Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Quá Nhiều Hạnh Phúc

Chương Kết

Tác giả: Alice Munro

Cô rời Berlin vào buổi trưa, ngay sau khi cô nói lời tạm biệt cuối cùng buồn nhưng nhẹ nhõm với Weierstrass. Xe lửa cũ và chậm chạp, nhưng sạch sẽ và sưởi nóng, như bất cứ chuyến xe lửa nào ở Đức.

Đi được khoảng nửa cuộc hành trình người đàn ông ngồi đối diện mở ra tờ báo và mời cô xem bất cứ phần nào cô thích đọc.

Cô cảm ơn anh và từ chối.

Anh gật đầu nhìn về phía cửa sổ, tuyết nhẹ đang rơi theo.

“A tốt,” anh nói. “Người ta có thể mong đợi cái gì?”

“Thực sự cái gì,” Sophia nói.

“Cô đi xa hơn Rostock?”

Anh có thể nhận ra một giọng nói không phải tiếng Đức. Cô không ngại anh nói chuyện với cô hay có một kết luận như vậy về cô. Anh trẻ hơn cô rất nhiều, mặc quần áo lịch sự, hơi nghiêm. Cô có cảm giác anh là một người nào đó mà cô đã gặp hoặc thấy trước đây. Nhưng điều này thường xảy ra khi đi du lịch.

“Đến Copenhagen”, cô nói. “Và sau đó đi Stockholm. Đối với tôi, tuyết sẽ chỉ nhiều hơn.”

“Tôi sẽ chia tay với cô ở Rostock,” anh nói, có lẽ để trấn an cô là cuộc trò chuyện sẽ không kéo dài lâu. “Cô có hài lòng với Stockholm không?”

“Tôi ghét Stockholm vào thời điểm này trong năm. Tôi rất ghét.”

Cô ngạc nhiên với chính mình. Nhưng anh mỉm cười vui sướng và bắt đầu nói bằng tiếng Nga.

“Xin lỗi,” anh nói. “Tôi đoán đúng. Bây giờ tôi là người nước ngoài nói chuyện với cô. Vì tôi học ở Nga một thời gian. Ở Petersburg.”

“Anh nhận ra giọng Nga của tôi?”

“Không chắc chắn. Cho đến khi cô cho biết cảm nghĩ về Stockholm.”

“Có phải tất cả người Nga đều ghét Stockholm?”

“Không. Không. Nhưng họ nói họ ghét. Họ ghét. Họ thích.”

“Đúng ra tôi không nên nói như vậy. Người Thụy Điển rất tốt với tôi. Họ dạy những điều…”

Đến đây, anh lắc đầu, cười.

“Thật như vậy,” cô nói. “Họ đã dạy tôi trượt băng.”

“Chắc chắn như vậy. Cô không học trượt băng ở Nga sao?”

“Họ không kiên trì giảng dạy như người Thụy Điển làm.”

“Ở Bornholm cũng vậy,” anh nói. “Tôi hiện sống ở Bornholm. Người Đan Mạch không kiên trì, đúng là từ ngữ đó. Nhưng tất nhiên ở Bornholm chúng tôi cũng không phải là người Đan Mạch. Chúng tôi từng nói như vậy.”

Anh là một bác sĩ, trên đảo Bornholm. Cô tự hỏi nếu cô có thể yêu cầu anh khám cổ họng được không, vì bây giờ nó rất đau. Cô quyết định là không.

Anh nói anh còn phải lấy một chuyến phà dài và có thể gập ghềnh, sau khi họ vượt qua biên giới Đan Mạch.

Người dân Bornholm không nghĩ họ là người Đan Mạch, anh nói, bởi vì họ cho rằng họ là người Viking bị tiếp quản bởi Liên Minh Hansa trong thế kỷ thứ mười sáu. Họ có một lịch sử khốc liệt, họ đã bị bắt giữ. Cô đã từng nghe nói về Bá Tước Bothwell hung ác chưa? Một số người nói ông đã qua đời ở Bornholm, mặc dù người dân Zealand nói ông chết ở đó.

