Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Quá Nhiều Hạnh Phúc

Chương 3

Tác giả: Alice Munro

Sophia đến trước nửa giờ cho chuyến xe lửa của cô. Cô cần mua nước trà, và vài viên kẹo ngậm cho cổ họng, nhưng cô không thể kiên nhẩn chờ đợi xếp hàng và nói tiếng Pháp. Dù cho cô có thể tự xoay sở khi sức khỏe tốt, chỉ cần tinh thần xuống dốc hoặc linh cảm sắp sửa bệnh để đưa cô trở lại trú ẩn trong thế giới trẻ thơ. Cô ngồi trên một băng ghế và gục đầu xuống. Cô có thể ngủ một chút.

Hơn một chút. Mười lăm phút trôi qua theo đồng hồ nhà ga. Bây giờ có một đám đông tụ tập, rất nhiều người qua lại xung quanh cô, xe hành lý di chuyển.

Khi cô vội vã đi về phía xe lửa, cô thấy một người đàn ông đội một chiếc mũ lông thú như của Maksim. Một người đàn ông to lớn, trong cái áo khoác sậm đen. Cô không thể nhìn thấy khuôn mặt của ông. Ông di chuyển xa cô. Nhưng đôi vai rộng, cách đi len lỏi lịch sự nhưng kiên quyết của ông, làm cho cô nghĩ đến Maksim rất nhiều.

Một chiếc xe chất đầy hàng hóa chạy qua giữa họ, và người đàn ông biến mất.

Tất nhiên không thể là Maksim. Anh làm gì ở Paris? Anh đang vội vã đi đến chuyến xe lửa hay buổi hẹn nào? Trái tim của cô bắt đầu đập một cách khó chịu khi cô leo lên xe lửa và tìm chỗ ngồi bên cửa sổ. Nó đứng lại với lập luận rằng phải có những phụ nữ khác trong cuộc sống của Maksim. Ví dụ như, có người phụ nữ đó anh không thể giới thiệu Sophia được, khi anh từ chối mời cô đến Beaulieu. Nhưng cô tin rằng anh không phải là một người đàn ông phô trương rắc rối. Càng không phải cho những màn ghen tuông, nước mắt và quở trách của phụ nữ. Trong một dịp trước đó anh đã nhấn mạnh rằng cô không có quyền nào, không có bám giữ nào ở anh.

Điều nầy chắc chắn có nghĩa là anh biết việc cô có bám giữ anh bây giờ, và nhân phẩm của anh sẽ cảm thấy được nếu làm cô thất vọng.

Và khi cô nghĩ nhìn thấy anh cô vừa thức dậy ra khỏi một giấc ngủ không lành mạnh không tự nhiên. Cô đã bị ảo giác.

Chuyến xe lửa bắt đầu lăn bánh với những tiếng rên rỉ và kêu vang bình thường và từ từ rời xa mái nhà ga.

Cô đã từng yêu Paris thế nào. Không phải là Paris của Thị Xã, nơi cô đã theo những mệnh lệnh phấn khích và đôi khi không thể hiểu nổi của Aniuta, mà là Paris cô đã thăm viếng về sau, trong cuộc đời trưởng thành trọn vẹn của cô, với sự giới thiệu đến các nhà toán học và tư tưởng chính trị. Ở Paris, cô đã tuyên bố, không có những điều như sự nhàm chán hay trưởng giả hay thất vọng.

Sau đó, họ đã trao cho cô giải thưởng Bordin, họ đã hôn tay cô và tặng cô những bài phát biểu và bó hoa trong những căn phòng hào phóng sáng chói thanh lịch nhất. Nhưng họ đã đóng cửa lại khi đến lúc cho cô một công việc. Họ sẽ không nghĩ gì hơn về điều đó mà như sử dụng một con khỉ có học. Những người vợ của các nhà khoa học lớn chọn không gặp cô, hoặc mời cô đến nhà của họ.

Những bà vợ quan sát hàng rào chắn ngang, một quân đội không khoan nhượng vô hình. Người chồng nhún vai buồn bã trước sự cấm đoán của họ, nhưng cho họ những gì họ muốn. Người đàn ông mà não bộ thổi tan những khái niệm cũ vẫn còn nô lệ người phụ nữ với cái đầu trống rỗng ngoài sự cần thiết của chiếc áo nịt ngực chặt chẽ, thẻ gọi điện thoại, và buổi nói chuyện làm cổ họng người nghe đầy mùi nước hoa mịt mù.

Cô phải ngưng bài kinh đầy oán giận nầy. Những người vợ ở Stockholm mời cô đến nhà của họ, đến những buổi tiệc quan trọng nhất và những bữa ăn tối thân mật. Họ ca ngợi cô và giới thiệu cô. Họ chào đón đứa con của cô. Cô có thể là một người kỳ quặc nơi đó, nhưng cô là một kỳ quặc mà họ chấp nhận. Một cái gì đó giống như con vẹt nói được nhiều thứ tiếng hoặc như một thần đồng có thể cho bạn biết không do dự hoặc suy nghĩ về một ngày nào đó trong thế kỷ thứ mười bốn rơi vào ngày thứ ba.

Không, thật là không công bằng. Họ đã tôn trọng những gì cô đã làm, và đa số tin rằng nhiều phụ nữ hơn nửa phải noi theo và một ngày nào đó họ cũng vậy. Và, tại sao cô hơi cảm thấy một chút nhàm chán bởi họ, khao khát những đêm khuya và nói chuyện ngông cuồng. Tại sao cô thấy phiền là họ ăn mặc như vợ những người truyền giáo hoặc như người Gypsies sống nay đây mai đó?

