng Ả Rập trẻ tuổi lấy ra một quyển sách và bắt đầu đọc. Quyển sách viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Tốt lắm đấy, người Anh Cát Lợi nghĩ. Ông ta nói tiếng Tây Ban Nha sỏi hơn là Ả Rập, và, nếu chàng trai đang đến Al-Fayoum, sẽ có người trò chuyện khi không có chuyện gì khác quan trọng để làm.
°
“KỲ LẠ THẬT,” CHÀNG TRAI NÓI, KHI CỐ GẮNG ĐỌC MỘT LẦN NỮA, khung cảnh chôn cất khởi đầu quyển sách. “Mình đã từng cố gắng đọc quyển sách này trong hai năm, và mình chưa bao giờ qua khỏi một ít trang đầu tiên này.” Ngay cả không có một ông vua nào chen vào làm gián đoạn, những chàng cũng không thể tập trung.
Chàng vẫn có một ít nghi ngờ về quyết định này của chàng. Nhưng chàng có hiểu một điều: quyết định một việc gì chỉ là khởi đầu bao nhiêu thứ của việc ấy. Khi ai đấy làm một quyết định, người ta thật sự đang lặn sâu và trong một thực tại mạnh mẽ mà sẽ mang người ấy đến những nơi người ta chưa bao giờ mơ đến khi người ta vừa làm quyết định ngay lúc đầu.
Khi mình quyết định để đi tìm kho tàng của mình, mình chưa bao giờ tưởng tượng là mình sẽ đến làm việc trong cửa hàng pha lê, chàng nghĩ như thế. Và tham dự vào đoàn người này có thể là quyết định của mình, nhưng đi đâu sẽ là một bí ẩn với mình.
Bên cạnh là một người đàn ông Anh Cát Lợi, đang đọc một sách. Ông ta dường như không thân thiện lắm, và đã nhìn như cáu tức khi chàng trai bước vào. Họ có thể trở thành bạn ngay, nhưng ông Anh Cát Lợi đã đóng cuộc đối thoại lại.
Chàng trai xếp quyển sách lại. Chàng cảm thấy rằng chàng không muốn làm bất cứ gì có thể làm chàng giống như ông nọ. Chàng lấy Urim và Thummim từ trong túi ra, và bắt đầu đùa với chúng.
Người lạ kêu lên, “Urim và Thummim!”
Trong một thoáng chàng đặt chúng trở lại trong túi.
“Chúng không phải để bán,” chàng nói.
“Chúng không có giá trị gì nhiều,” ông Anh Cát Lợi trả lời. “Chúng chỉ được làm từ đá pha lê, và có hàng triệu viên đá pha lê trên trái đất. Nhưng những ai biết về những thứ như thế sẽ biết rằng chúng là Urim và Thummim. Tôi không biết là họ có chúng ở phần này của thế giới.”
“Đấy là quà tặng của một vị vua cho tôi,” chàng trai nói.
Người lạ không trả lời; thay vì thế, ông ta đặt tay vào túi, và lấy ra hai hòn đá giống như của chàng trai.
“Có phải cậu nói là một vị vua?” ông ta hỏi.
“Tôi nghĩ là ông không tin rằng một vị vua lại có thể nói chuyện với ai đấy như tôi, một người chăn cừu,” chàng nói, như muốn chấm dứt mẫu đối thoại.
“Không phải thế. Đấy là những người chăn cừu, những kẻ đầu tiên nhận ra một vị vua mà cả thế giới không muốn biết. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi những vị vua đã có thể nói chuyện với những kẻ chăn cừu.”
Và ông ta tiếp tục, sợ rằng chàng trai không hiểu những gì ông ta đang nói. “Nó ở trong Thánh Kinh. Chính là quyển sách dạy tôi về Urim và Thummim. Những hòn đá này là hình thức tiên đoán duy nhất được Đấng Tạo Hóa cho phép. Những tu sĩ mang chúng trong một chiếc giáp ngực bằng vàng.”