“Ông sát hại chồng của nữ hoàng Tô Cách Lan và kết hôn với bà. Nhưng ông đã chết trong xiềng xích. Ông qua đời trong tình trạng điên khùng.”

“Hoàng Hậu Mary Queen of Scots,” cô nói. “Có, tôi đã nghe nói.” Và thực sự cô có nghe, bởi vì nữ hoàng Tô Cách Lan là một trong những nữ anh hùng đầu tiên của Aniuta.

“Ồ, xin lỗi cô. Tôi đang nói huyên thuyên.”

“Xin lỗi?” Sophia nói. “Tôi có làm gì để anh xin lỗi?”

Anh đỏ mặt. Anh nói, “Tôi biết cô là ai.”

Anh nói lúc đầu anh không biết. Nhưng khi cô nói bằng tiếng Nga, anh chắc chắn rồi.

“Cô là người nữ giáo sư. Tôi đã đọc về cô trong một tạp chí. Còn có một bức ảnh, nhưng hình của cô trông già hơn rất nhiều so với bên ngoài. Tôi xin lỗi đã xen vào chuyện của cô, nhưng tôi không thể nào làm khác hơn được.”

“Tôi có vẻ nghiêm khắc trong bức ảnh bởi vì tôi nghĩ mọi người sẽ không tin tưởng ở tôi nếu tôi mỉm cười,” Sophia nói. “Không phải các bác sĩ cũng làm tương tự như vậy sao?”

“Có thể. Tôi không quen bị chụp hình.”

Bây giờ hình như họ mất tự nhiên; tùy ở cô để làm anh thoải mái. Không khí dễ chịu hơn trước đó. Cô trở lại chủ đề về Bornholm. Nơi ấy xáo trộn và hiểm trở, anh nói, chứ không hiền lành và náo nhiệt như Đan Mạch. Người ta đến đó vì phong cảnh và không khí trong sạch. Nếu lúc nào cô ước muốn đến anh sẽ lấy làm vinh dự đưa cô đi viếng xung quanh.

“Ở đó có tảng đá màu xanh hiếm quý nhất”, anh nói. “Họ gọi là đá cẩm thạch màu xanh. Nó được đập bể ra và đánh bóng làm trang sức cho phụ nữ đeo cổ. Nếu cô muốn có một cái -“

Ông nói chuyện điên rồ vì có điều gì đó anh muốn nói nhưng không thể. Cô nhận thấy được.

Họ sắp sửa đến Rostock. Anh càng lúc càng trở nên lo âu hơn. Cô sợ anh sẽ yêu cầu cô ký tên trên một mảnh giấy hoặc một cuốn sách mà anh mang theo. Thật rất hiếm khi ai làm điều đó, nhưng nó luôn luôn làm cho cô cảm thấy buồn, không hiểu vì sao.

“Cô làm ơn nghe tôi,” anh nói. “Một điều tôi phải nói với cô. Đúng ra tôi không có quyền nói đến. Xin cô vui lòng. Trên đường cô đến Thụy Điển, xin cô đừng đi Copenhagen. Cô không nên sợ hải, tâm trí tôi hoàn toàn sáng suốt.”

“Tôi không sợ hãi,” cô nói. Mặc dù cô cảm thấy một chút.

“Cô phải đi một con đường khác, qua Quần Đảo Đan Mạch. Cô nên đổi vé trong nhà ga.”

“Tôi có thể hỏi tại sao? Có chuyện gì ở Copenhagen?”

Đột nhiên cô chắc chắn là anh sẽ nói với cô về một âm mưu, một quả bom.

Vậy, anh ta là một người vô chính phủ?

“Có bệnh đậu mùa ở Copenhagen. Một bệnh dịch. Nhiều người đã rời thành phố, nhưng chính quyền đang cố gắng giữ im lặng. Họ sợ một cơn hoảng loạn hoặc một số người sẽ đốt cháy các tòa nhà chính phủ. Vấn đề là người Phần Lan. Người ta nói người Phần Lan đã mang bệnh đến. Họ không muốn dân chúng nơi đây chống lại những người tị nạn Phần Lan. Hoặc chống lại chính quyền đã cho họ vào.”