Cô đang ở trong một tâm trạng bị sốc, và đó là tại Jaclard và Urey và người phụ nữ đáng kính mà họ không thể giới thiệu cô. Và với cơn đau cổ họng và những cái khẽ rùng mình, chắc chắn là cô sẽ bị cảm nặng.

Dù thế nào cô cũng sắp sửa là một người vợ, và là vợ của một người đàn ông giàu có và thông mình và thành công chắc chắn như vậy.

Xe nước trà đến. Nó sẽ giúp cổ họng của cô, mặc dù cô ước muốn phải chi đó là trà của Nga. Mưa bắt đầu rơi ngay sau khi họ ra khỏi Paris, và bây giờ mưa đã chuyển sang thành tuyết. Cô thích tuyết hơn mưa, cánh đồng màu trắng hơn vùng đất tối và ẩm ướt, như mọi người Nga. Và nơi nào có tuyết hầu hết mọi người nhận ra thực tế của mùa đông và dành nhiều biện pháp cẩn thận hơn để giữ cho ngôi nhà ấm áp. Cô nghĩ đến nhà Weierstrass, mà cô sẽ ngủ đêm nay. Giáo sư và hai bà em của ông không muốn cô ra khách sạn.

Nhà của họ luôn luôn thoải mái, với những chiếc thảm tối sậm và màn cửa có tua nhiều và ghế bành sâu. Cuộc sống ở đó theo một nghi thức – nó dành riêng cho việc học, đặc biệt là toán học. Rụt rè, các sinh viên nam thường ăn mặc xấu, đi qua phòng khách để đến phòng học, từng người một. Hai chị em chưa lập gia đình của giáo sư vui vẻ chào khi họ đi qua, nhưng hầu như họ không mong đợi một câu trả lời. Họ bận rộn với việc đan hoặc vá hoặc móc thảm. Họ biết rằng anh trai của họ có một bộ não tuyệt vời, rằng ông là một người đàn ông vĩ đại, nhưng họ cũng biết ông cần phải ăn mận mỗi ngày, tại vì công việc ít vận động của ông, rằng ngay cả ông không thể mang một chất len đẹp nhất trên người, bởi vì nó làm cho ông dị ứng, rằng cảm xúc của ông bị tổn thương khi một đồng nghiệp quên không đề cập đến công của ông trong một bài báo xuất bản (mặc dù ông giả vờ không để ý, vừa trong câu chuyện vừa trong văn bản của ông, ca ngợi tỉ mỉ chính người đã coi thường ông).

Hai bà em đó – Clara và Elisa – đã ngạc nhiên ngày đầu tiên Sophia bước vào phòng khách của họ để đến phòng học. Người làm đưa cô vào đã không được đào tạo để biết nhận diện, bởi vì những người trong nhà sống một cuộc sống thật ẩn dật, cũng bởi vì những sinh viên đến đó thường nghèo nàn và không biết phép lịch sự, do đó các tiêu chuẩn của hầu hết các nhà đứng đắn nhất không được áp dụng. Mặc dù vậy, trong giọng nói của người làm có một chút do dự trước khi cô đưa người phụ nữ bé nhỏ nầy với khuôn mặt gần như bị che khuất bởi một cái nón sậm tối và người di chuyển một cách sợ sệt, giống như một người ăn xin xấu hổ. Hai chị em không thể có một ý tưởng nào về tuổi thật của người nhưng kết luận – sau khi cô được đưa vào phòng học – có thể đó là mẹ của một sinh viên, đến để mặc cả hoặc xin tiền học phí.

“Ôi trời ơi,” Clara kêu lên, bà suy đoán một cách slnh động hơn, “Trời ơi, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi vừa tiếp đón ở đây, có phải là một Charlotte Corday không vậy?”

Tất cả chuyện nầy đã được kể lại cho Sophia về sau, khi cô đã trở thành bạn của họ. Và Elisa thêm vào một cách khô khan, “May là anh của chúng tôi không có ở trong phòng tắm. Và chúng tôi không thể đứng lên được để bảo vệ anh bởi vì chúng tôi bị cuộn trong những chiếc khăn choàng cổ dài vô tận.”

Họ đan những cái khăn choàng cổ cho những người lính ở mặt trận. Đó là năm 1870, trước khi Sophia và Vladimir đáp chuyến đi dự định là chuyến học tập của họ đến Paris. Thời buổi đó, họ sống chìm sâu trong những không gian khác, của thế kỷ đã qua, họ rất ít chú ý đến thế giới mà họ đang sống, nên hầu như họ không nghe nói gì về một cuộc chiến tranh hiện đại.

Weierstrass cũng không có một ý tưởng nào hơn hai bà em về tuổi tác hay nhiệm vụ của Sophia. Về sau ông nói với cô rằng ông nghĩ cô là một cô giáo đã sai lầm muốn sử dụng tên của ông, để thêm vào môn toán học trong các chứng chỉ của cô. Ông suy nghĩ ông phải mắng người giúp việc, và các em, đã để cô đột nhập vào làm phiền ông. Nhưng ông là một người đàn ông lịch sự và tử tế, cho nên thay vì mời cô ra ngay lập tức, ông giải thích rằng ông chỉ nhận sinh viên cấp tiến thôi, với những chứng chỉ được công nhận, và hiện giờ ông đã đủ số người mà ông có thể điều hành. Sau đó, khi cô vẫn đứng yên – run rẩy – trước mặt ông, với chiếc mũ vô duyên che mặt cô và hai bàn tay nắm chặt chiếc khăn choàng, ông nhớ lại phương pháp, hoặc mưu kế, ông đã sử dụng một hoặc hai lần trước, để làm thất vọng một sinh viên không đủ khả năng.