Chàng trai bổng nhiên vui vẻ được ở đấy tại nhà kho.
“Có thể đây là một điềm lành,” ông Anh Cát Lợi nói hơi to.
“Ai nói với ông về những điềm lành?” Chàng trai hứng thú tăng lên trong từng giây phút.
“Mỗi thứ trong đời sống là một điềm lành,” ông Anh Cát Lợi nói, giờ đây xếp tờ báo đang đọc lại. “Có một ngôn ngữ của vũ trụ, mà mọi người đều hiểu, nhưng đã bị quên lãng mất rồi. Tôi đi đang đi tìm ngôn ngữ hoàn vũ ấy, cùng nhưng thứ khác. Đấy là tại sao tôi ở đây. Tôi đã biết một người biết thứ ngôn ngữ hoàn vũ ấy. Một nhà giả kim.”
Cuộc đối thoại bị gián đoạn bởi người chủ của kho hàng.
“Cả hai người thật may mắn,” người Ả Rập to béo nói. “Có một đoàn người đi đến Al-Fayoum ngày hôm nay.”
“Nhưng tôi đang đi đến Ai Cập,” chàng trai nói.
“Al-Fayoum ở Ai Cập,” người Ả Rập nói. “Cậu là loại người Ả Rập nào?”
“Đấy là một điềm may mắn tốt đẹp,” ông Anh Cát Lợi nói, khi người Ả Rập to béo đã đi khỏi. “Nếu mà có thể, tôi sẽ viết một quyển bách khoa từ điển khổng lồ chỉ về những ngôn từ may mắn và trùng hợp ngẫu nhiên. Với từ ngữ ấy là ngôn ngữ hoàn vũ được viết.”
Ông ta nói với chàng trai rằng không phải ngẫu nhiên mà ông ta gặp chàng trai với Urim và Thummim trong tay chàng. Và ông ta hỏi chàng trai có phải chàng cũng đang đi tìm nhà giả kim, và lập tức hối hận vì đã nói điều ấy. Nhưng ông Anh Cát Lợi chẳng biểu hiện gì lưu tâm quan trọng đến lời chàng nói.
“Trong một cách nào đấy, tôi cũng vậy,” ông ta nói.
“Tôi ngay cả không biết “giả kim” là gì,” chàng trai đang nói, khi chủ nhà kho gọi họ ra bên ngoài.
°
“TÔI LÀ THỦ LÃNH CỦA ĐOÀN NGƯỜI”, MỘT NGƯỜI MẮT ĐEN, râu quay nón nói như thế. “Tôi nắm giữ quyền lực của sự chết và sự sống đối với mỗi người tôi đem theo. Sa mạc là một mụ đồng bóng thất thường và đôi khi làm những người đàn ông phát điên lên.”
Có khoảng hai trăm người tập họp ở đấy, và bốn trăm thú vật – lạc đà, ngựa, la, và đà điểu. Trong đám đông là đàn bà, trẻ con, và một số đàn ông với gươm ở thắt lưng và súng mang trên vai của họ. Người Anh Cát Lợi với vài rương đầy sách. Có tiếng lao xao, và người thủ lãnh phải lập lại vài lần để mọi người có thể hiểu những gì ông ta đang nói.
“Có vô số loại người khác nhau ở đây, và mỗi người có Thượng Đế riêng của mình. Nhưng chỉ có một Thượng Đế mà tôi phụng thờ là Allah, và nhân danh Ngài tôi nguyện rằng tôi sẽ làm mọi thứ có thể làm để chiến thắng sa mạc một lần nữa. Nhưng tôi muốn mỗi người và mọi người chúng ta thệ nguyện với Đấng mà chúng ta tin tưởng tôn thờ trong điều là các vị sẽ tuân theo mệnh lệnh hướng dẫn của tôi không kể là gì. Trong sa mạc, không vâng lời có nghĩa là chết.”