Xe lửa dừng lại và Sophia đứng lên, kiểm soát túi xách của mình.

“Cô hứa với tôi. Cô đừng đi mà không hứa với tôi.”

“Tốt lắm,” Sophia nói. “Tôi hứa.”

“Cô sẽ lấy chiếc phà đến Gedser. Tôi sẽ đi với cô đổi vé nhưng tôi phải tiếp tuc đi Rutgen.”

“Tôi hứa.”

Có phải là anh làm cô nhớ đến Vladimir? Vladimir trong những ngày đầu. Không phải những đặc tính của anh, mà sự chăm sóc cầu khẩn cho cô. Liên tục khiêm tốn và cứng đầu.

Anh đưa tay ra và cô đưa tay cho anh bắt, nhưng đó không phải là ý định duy nhất của anh. Anh đặt trong lòng bàn tay cô một viên thuốc nhỏ, nói: “Cái này sẽ giúp cô nghỉ ngơi một chút nếu cô thấy cuộc hành trình mệt mỏi.”

Tôi sẽ phải nói chuyện với vài người có trách nhiệm về dịch bệnh đậu mùa này, cô quyết định.

Nhưng cô không làm. Người đàn ông đổi vé cho cô khó chịu khi phải làm một điều quá phức tạp và sẽ còn tức giận hơn nếu cô đổi ý. Lúc đầu ông dường như chỉ trả lời bằng tiếng Đan Mạch thôi, sử dụng bởi những người hành khách khác, nhưng khi ông đã hoàn tất thủ tục cho cô, ông nói bằng tiếng Đức rằng chuyến đi bây giờ sẽ lâu hơn nhiều, cô có hiểu không? Sau đó cô nhận ra là họ vẫn còn ở Đức và có thể ông không biết gì về Copenhagen – cô đã nghĩ đến chuyện gì?

Ông nói thêm một cách ủ rũ rằng trời đang tuyết trên các hòn đảo.

Chiếc phà nhỏ của Đức đi Gedser được sưởi ấm, mặc dù hành khách phải ngồi trên ghế ván gỗ. Cô sắp sửa nuốt viên thuốc, nghĩ rằng có thể những chiếc ghế này làm anh liên tưởng đến cuộc hành trình mệt nhọc. Nên cô chưa uống mà cất lại, phòng khi say sóng.

Cô lấy chuyến xe lửa địa phương trang bị ghế hạng nhì bình thường cho dù xơ xác. Tuy nhiên, trên xe lạnh, với một cái lò đầy khói gần như vô dụng ở một đầu của chiếc xe.

Ông trưởng tàu này thân thiện hơn ông bán vé, và không có vẻ quá vội vàng. Biết rằng họ thực sự trong lãnh thổ của Đan Mạch, cô hỏi ông bằng tiếng Thụy Điển – mà cô nghĩ có thể gần giống tiếng Đức hơn tiếng Đan Mạch – để biết có phải thật là có bệnh xảy ra ở Copenhagen. Ông trả lời rằng không, xe lửa cô đi không đến Copenhagen.

Dường như ông chỉ biết nổi tiếng Thụy Điển mấy chữ “xe lửa” và “Copenhagen”.

Trên chuyến xe này tất nhiên là không có ngăn, chỉ có hai toa với băng ghế gỗ. Một số hành khách đã mang theo gối riêng, chăn và áo choàng để quấn vào người. Họ không nhìn Sophia, càng không muốn gợi chuyện với cô. Có ích lợi gì nếu họ làm? Cô sẽ không thể hiểu hoặc trả lời được.