“Trong trường hợp của cô tôi có thể làm một điều,” ông nói, “là đặt cho cô một loạt bài, và yêu cầu cô giải quyết và mang trở lại cho tôi đúng một tuần lễ sau. Nếu tôi hài lòng với kết quả, chúng ta sẽ nói chuyện lại.”

Một tuần sau đó ông đã hoàn toàn quên cô. Tất nhiên là ông đã dự kiến không bao giờ gặp lại cô. Khi cô đi vào phòng học của ông, ông đã không nhận ra cô, có lẽ vì cô đã cởi ra chiếc áo choàng che dấu hình dáng mảnh mai của cô. Cô có thể cảm thấy bạo dạng hơn, hoặc có lẽ thời tiết đã thay đổi. Ông không nhớ cái nón – các bà em thì có – vì ông không để ý nhiều đến các vật dụng của phụ nữ. Nhưng khi cô lấy ra các giấy tờ khỏi túi xách và đặt chúng xuống bàn làm việc của ông, ông nhớ lại, và thở dài mang cặp kính vào.

Sự ngạc nhiên của ông thật tuyệt vời – ông cũng nhắc lại điều nầy với cô một thời gian sau – khi thấy rằng mỗi một vấn đề đã được giải đáp, và đôi khi một cách hoàn toàn nguyên thủy. Nhưng ông vẫn còn nghi ngờ cô, suy nghĩ bây giờ có thể cô đã trình bày việc làm của người khác, có lẽ của một người anh hay người yêu đang lẩn trốn vì lý do chính trị.

“Cô ngồi xuống,” ông nói. “Và bây giờ cô giải thích cho tôi từng giải đáp, từng bước được thực hiện.”

Cô bắt đầu nói chuyện, nghiêng về phía trước, và chiếc mũ mềm rơi xuống đôi mắt của cô, nên cô kéo nó ra và cho nó nằm trên sàn nhà. Những lọn tóc của cô được tiết lộ, đôi mắt cô trong sáng, tuổi trẻ của cô, và sự hứng thú run rẩy của cô.

“Được,” ông nói. “Được. Được. Được.” Ông nói với một sự cân nhắc kỹ càng, cố gắng che đậy sự ngạc nhiên của ông, đặc biệt là đối với các giải pháp mà phương cách xuất sắc nhất hơn cả chính ông.

Cô là một cú sốc đến với ông bằng nhiều cách. Cô rất nhẹ nhàng và trẻ trung và háo hức. Ông cảm thấy ông phải làm cô dịu lại, giữ cô một cách cẩn thận, giúp cô hiểu làm thế nào để điều khiển tràng pháo hoa trong não bộ của cô.

Cả đời ông – ông gặp khó khăn để nói ra điều nầy, như ông thừa nhận, là luôn luôn cảnh giác khi quá hăng hái – cả đời ông, ông đã chờ đợi một sinh viên như vậy đi vào phòng nầy. Một sinh viên sẽ thách thức ông hoàn toàn, không những là người có thể đi theo những phấn đấu của tâm trí mình mà có lẽ còn bay xa hơn nửa. Ông phải cẩn thận khi nói về những gì ông thực sự tin tưởng – rằng phải có một cái gì đó giống như trực giác trong tâm trí của một nhà toán học bậc nhất, một tia sét tỏa sáng để khám phá cái gì đó đã có từ lâu. Nghiêm ngặt, tỉ mỉ, người phải như vậy, cũng như một nhà thơ giỏi.

Khi cuối cùng ông đã thố lộ tất cả điều nầy với Sophia, ông cũng nói là có những người sẽ khựng lại ở từ ngữ, “nhà thơ”, khi đề cập đến khoa học toán học. Và những người khác, ông cho biết, sẽ nhảy lên chấp nhận khái niệm một cách thật dễ dàng, để bảo vệ sự rối ren và lỏng lẻo trong suy nghĩ của chính mình.

Như cô mong đợi, tuyết càng lúc càng nhiều hơn bên ngoài cửa sổ khi họ di chuyển về hướng đông. Đây là một xe lửa hạng nhì, khá đơn giản, so với chuyến xe cô đã lấy từ Cannes. Không có toa xe ăn, chỉ có bánh mì lạnh – vài ổ nhét đầy nhiều loại xúc xích cay – có bán ở xe nước trà. Cô mua một ổ với đầy pho mát to bằng một nửa chiếc giày ống và nghĩ cô sẽ không bao giờ ăn hết, nhưng với thời gian cô cũng xong. Sau đó, cô lấy ra cuốn sách nhỏ của Heine, để mang lại tiếng Đức trong tâm trí của cô.

Mỗi khi cô ngước mắt nhìn qua cửa sổ dường như tuyết rơi dày đặc hơn, và đôi khi xe lửa chạy chậm, gần như dừng lại. Họ sẽ may mắn lắm đến được Berlin vào lúc nửa đêm với tốc độ nầy. Cô ước rằng phải chi cô không để mình bị thuyết phục không đến một khách sạn, thay vì đến nhà trên đường Potsdam.