Có những tiếng lào xào, rì rào, lẩm bẩm trong đám đông. Mỗi người đang thệ nguyện một cách yên lặng với Đấng mà mình tôn thờ. Chàng trai thệ nguyện đến Giê-Su Ki-Tô. Người Anh Cát Lợi không nói gì. Và tiếng rì rào đã kéo dài hơn là những lời thệ nguyện thông thường. Người ta cũng cầu nguyện đến thiên đàng cho sự phù hộ.
Một sự chú ý kéo dài được đánh dấu bằng tiếng tù và, và mọi người lên yên. Chàng trai và người Anh Cát Lợi đã mua những con lạc đà, và leo lên lưng chúng một cách không vững chắc. Chàng trai cảm thấy buồn cho những con lạc đà của người Anh Cát Lợi, chúng chở đầy những hòm rương sách vở.“Không có gì là trùng hợp ngẫu nhiên,” người Anh Cát Lợi nói, nhắc lại mẫu đối thoại đã bị gián đoạn trong kho hàng. “Tôi ở đây vì một người bạn của tôi nghe nói về một người Ả Rập có…”
Nhưng đoàn người bắt đầu di chuyển, và không thể nghe những gì ông ta đang nói. Chàng trai biết ông ta đang diễn tả điều gì, và nghĩ: dây xích huyền bí đã nối liền người này với người kia, cùng dây xích ấy là nguyên nhân chàng trở thành một người chăn cừu, nó cũng là nguyên nhân giấc mơ tái diễn của chàng, nó đã mang chàng đến một thành phố gần Phi Châu, để tìm ra một vị vua, và bị lường gạt mất hết tiền bạc để mà gặp ông già pha lê, và…
Càng tiến gần hơn đến sự nhận thức huyền thoại cá nhân của chàng, huyền thoại cá nhân trở nên lý do chính của chàng cho sự hiện hữu, chàng trai nghĩ như thế.
Đoàn người tiến về phương đông. Họ du hành suốt buổi sáng, nghĩ chân lúc trời nóng gắt nhất, và tiếp tục và buổi xế trưa. Chàng trai nói chuyện rất ít với người Anh Cát Lợi, ông ta đang dành hầu hết thời gian với những quyển sách của ông ta.
Chàng trai quán sát trong yên lặng tiến trình của đoàn thú và người băng ngang sa mạc. Giờ đây mọi thứ hoàn toàn khác hẳn vơi ngày mà họ khởi hành: rồi thì, có sự lộn xộn, hổn độn và la hét, tiếng khóc của trẻ con và tiếng kêu của thú vật, tất cả rối rắm hòa lẫn với sự sợ hải cuả những người hướng dẫn và những thương gia.
Nhưng trong sa mạc, chỉ có âm thanh bất tận của gió và nhịp chân của những con thú. Ngay cả những người hướng dẫn cũng nói rất khe khẽ với từng người.
“Tôi đã băng qua sa mạc này nhiều lần,” một người chăn lạc đà đã nói trong một đêm. “Nhưng sa mạc thì quá rộng, và chân trời quá xa, nó làm người ta cảm thấy bé nhỏ, và như có phải họ nên tiếp tục im lặng.”
Chàng trai hiểu một cách trực giác ý nghĩa của ông ta, ngay cả chưa bao giờ đặt chân trên sa mạc trước đây. Bất cứ khi nào thấy biển, hay lửa, chàng rơi vào im lặng, ấn tượng bởi năng lực thiên nhiên của chúng.
Mình đã từng học những thứ từ những con cừu, và mình đã từng học nhưng thứ từ pha lê, chàng nghĩ. Mình cũng có thể học những điều từ sa mạc. Nó có vẻ già và thông thái.
Gió không bao giờ ngừng, và chàng trai nhớ lại ngày chàng ngồi trên pháo đài ở Tarifa với những làn gió giống như thế này thổi vào mặt. Nó làm chàng nhớ lại lông cừu… những con cừu của chàng bây giờ đang tìm thực phẩm và nước uống trên những cánh đồng ở Andalusia như chúng vẫn làm thế ấy.