Cũng không có xe bán nước trà. Những gói bọc trong giấy dầu đã được mở ra, bánh mì lạnh lấy ra. Những lát bánh mì dầy, mùi pho mát thật nồng, những miếng thịt mỏng xông khói chín lạnh, đâu đó một con cá trích. Một người phụ nữ lấy ra một cái nĩa từ một cái túi trong quần áo và ăn cải muối đựng trong một cái hủ. Làm cho Sophia nhớ nhà, nhớ nước Nga.

Nhưng đây không phải là nông dân Nga. Không ai trong số họ say rượu, hay ba hoa, hay cười. Họ ngồi cứng như bảng gỗ. Ngay cả chất béo phủ đầy xương của một vài người cũng là chất béo cứng, tự trọng, chất béo của người giáo phái Lutheran. Cô không biết gì về họ.

Nhưng thực sự cô biết gì về người nông dân Nga, những nông dân ở Palibino, khi nói đến họ? Họ luôn luôn dựng lên một màn tốt hơn cho họ.

Ngoại trừ có lẽ một lần, ngày chủ nhật khi tất cả người làm và người chủ phải đi đến nhà thờ để nghe đọc bản Tuyên Ngôn. Sau đó tinh thần mẹ của Sophia hoàn toàn sụp đổ và bà rên rỉ kêu lên: “Bây giờ chúng ta sẽ như thế nào? Các con tội nghiệp của tôi sẽ như thế nào?” Ông Đại Tướng đưa bà vào phòng làm việc của ông để an ủi bà. Aniuta ngồi xuống để đọc một trong những cuốn sách của cô, và Feodor đứa em trai nhỏ chơi với các khối xếp hình. Sophia đi tới đi lui, xuống nhà bếp, nơi các người làm trong nhà và thậm chí ngoài đồng đang ăn bánh và vui mừng – nhưng một cách khá trang nghiêm, như thể đó là ngày thánh. Một ông già có công việc duy nhất là quét sân cười và gọi cô là Little Missus. “Đây rồi Little Missus đến để chúc tốt chúng ta.” Sau đó, một số cổ vũ cho cô. Họ thật dễ chịu, cô nghĩ, mặc dù cô hiểu họ đùa giỡn.

Ngay lúc ấy bà gia sư xuất hiện với một khuôn mặt giống như một đám mây đen và mang cô đi.

Sau đó mọi chuyện tiếp tục gần như bình thường.

Jaclard nói với Aniuta cô không bao giờ có thể là một nhà cách mạng thực sự, cô chỉ giỏi rút tiền từ cha mẹ tội phạm của cô. Còn về Sophia và Vladimir (Vladimir là người đã cứu anh ta khỏi cảnh sát), họ là ký sinh trùng lấy vẻ chìm đắm trong những nghiên cứu vô giá trị của họ.

Mùi bắp cải và cá trích làm cho cô muốn bệnh.

Tại một địa điểm xa hơn xe lửa ngừng lại và họ yêu cầu tất cả mọi người đi xuống. Ít nhất đó là điều cô phỏng đoán, từ tiếng hét của ông trưởng tàu và nhóm người lô nhô miễn cưỡng đứng lên và tuân theo. Họ ra ngoài đứng trong tuyết cao đến đầu gối, không có một thị trấn hay bến dừng nào gần đó và những ngọn đồi trắng mịn xung quanh họ, hiện ra lờ mờ qua màn tuyết nhẹ rơi. Trước đầu xe lửa những người đàn ông đang xúc tuyết quá nhiều chắn ngang làm cắt đường rầy. Sophia đi tới đi lui để giữ chân không bị đóng băng trong đôi giày ống mỏng mảnh, chỉ đủ ấm đi phố chứ không phải để mang ở đây. Các hành khách khác đứng yên, và không ai bình luận gì về tình hình.

Sau nửa giờ, hoặc có lẽ chỉ mười lăm phút, đường rầy được dọn sạch và hành khách leo lên tàu trở lại. Thật là một bí ẩn đối với tất cả mọi người, kẻ cả Sophia, đầu tiên tại sao họ phải ra khỏi xe, thay vì ngồi chờ đợi tại chỗ, nhưng tất nhiên không ai phàn nàn. Và họ tiếp tục đi, trong bóng tối, và có cái gì khác hơn ngoài tuyết chạy theo qua cửa sổ. Một tiếng cào ghê rợn trên cửa kiến. Mưa đá.