“Tội nghiệp Karl sẽ vui biết bao nếu cô chỉ đến ở một đêm dưới cùng một mái nhà. Anh vẫn nhớ đến cô như cô bé trước ngưỡng cửa nhà của chúng tôi, mặc dù anh rất ngưỡng mộ những thành tựu và tự hào về sự thành công rực rỡ của cô.”

Đúng vậy sau nửa đêm cô đến bấm chuông. Clara đi ra, trong chiếc áo choàng, bà đã cho người làm đi ngủ. Anh của bà – bà thì thầm nói – đã thức giấc bởi tiếng ồn của xe taxi và Elisa đã đi giúp anh nằm lại và đảm bảo với anh sẽ gặp Sophia sáng mai.

Từ ngữ “nằm lại” nghe có vẻ đáng lo ngại cho Sophia. Bức thư hai chị em đã không đề cập gì ngoài một sự mệt mỏi nào đó. Và những bức thư của Weierstrass không có một tin tức cá nhân nào, toàn nói về Poincaré và Weierstrass – nhiệm vụ của ông đối với toán học trong việc làm sáng tỏ các vấn đề cho nhà vua Thụy Điển.

Bây giờ Sophia nghe người phụ nữ lớn tuổi nói với một giọng hơi kính cẩn hay lo sợ khi bà đề cập đến anh trai, bây giờ cô ngửi những mùi trước đó quen thuộc và yên tâm nhưng đêm nay lại thoang thoảng cũ kỹ và ảm đạm của căn nhà, cô cảm thấy nói giởn như trước có lẽ không hợp thời nửa, rằng bản thân cô không những mang lại không khí mát lạnh, mà còn sự nhộn nhịp của thành công, một khía cạnh của năng lượng, mà cô gần như đã không biết, và cũng có thể một chút nản lòng và phiền toái. Cô đã từng được chào đón với những cái ôm ấp và niềm vui vững mạnh (một trong những kinh ngạc về hai chị em là họ có thể vừa vui vẻ vừa nghi thức) họ vẫn còn ôm cô, nhưng với những giọt nước mắt ngấn trong đôi mắt mờ, và vòng tay già run rẩy.

Và trong phòng của cô có nước ấm trong bình, có bánh mì và bơ trên bàn ngủ.

Khi cô thay quần áo cô có thể nghe tiếng thì thầm lo âu yếu ớt trong hành lang trên lầu. Có thể là về sức khỏe của người anh hoặc về chính cô hoặc vì họ quên đậy bánh mì và bơ lại, mà có lẽ họ đã không để ý cho đến khi Clara dẫn cô vào phòng.

Khi cô làm việc với Weierstrass, Sophia sống trong một căn hộ nhỏ tối, hầu hết thời gian với Julia bạn của cô, học về hóa học. Họ không đi những buổi hòa nhạc hoặc vở kịch – tài chánh của họ giới hạn và họ rất bận bởi công việc. Julia đã đến một phòng thí nghiệm tư nhân, và cô đã nhận những ưu đãi mà một người phụ nữ khó có được. Ngày qua ngày Sophia ngồi tại bàn viết của mình, không rời chiếc ghế đôi khi đến lúc cần phải bật đèn lên. Sau đó, cô mới thư giãn ra và đi bộ, nhanh, thật nhanh, từ đầu nầy qua đầu kia căn hộ – một đoạn đủ ngắn – có lúc cô bất chợt chạy và nói lớn, bùng nổ một cách vô lý, do đó, bất cứ ai không biết cô nhiều như Julia sẽ tự hỏi nếu tinh thần của cô được ổn định.

Weierstrass và bây giờ đến cô đều suy nghĩ bận tâm đến chức năng đường vòng và Abel, và lý thuyết về chức năng phân tích căn cứ trên sự thể hiện như một dãy vô hạn. Lý thuyết đặt theo tên ông cho rằng mỗi dãy vô hạn của thực số giới hạn có một dãy hội tụ. Cô theo ông ở điểm nầy và sau đó thách thức ông và thậm chí một lúc nào đó vượt qua phía trước ông, và như vậy họ tiến triển từ giáo sư và học trò để trở thành đồng nghiệp toán học, cô thường là chất xúc tác cho những nghiên cứu của ông. Nhưng mối quan hệ nầy mất nhiều thời gian để phát triển, và tại những buổi ăn tối chủ nhật – mà cô được sẵn sàng mời vì ông đã đành những buổi chiều chủ nhật cho cô – cô giống như một mối quan hệ trẻ, một người háo hức được ông giám hộ.

Khi Julia đến cô cũng được mời, và hai cô gái được đãi ăn thịt nướng và khoai tây sốt kem và bánh tráng miệng thật nhẹ và ngon làm đảo lộn tất cả những ý tưởng của họ về món ăn Đức. Sau bữa ăn, họ ngồi bên lò sưởi và nghe Elisa đọc. Cô đọc với tinh thần và biểu hiện thật linh động những câu chuyện của nhà văn Thụy Sĩ Conrad Ferdinand Meyer. Văn học là điều giải trí hàng tuần, sau tất cả thú đan và vá.

Vào dịp lễ họ có làm một cây Giáng Sinh cho Sophia và Julia, mặc dù gia đình Weierstrass đã không bận tâm về điều nầy cả năm nay. Kẹo được bọc trong giấy lấp lánh, và bánh trái cây và táo nướng. Họ nói cho trẻ em.

Nhưng chẳng bao lâu một bất ngờ khó chịu xảy đến.