“Chúng không còn là những con cừu của mình nữa,” chàng nói với chính mình, mà chẳng có nổi niềm luyến tiếc quá khứ. Chúng phải quen với những người chăn cừu mới của chúng, và chắc chắn đã quên mình rồi. Thế thi tốt thôi. Những tạo vật như những con cừu thì quen với việc du hành, và biết về việc tiến tới.
Chàng nghĩ về nàng con gái người thương gia, và chắc chắn là cô ta đã vu quy. Có lẽ với một người làm bánh, hay với một người chăn cừu khác những người có thể đọc và kể cho cô nàng nghe những chuyện hấp dẫn – cuối cùng, chàng chắc chắn không phải là người duy nhất. Nhưng chàng thích thú với sự hiểu biết trực giác với lời bình luận của người chăn lạc đà bình luận: có lẽ ông ta cũng đã học về ngôn ngữ của vũ trụ, điều có thể liên hệ với quá khứ và hiện tại của tất cả mọi người. “Linh cảm” mẹ chàng thường gọi chúng như thế. Chàng trai đang bắt đầu hiểu rằng trực giác là một lối bất ngờ của tâm linh đi vào trong thế giới hiện tại của đời sống, và chúng ta có thể biết mọi thứ, bởi vì chúng được viết tất cả ở đấy.
“Maltub” chàng trai nói, nhớ lại ông già pha lê.
Sa mạc là cát với cát, tất cả là cát trãi dài, và núi đá ở nơi này nơi nọ. Khi đoàn người bị chận bởi những tảng đá mòn, họ phải đi vòng quanh nó; nếu đấy là một vùng núi đá rộng, họ phải đi quanh co trong cát nóng. Nếu cát quá mịn cho móng chân những con thú, họ phải tìm một con đường nơi cát chặc chịa hơn. Trong vài vùng, mặt đất được bao phủ bởi muối của những hồ khô cạn nước. Những con thú không chịu bước tới những vùng như vậy, và những người cởi lạc đà buộc phải bước xuống và giảm bớt những gánh nặng mà chúng chuyên chở. Những người cởi lạc đà phải tự mang những vật nặng qua những vùng khó khăn như vậy, và rồi thì mới chất lại lên trên lưng những con lạc đà. Nếu một người dẫn đường mắc bệnh hay chết đi, những người cửi lạc đà sẽ rút thăm và chọn một người mới.
Nhưng tất cả những điều này xãy ra cho một lý do chính yếu là: không kể bao nhiêu sự quanh co, vòng đi, trở lại tránh những vùng núi đá, hồ khô và những thay đổi được thi hành, đoàn người vẫn tiến về cùng một điểm trên la bàn đã định. Mỗi lần chướng ngại được vượt qua, nó trở lại con đường của nó, sao đêm rực rở chỉ cho thấy rằng vị trí ốc đảo đang ở phía trước. Khi người ta thấy ánh sao buổi sáng, họ biết rằng họ đúng đường đến nước, cây chà là, trạm trú ẩn, và những người khác. Chỉ có người Anh Cát Lợi là không chú ý đến tất cả những điều đó; ông ta đắm mình trong những quyển sách của ông ta, trong hầu hết thời gian của cuộc hành trình.
Chàng trai cũng vậy, với quyển sách, và chàng cố đọc nó trong suốt một ít ngày đầu tiên của hành trình. Nhưng chàng nhận ra rằng thật hấp dẫn hơn để quán sát đoàn người và lắng nghe làn gió. Chẳng bao lâu chàng học để biết con lạc đà của chàng tốt hơn, và mở ra mối quan hệ với nó, thế là chàng vất quyển sách đi. `Mặc dù chàng đã gia tăng sự mê tín rằng mỗi lần mở quyển sách là có thể sẽ học được những điều quan trọng, nhưng chàng quả quyết nó là một gánh nặng không cần thiết.