Sau đó, ánh đèn mờ của một ngôi làng hiện ra, và một số hành khách đứng lên, tuần tự quấn khăn cột áo kín lại và nhặt các túi xách, gối đồ và leo xuống tàu, biến mất. Cuộc hành trình lại tiếp tục, nhưng trong một thời gian ngắn tất cả mọi người được lệnh đi xuống một lần nửa. Lần này không phải vì những đống tuyết. Họ bị dồn lên một chiếc thuyền, một chiếc phà nhỏ khác, mang họ ra vùng nước đen. Cổ họng của Sophia bây giờ rất đau đến độ cô chắc chắn không thể nói được nếu cần.

Cô không hề biết chuyến đi này sẽ kéo dài bao lâu. Khi họ cập bến mọi người phải vào một nhà kho ba mặt, với rất ít chỗ trú ẩn và không có ghế. Một chuyến xe lửa đến sau một thời gian chờ đợi cô không biết là bao lâu nửa. Và khi chiếc tàu này đến, Sophia thầm cảm ơn, mặc dù nó không ấm hơn và cũng có những băng ghế gỗ giống như chuyến đầu tiên. Hình như người ta chỉ đánh giá cao những tiện nghi khiêm tốn, nếu trước đó họ đã trải qua nhiều đau khổ. Và không phải là, cô muốn nói với ai đó, một bài giảng thê lương sao?

Một lát sau họ dừng lại ở một thị trấn lớn hơn, trạm đó có một quầy ăn uống tự chọn. Cô quá mệt mỏi để đi xuống và theo một số hành khách, mang về những tách cà phê bốc khói. Tuy nhiên, người phụ nữ ăn bắp cải, mang về hai tách, và bà đưa một cái cho Sophia. Sophia mỉm cười và cố gắng thể hiện lòng biết ơn. Người phụ nữ gật đầu như cho cô biết không cần thiết, thậm chí không thích hợp. Nhưng bà ta cứ đứng đó cho đến khi Sophia lấy ra các đồng tiền Đan Mạch mà người bán vé đã đưa lại cho cô. Bây giờ người phụ nữ, cằn nhằn, chọn ra hai đồng với ngón tay mang bao ẩm ướt của bà. Có lẽ tiền cà phê. Lòng tốt của bà khi mang đến thì không tính tiền. Đó là cách xử sự. Không nói một lời người phụ nữ sau đó trở về chỗ ngồi của mình.

Vài hành khách mới lên xe. Một người phụ nữ với đứa trẻ khoảng bốn tuổi, một bên mặt của nó băng bó và một cánh tay treo trong miếng vải. Một tai nạn, chắc họ đi đến một bệnh viện trong vùng. Một lỗ nhỏ trong miếng băng cho thấy con mắt tối u buồn. Đứa bé đặt bên má nguyên vẹn xuống người của mẹ nó và cô lấy một phần của khăn choàng phủ lên cơ thể cho nó. Cô làm điều này một cách không phải đặc biệt trìu mến hoặc lo âu, nhưng có vẻ tự động. Một cái gì đó không tốt đã xảy ra, cô cần phải chăm lo nhiều hơn, chỉ vậy thôi. Và mấy đứa trẻ đang chờ ở nhà, và có lẽ một đứa trong bụng cô nửa.

Thật là khủng khiếp, Sophia nghĩ. Thật khủng khiếp là có rất nhiều phụ nữ. Và người phụ nữ này có thể nói cái gì nếu Sophia kể với cô về những cuộc đấu tranh mới, cuộc chiến đấu của phụ nữ cho quyền bỏ phiếu và chỗ ngồi trong các trường đại học? Cô ấy có thể nói, nhưng đó không phải là ý muốn của Chúa. Và nếu Sophia kêu gọi cô từ bỏ Chúa và làm cho tâm trí cô sắc bén, cô ấy có nhìn cô – Sophia – với một vẻ tội nghiệp cứng đầu nào đó không, và thất vọng, cô nói, không có Chúa, như vậy chúng ta làm thế nào để vượt qua trong cuộc sống này?