Điều bất ngờ là Sophia, với hình ảnh thật của một cô gái trẻ nhút nhát và thiếu kinh nghiệm, cô nên có một người chồng. Trong vài tuần đầu tiên của khóa học, trước khi Julia đến, cô đã được đón rước ở cửa, vào tối chủ nhật, bởi một người đàn ông trẻ, anh không được giới thiệu với gia đình Weierstrass và bị nhầm lẫn là một người làm. Anh ta cao và không đẹp, với bộ râu mỏng màu đỏ, mũi to, quần áo cẩu thả. Trong thực tế, nếu gia đình Weierstrass để ý hơn, họ sẽ nhận ra là không có gia đình cao quý tự trọng nào – và họ biết Sophia từ đâu đến – mà có một người làm nhếch nhác như vậy, và do đó anh ta phải là một người bạn.

Sau đó, Julia đến, và người đàn ông trẻ biến mất.

Một thời gian sau Sophia mới cho biết anh ta tên Vladimir Kovalevsky và anh là chồng của cô. Anh đang học ở Vienna và Paris mặc dù anh đã có một bằng cấp về luật và đang cố gắng để trở thành một nhà xuất bản sách giáo khoa ở Nga. Anh lớn hơn Sophia nhiều tuổi.

Cũng ngạc nhiên không thua gì tin nầy là Sophia chỉ thông báo cho Weierstrass mà không có nói với hai chị em. Trong gia đình họ là những người từng có quan hệ với cuộc sống cho dù chỉ là trong đời sống của những người làm và việc họ đọc khá nhiều chuyện giả tưởng. Nhưng Sophia không có gần gũi với mẹ hoặc gia sư của mình. Những đàm phán của cô với ông Đại Tướng không phải luôn luôn thành công nhưng cô tôn trọng ông ấy và nghĩ rằng có lẽ ông tôn trọng cô. Vì vậy, cô hướng về người đàn ông trong nhà với một chuyện kín quan trọng.

Cô nhận ra chắc Weierstrass ngại ngùng – không phải lúc cô nói với ông nhưng khi ông phải nói với hai bà em. Và còn nhiều chuyện nửa ngoài thực tế Sophia đã có chồng. Cô thực sự kết hôn một cách hợp pháp, nhưng đó là một Hôn Nhân Trắng – một điều mà ông chưa bao giờ nghe nói đến, hai bà em cũng vậy. Chồng và vợ không những không sống cùng một nơi, họ không sống chung với nhau gì cả. Họ không kết hôn vì những lý do phổ thông được chấp nhận nhưng bị ràng buộc bởi lời thề bí mật của họ không bao giờ sống theo cách đó, không bao giờ –

“Hay thật?” Có lẽ Clara là người nói. Mot cách nhanh nhẹn, thậm chí sốt ruột, để vượt qua thời điểm nầy.

Đúng. Và những người trẻ – phụ nữ trẻ – muốn đi du học bắt buộc phải đi qua sự lừa dối nầy bởi vì không có người phụ nữ Nga nào chưa lập gia đình có thể rời khỏi đất nước mà không có sự đồng ý của cha mẹ. Cha mẹ của Julia vui mừng để cho cô ấy đi, nhưng cha mẹ của Sophia thì không.

Một đạo luật thật chưa cởi mở.

Đúng. Người Nga. Nhưng một số phụ nữ trẻ tìm cách thoát khỏi điều kiện nầy với sự giúp đỡ của những thanh niên trẻ rất lý tưởng và thông cảm. Có lẽ họ cũng vô chính phủ. Ai biết được?

Chị của Sophia là người đã tìm được một trong những thanh niên trẻ, và cô và một người bạn hẹn một cuộc gặp mặt với anh chàng. Lý do của họ có lẽ chính trị, chứ không phải là trí thức. Chỉ có Chúa mới biết lý do tại sao họ mang cả Sophia theo – cô không có một đam mê chính trị nào và không nghĩ rằng mình sẵn sàng cho một cuộc mạo hiểm như vậy. Nhưng người thanh niên trẻ nhìn qua hai cô gái lớn tuổi – cô chị tên Aniuta với vẻ thương lượng không thể che giấu nét đẹp của cô – và anh ta nói không. Không, tôi không muốn làm hợp đồng nầy với một trong hai quý cô, nhưng tôi đồng ý làm giấy tờ với cô em của hai cô.

“Có thể anh ta nghĩ những cô lớn tuổi sẽ gây phiền hà” – Elisa là người nói ra điều nầy, với kinh nghiệm của bà về tiểu thuyết – “đặc biệt là vẻ đẹp. Anh chàng đã say mê cô bé Sophia của chúng ta.”

Tình yêu không được phép xâm nhập vào đây, Clara nhắc nhở bà.

Sophia chấp nhận lời đề nghị nầy. Vladimir gọi ông Đại Tướng, để hỏi xin cưới cô con gái nhỏ của ông. Ông Đại Tướng lịch sự, biết người thanh niên xuất thân từ một gia đình tốt, mặc dù anh chưa thực hiện được gì nhiều để lại dấu vết trong cuộc sống. Nhưng Sophia còn quá trẻ, ông nói. Thậm chí cô có biết những ý định nầy không?

Có, Sophia nói, và cô yêu anh.

Ông Đại Tướng nói họ không thể hành động trên cảm xúc của họ ngay lập tức nhưng phải dành một thời gian, một thời gian rất đáng kể, để tìm hiểu nhau ở Palibino. (Họ đang có mặt tại Petersburg.)