Chàng trở nên thân thiện với người chăn lạc đà bên cạnh. Đêm xuống, khi họ ngồi chung quanh đống lửa, chàng kể cho người bạn mới những mạo hiểm của chàng, một người chăn cừu.
Trong cuộc đối thoại, người chăn lạc đà kể lại cuộc đời của chính anh ta.
“Tôi từng sống ở gần El Cairum,” anh ta nói. “Tôi có vườn cây ăn quả, con cái, và cuộc sống sẽ không có gì thay đổi cho đến khi tôi chết. Một năm nào, khi mùa màng trúng mùa chưa từng có, tất cả chúng tôi đã đi đến Mecca, và tôi chỉ hài lòng với một điều duy nhất chưa làm tròn trong đời tôi. Tôi có thể chết một cách vui vẻ, và điều ấy làm tôi cảm thấy tốt đẹp.
“Một ngày nọ, mặt đất bắt đầu rung chuyển, và dòng sông Nile tràn bờ. Nó là điểu mà tôi nghĩ là chỉ có thể xảy ra cho những kẻ khác, chẳng bao giờ cho tôi. Những người hàng xóm của tôi sợ rằng họ sẽ mất trọn những vườn olive trong cơn lũ, và vợ tôi sợ rằng chúng tôi sẽ mất con cái. Tôi nghĩ rằng mọi thứ mà tôi làm chủ đã bị phá hủy.
“Đất đai bị tàn phá, và tôi phải tìm một phương cách khác để sống. Vì vậy mà bây giờ tôi là một người chăn lạc đà. Nhưng tai họa ấy đã dạy tôi để hiểu lời của Đấng Tạo Hóa: con người không cần phải sợ điều không biết, nếu người ta có thể đạt được những gì họ cần và muốn.
“Chúng ta sợ mất mát những gì chúng ta có, cho dù nó là cuộc sống của chúng ta hay sở hữu và tài sản của chúng ta. Nhưng nổi sợ hải này tan biến khi chúng ta hiểu rằng những chuyện của đời sống chúng ta và lịch sử của thế giới được viết cùng một bàn tay.
Thỉnh thoảng, đoàn người của họ gặp những đoàn khác. Đoàn này luôn có những gì mà đoàn khác cần – như mọi thứ quả là được viết bởi một bàn tay. Khi mọi người ngồi chung quanh đống lửa, người chăn lạc đà trao đổi những tin tức về những cơn gió bão, và kể những chuyện về sa mạc.
Những lúc khác, một cách bí mật, những người che mặt xuất hiện; họ là những người Ả Rập Bedouin du cư giám sát theo tuyến đường của những đoàn người. Họ cung cấp những tin tức cảnh báo về những tên trộm và những bộ lạc hung tợn. Họ đến trong yên lặng và biến đi cũng như thế, họ ăn mặc áo quần đen và chỉ thấy đôi mắt của họ. Một đêm nọ, người chăn lạc đà đến bên đống lữa nơi người Anh Cát Lợi và chàng trai đang ngồi. “Có những tin đồn về những cuộc chiến bộ tộc,” anh ta nói với họ.
Cả ba cùng im lặng. Chàng trai nhận thấy có một cảm giác sợ hải trong không khí, mặc dù không ai nói gì. Một lần nữa chàng lại có kinh nghiệm về ngôn ngữ không lời…ngôn ngữ của vũ trụ.
Người Anh Cát Lợi hỏi rằng có phải họ gặp phải nguy hiểm.
“Khi chúng ta đã vào sa mạc, không có sự quay trở lại,” người chăn lạc đà nói. “Và, khi chúng ta không thể quay lại, chúng ta chỉ phải lo lắng về con đường tốt nhất để tiến tới. Những gì còn lại là tùy Đấng Tạo Hóa, kể cả nguy hiểm.”