Mọi chuyện rơi vào bế tắc. Vladimir sẽ không bao giờ tạo ấn tượng tốt. Anh đã không cố gắng hết sức để che giấu những quan điểm cấp tiến của anh và anh ăn mặc xấu, như thể anh cố tình. Ông Đại Tướng tin tưởng Sophia càng thấy người cầu hôn nầy nhiều, cô sẽ càng ít muốn kết hôn với anh ta.

Tuy nhiên, Sophia đang lên kế hoạch của riêng mình.

Và đến một ngày mà bố mẹ cô tổ chức một bữa tiệc ăn tối quan trọng. Họ đã mời một nhà ngoại giao, các giáo sư, các đồng chí quân sự của Ông Đại Tướng từ Trường Pháo Binh. Giữa tất cả sự nhộn nhịp đó Sophia bỏ trốn.

Cô ra ngoài một mình trên các đường phố của Petersburg, và cô chưa bao giờ đi trước đó mà không có một người làm hoặc một người chị đi cùng. Cô đến chỗ ở của Vladimir trong một khu phố sinh viên nghèo sống. Cánh cửa mở ra cho cô tức khắc, và ngay sau khi cô vào trong cô ngồi xuống và viết một bức thư cho cha mình.

“Cha thân yêu của con, con đã đến với Vladimir và sẽ ở lại đây. Con cầu xin cha đừng ngăn cản cuộc hôn nhân của chúng con nửa.”

Tất cả mọi người đã ngồi vào bàn trước khi sự vắng mặt của Sophia được phát hiện. Một người làm không tìm thấy cô trong phòng. Aniuta được hỏi về em gái và đỏ mặt khi cô trả lời là cô không biết. Để che giấu khuôn mặt của mình, cô làm bộ đánh rơi chiếc khăn ăn.

Một tin nhắn được trao cho ông Đại Tướng. Ông cáo lỗi và rời khỏi phòng. Không bao lâu sau đó, Sophia và Vladimir nghe tiếng bước chân giận dữ của ông bên ngoài cửa của họ. Ông thỏa thuận với con gái và người đàn ông mà cô sẵn sàng để bị tai tiếng và buộc họ đi theo ông ngay lập tức. Họ đi lên xe về nhà, cả ba không nói một lời, và ở bàn ăn, ông nói, “Cho phép tôi giới thiệu với quý vị Vladimir Kovalevsky, con rể tuơng lai của tôi.”

Thế là xong. Sophia rất vui mừng, không thực sự vì được lấy Vladimir nhưng để làm hài lòng Aniuta bằng cách đánh một đòn vào phong trào giải phóng phụ nữ Nga. Một đám cưới nghi thức và lộng lẫy được tổ chức ở Palibino, và cô dâu chú rể đến Petersburg sống dưới một mái nhà.

Và một khi mọi chuyện ổn thỏa họ đi ra nước ngoài và không tiếp tục sống dưới một mái nhà nửa. Sophia đến Heidelberg, sau đó Berlin, Vladimir thì đi Munich. Anh đến thăm Heidelberg khi rảnh, nhưng khi Aniuta và Zhanna bạn của cô đến đó, và Julia – về mặt lý thuyết tất cả bốn phụ nữ đều ở dưới sự bảo vệ của anh – nên không còn đủ chỗ cho anh nửa.

Weierstrass không có tiết lộ cho những người phụ nữ là ông có giữ liên lạc với phu nhân của ông Đại Tướng. Ông đã viết cho bà khi Sophia trở về từ Thụy Sĩ (thực sự từ Paris) mỏi mòn và yếu đuối nên ông lo lắng cho sức khỏe của cô. Bà mẹ đã trả lời, thông báo với ông rằng đó là từ Paris, trong những thời điểm nguy hiểm nhất, đã ảnh hưởng đến sức khỏe của con gái bà. Nhưng bà có vẻ ít lo âu bởi các biến động chính trị các con gái đã sống qua hơn là bởi những tiết lộ rằng một trong hai người, trong khi chưa lập gia đình, sống công khai với một người đàn ông, và người kia, đã kết hôn đàng hoàng, lại không thực sự sống với chồng. Vì vậy, dù ngoài ý muốn, ông đã đóng vai người tâm tình của người mẹ ngay cả trước khi ông đóng vai nầy với con gái của bà. Và thật vậy ông không nói với Sophia gì hết về chuyện nầy cho đến khi mẹ cô qua đời.

Nhưng cuối cùng khi ông đã nói với cô, ông cũng thêm là Clara và Elisa đã hỏi ngay lập tức phải làm cái gì.

Ông nói có lẽ người phụ nữ nghĩ rằng một cái gì đó nên làm.

Ông đã trả lời khá nghiêm khắc, “Không làm gì hết.”

Buổi sáng Sophia lấy một chiếc váy sạch ra khỏi túi xách để mặc cho dù nó nhàu nát – cô chưa bao giờ học được cách sắp xếp gọn gàng – cô chảy tóc quăn để có thể che giấu một vài chỗ tóc bạc, và đi xuống cầu thang về phía những tiếng động của một gia đình đã thức giấc. Chỉ chỗ cô ngồi vẫn còn sắp đặt sẳn trong phòng ăn. Elisa mang cà phê và buổi ăn sáng Đức đầu tiên mà Sophia chưa bao giờ ăn trong nhà nầy – thịt nguội cắt lát, pho mát và bánh mì thoa bơ thật dầy. Bà nói Clara trên lầu sửa soạn cho anh trai của họ để gặp Sophia.