Và anh ta kết luận bằng lời nói huyền bí: “Maktub”.
“Ông nên chú ý hơn đến đoàn người,” chàng trai nói với người Anh Cát Lợi, sau khi người cưỡi lạc đà rời khỏi. “Chúng ta đã có rất nhiều lần đi quanh co, nhưng chúng ta luôn luôn hướng đến một địa điểm.”
“Và cậu phải nên đọc thêm sách về thế giới,” người Anh Cát Lợi trả lời. “Những quyển sách như những đoàn người trong sự tôn trọng ấy.”
Tập họp đông đảo của người và thú vật bắt đầu hành trình nhanh hơn. Ban ngày luôn luôn im lặng, nhưng giờ đây, ngay cả trong đêm – khi những người du hành đã quen nói chuyện quanh đống lửa – cũng trở nên yên tĩnh. Và, một ngày nọ, lãnh đạo của đoàn người đã quyết định rằng không nên đôt lửa ban đêm, vì để tránh sự chú ý đến đoàn người.
Đoàn người chấp nhận thực hiện sắp xếp những thú vật thành một vòng tròn ban đêm, và cùng ngũ ở trung tâm để chống lại cái lạnh về đêm. Và người lãnh đạo bố trí những người bảo vệ vũ trang ở vòng ngoài của đoàn người.
Một đêm, người Anh Cát Lợi không ngũ được. Ông ta gọi chàng trai, và họ đi bộ dọc theo những đụn cát chung quanh nơi họ dừng nghĩ đêm. Đấy là một đêm trăng tròn, và chàng trai kể cho người Anh Cát Lợi câu chuyện của cuộc đời chàng.
Người Anh Cát Lợi bị quyến rũ với phần về tiến trình đạt được ở cửa hàng pha lê sau khi chàng trai bắt đầu làm việc ở đấy.
Nó luôn là một năng lực tích cực.”
Ông ta cũng nói rằng điều này không chỉ là tặng phẩm của con người, mà mọi thứ trên mặt đất có một tâm linh, cho dù đấy là khoáng sản, rau quả, hay thú vật – hay ngay cả chỉ là một suy tư đơn giản.
“Mọi thứ trên trái đất đang chuyển biến liên tục, bởi vì trái đất là sự sống, và đang sống…và nó có một tâm linh. Chúng ta là một phần của tâm linh ấy, thế là chúng ta hiếm khi nhận thức rằng nó đang làm việc cho chúng ta. Nhưng ở cửa hiệu pha lê cậu chắc chắn nhận ra rằng những ly tách ấy đã hiệp tác trong sự thành công của cậu.”
Chàng trai nghĩ về điều ấy trong một lúc khi chàng nhìn mặt trăng và làn cát trắng. “Tôi đã nhìn đoàn người khi họ xuyên qua sa mạc,” chàng nói. “Đoàn người và sa mạc cùng nói một ngôn ngữ, và nó là lý do mà sa mạc cho phép đi xuyên qua. Nó thử thách đoàn người từng bước chân để thấy có phải đã đến lúc, và, nếu thế, chúng ta sẽ làm nên sự thành công đến ốc đảo.”
“Nếu mỗi chúng ta đã tham gia đoàn người chỉ căn cứ trên sự can đảm cá nhân, mà không hiểu biết ngôn ngữ ấy, hành trình này sẽ khó khăn hơn rất nhiều.”
Họ đứng đấy nhìn ánh trăng.
“Đấy là phép lạ của những điềm lành,” chàng trai nói. “Tôi đã từng thấy những người hướng đạo đã dọc những dấu hiệu trên sa mạc như thế nào, và tâm linh đoàn người nói với tâm linh sa mạc như thế nào.”
Người Anh Cát Lợi nói, “Tôi nên chú ý đến đoàn người nhiều hơn.”
“Và tôi nên đọc những quyển sách của ông”, chàng trai nói.