“Lúc đầu chúng tôi đã mời ông thợ đến cắt tóc,” cô nói. “Nhưng về sau Clara đã học làm khá tốt. Bà hóa ra là người còn có những tài năng của một y tá, thật là may mắn cho chúng tôi.”

Ngay cả trước khi cô nói chuyện nầy Sophia cảm nhận rằng họ thiếu tiền. Chiếc ghế vải tơ và những bộ màn lưới có vẻ dơ bẩn, con dao và nĩa bạc mà cô sử dụng đã không được đánh bóng gần đây. Qua cánh cửa mở đến phòng khách một cô gái vẻ thô kệch, người làm hiện tại của họ, đang chùi lò sưởi và bụi bay tứ tung. Elisa nhìn theo, như muốn nói cô đóng cửa lại, sau đó đứng dậy và tự đóng lại. Bà trở lại bàn với một khuôn mặt đỏ ửng, nhìn xuống, và Sophia vội vàng hỏi, hơi bất lịch sự, ông Weierstrass bệnh gì?

“Một phần là tim của anh yếu đi, và dường như anh không thể vượt qua chứng viêm phổi mắc phải từ mùa thu. Ngoài ra anh có một sự tăng trưởng trong các cơ quan tạo sinh, “Elisa nói, hạ thấp giọng nhưng một cách thẳng thắn như người phụ nữ Đức.

Clara xuất hiện ở ngưỡng cửa.

“Anh ấy đang chờ cô.”

Sophia bước lên lầu suy nghĩ không phải đến giáo sư mà là hai người phụ nữ nầy đã khiến ông trở thành trung tâm cuộc sống của họ. Đan những chiếc khăn choàng cổ dầy, vá quần áo, làm bánh và mứt trái cây mà không bao giờ họ có thể giao cho một người làm. Tôn vinh Giáo Hội Công Giáo La Mã như anh trai của họ đã làm – một tôn giáo lạnh lùng không có gì vui theo Sophia – và tất cả những điều khác nửa mà họ không bao giờ có một ý chống đối, hoặc bất cứ một tia không hài lòng nào.

Tôi sẽ điên được, cô nghĩ.

Thậm chí là một giáo sư, cô nghĩ, tôi sẽ điên được. Học trò có những tâm trí tầm thường, nói chung. Chỉ có những mô hình thường xuyên rõ ràng nhất mới có thể gây được ấn tượng đến họ.

Cô cũng không dám thừa nhận điều nầy với chính mình trước khi cô có Maksim.

Cô bước vào phòng ngủ mỉm cười với cái may mắn của mình, tự do sắp tới của cô, người chồng sắp cưới của cô.

“A, cô đây rồi,” Weierstrass nói, giọng hơi yếu ớt và rất chậm. “Cô bé nghịch ngợm, chúng tôi nghĩ cô đã bỏ chúng tôi. Có phải cô trên đường đến Paris một lần nửa, để tìm vui cho mình không?”

“Tôi trên đường trở về từ Paris,” Sophia nói. “Tôi sẽ trở lại Stockholm. Paris không có gì vui hết, nó vẫn ảm đạm như thuở nào.” Cô đưa bàn tay ra cho ông hôn, từng cái một.

“Vậy là chị Aniuta của cô bị bệnh?”

“Chị ấy mất rồi, giáo sư yêu mến của tôi.”

“Cô ấy mất trong tù?”

“Không, không. Đã lâu rồi. Chị ấy không ở trong tù thời điểm đó. Chồng chỉ mới ở trong tù. Chị qua đời vì viêm phổi, nhưng chị đã bị đau nhiều trong một thời gian dài.”

“Ô, viêm phổi, tôi cũng vậy. Tuy nhiên, thật là buồn cho cô.”

“Trái tim tôi sẽ không bao giờ lành. Nhưng tôi có một tin tốt để nói với ông, một cái gì đó vui. Tôi sẽ lấy chồng vào mùa xuân.”

“Cô ly dị nhà địa chất? Tôi không ngạc nhiên, đúng ra cô nên làm điều đó từ lâu rồi. Tuy nhiên, một cuộc ly hôn luôn luôn là khó chịu.”

“Anh ấy cũng mất rồi. Và anh là một nhà cổ sinh vật. Đây là một nghiên cứu mới, rất thú vị. Họ học hỏi nhiều thứ từ các hóa thạch.”

“Có. Tôi nhớ ra rồi. Tôi đã nghe nói về nghiên cứu nầy. Vậy là anh chết trẻ. Tôi không muốn anh ta cản đường của cô, nhưng thật sự tôi không muốn anh ấy chết. Anh bị bệnh có lâu không?”

“Có thể nói là lâu. Ông chắc chắn nhớ tôi đã rời anh ấy thế nào và ông đề nghị tôi với Mittag-Leffler? “

“Ở Stockholm. Đúng không? Cô đã chia tay với anh ta. Tốt. Dù sao cô cũng phải làm.”

“Đúng. Nhưng bây giờ chuyện đã xong và tôi sẽ kết hôn với một người đàn ông mang cùng tên nhưng không liên hệ gần và là mẫu một người đàn ông hoàn toàn khác.”

“Vậy là một người Nga? Anh ta cũng đọc những hóa thạch?”

“Hoàn toàn không phải. Anh là giáo sư luật. Anh ấy rất năng động và rất hài hước, trừ khi lúc anh rất ảm đạm. Tôi sẽ đưa anh ta đến gặp ông và ông sẽ thấy.”

“Chúng tôi sẽ rất vui để đón tiếp anh ta,” Weierstrass buồn bã nói. “Công việc của cô sẽ bị chấm dứt.”

“Không đâu, không có đâu. Anh ấy không muốn như vậy. Nhưng tôi sẽ không đi dạy nửa, tôi sẽ được tự do. Và tôi sẽ sống trong một khí hậu thật thú vị ở miền nam nước Pháp và tôi sẽ luôn được khỏe mạnh ở đó và làm tất cả những công việc nhiều hơn.”

“Chúng ta sẽ xem.”

“Thầy thương mến”, cô nói. “Tôi xin ông, xin ông hãy vui mừng cho tôi.”

“Tôi có vẻ rất già,” ông nói. “Và tôi đã có một cuộc sống nghiêm túc. Tôi đã không có nhiều mặt cá tánh như cô. Thật là cả một bất ngờ cho tôi biết rằng cô viết tiểu thuyết.”

“Ông không thích điều đó.”

“Cô sai rồi. Tôi rất thích những hồi ức của cô. Độc rất dễ chịu.”

“Cuốn sách đó không thực sự là một cuốn tiểu thuyết. Ông sẽ không thích cuốn tôi đang viết bây giờ. Đôi khi chính tôi cũng không thích nó nửa. Tất cả đều nói về một cô gái quan tâm nhiều đến chính trị hơn là tình yêu. Không sao, ông không cần phải đọc nó. Sở kiểm duyệt Nga sẽ không cho phép nó được xuất bản và thế giới bên ngoài sẽ không muốn đọc nó bởi vì nó toàn là về Nga.”

“Tôi thường không thích tiểu thuyết.”

“Chúng dành cho phụ nữ?”

“Đúng ra đôi khi tôi quên rằng cô là một người phụ nữ. Tôi nghĩ về cô như – như là -“

“Như là cái gì?”

“Như một món quà cho tôi và cho một mình tôi.”

Sophia cúi xuống và hôn lên trán trắng bệch của ông. Cô cầm lại những giọt nước mắt cho đến khi cô nói lời tạm biệt với hai chị em của ông và rời khỏi nhà.

Tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông, cô nghĩ.

Cô nghĩ đến khuôn mặt của ông trắng như những chiếc gối vừa được giặt hồ mà Clara đã phải đặt phía sau đầu của ông chỉ buổi sáng hôm nay. Có lẽ bà đã lấy nó ra rồi, để cho ông nằm xuống những cái gối tồi tàn hơn bên dưới. Có lẽ ông đã lăn ra ngủ ngay, mệt mỏi sau buổi trao đổi của họ. Ông có thể nghĩ rằng họ gặp nhau lần cuối và sự suy nghĩ đó cũng nằm trong tâm trí của cô, nhưng ông sẽ không biết đó là xấu hổ, là bí mật của cô – cô cảm thấy bây giờ nhẹ nhàng thế nào, tự do thế nào, mặc dù nước mắt cô tuôn trào, tự do hơn với mỗi bước đi của cô ra khỏi ngôi nhà đó.

Cuộc đời của ông, cô nghĩ, có nhiều thỏa mãn để chiêm ngưỡng hơn cuộc sống cua hai người em không?

Tên của ông sẽ được nhắc đến một thời gian, trong sách giáo khoa. Và trong giới các nhà toán học. Nhưng không lâu lắm vì ông đã không nhiệt tình hơn về việc tạo dựng tiếng tăm của mình, giới hạn vai trò nổi bật trong vòng chọn loc và phấn đấu của ông. Ông quan tâm nhiều cho công việc hơn là cho tên tuổi của ông, trong khi rất nhiều đồng nghiệp của ông quan tâm cho cả hai đều như nhau.

Cô không nên đề cập đến quyển sách của cô. Phù phiếm đối với ông. Cô đã viết những hồi ức của cuộc đời mình tại Palibino trong một ánh sáng tình thương dành cho tất cả những mất mát, những thứ một lần tuyệt vọng cũng như những thứ một lần quý giá. Cô đã viết cuốn sách đó lúc xa nhà khi mà gia đình và chị của cô không còn nửa. Và Cô Gái Nihilist hiện ra với nỗi đau cho đất nước mình, sự bùng nổ của chủ nghĩa yêu nước và có lẽ một cảm giác rằng cô đã không để ý nhiều đến môn toán học và cuộc đời rối loạn của cô.

Niềm đau cho đất nước của cô, đúng. Nhưng với một ý nghĩa nào đó cô đã viết câu chuyện để tưởng nhớ Aniuta. Đó là câu chuyện của một người phụ nữ trẻ, từ bỏ tương lai của một cuộc sống bình thường để kết hôn với một tù nhân chính trị bị lưu đày đến Siberia. Bằng cách nầy, cô đảm bảo rằng cuộc sống, hình phạt của anh ta, sẽ phần nào được giảm bớt – miền nam thay vì miền bắc Siberia – như là quy tắc cho những người đàn ông đi cùng với vợ. Câu chuyện sẽ được ca ngợi bởi những người Nga bị trục xuất có thể tìm cách để đọc bản thảo của nó. Một cuốn sách chỉ bị từ chối xuất bản ở Nga để tạo ra sự khen ngợi như vậy trong số những người lưu vong chính trị, như Sophia cũng biết. Chị Em Raevsky – những hồi ức nầy làm cô hài lòng hơn, mặc dù nó đã thông qua phần kiểm duyệt, và một số nhà phê bình bác bỏ nó vị gợi lên hoài niệm.

Bình luận