Họ băng qua vùng nước đen một lần nửa, lần này trên một cây cầu dài, dừng lại ở một ngôi làng khác và người phụ nữ cùng đứa bé đi xuống. Sophia không còn quan tâm, không nhìn nếu có ai chờ họ không, cô đang cố gắng xem đồng hồ bên ngoài nhà ga, thắp sáng bởi đèn xe lửa. Cô đoán có lẽ gần nửa đêm, nhưng chỉ quá mười giờ thôi.

Cô đang nghĩ đến Maksim. Không biết Maksim có bao giờ đáp một chuyến xe lửa như thế này trong cuộc đời của anh chưa? Cô tưởng tượng đầu cô dựa thoải mái trên vai rộng lớn của anh – mặc dù thật sự anh không ngại điều này, ở nơi công cộng. Áo khoác bằng vải đắt tiền của anh, mùi tiền bạc và thoải mái. Những điều tốt đẹp anh tin có quyền mong đợi và trách nhiệm duy trì, mặc dù anh là một nguoi Tự Do không được tiếp đón trong chính đất nước của anh. Anh có sự an tâm kỳ diệu đó, mà cha cô đã có, cô có thể cảm thấy khi là một cô bé rút vào vòng tay của ông và muốn suốt đời được như vậy. Tất nhiên là điều này thú vị hơn nếu họ yêu cô, nhưng cũng an ủi khi đó chỉ là một loại giao ước cao quý cổ xưa mà họ đã thực hiện, một liên kết đã được ký, cần thiết dù không nhiệt tình, để bảo vệ cô.

Họ sẽ không hài lòng khi có ai gọi họ ngoan ngoãn, nhưng chính họ như vậy. Họ khuất phục trước hành vị của người đàn ông. Với tất cả các rủi ro và sự tàn ác của nó, những gánh nặng phức tạp và gian lận cố tình. Những quy luật của nó, mà trong một số trường hợp, bạn được hưởng lợi, như một người phụ nữ, và một số thì không.

Bây giờ cô đã có một hình ảnh của anh – Maksim, không che chở cho cô gì cả nhưng sải bước qua nhà ga ở Paris như một người đàn ông thích hợp với một cuộc sống riêng tư.

Cái nón chỉ huy, sự đảm bảo lịch sự của anh.

Điều đó đã không xảy ra. Không phải là Maksim. Chắc chắn không phải.

Vladimir không phải là một kẻ hèn nhát – nhìn anh đã cứu Jaclard thế nào – nhưng anh đã không có sự chắc chắn của nam tính. Đó là lý do tại sao anh có thể cho cô một số bình đẳng mà những người khác không thể và tại sao anh không bao giờ có thể mang lại cho cô sự ấm áp và an toàn. Sau đó, cuối cùng khi anh chịu ảnh hưởng nhóm Ragozin và thay đổi thái độ – tuyệt vọng như anh và nghĩ rằng anh có thể tự cứu mình bằng cách bắt chước những người khác – anh đã chuyển sang đối xử với cô một cách không thuyết phục, thậm chí vô lý, oai vệ. Anh đã cho cô sau đó một cái cớ để khinh anh, nhưng có lẽ cô đã xem thường anh từ lâu rồi. Cho dù anh tôn thờ hay xúc phạm cô, cô không thể nào yêu anh được.

Như Aniuta yêu Jaclard. Jaclard ích kỷ, tàn nhẩn và không chung thủy và thậm chí trong khi cô ghét anh ta, cô vẫn yêu anh.

Những ý nghĩ thật xấu và buồn có thể xuất hiện, nếu chúng không được đè nén.

Khi cô nhắm mắt lại, cô nghĩ cô nhìn thấy anh – Vladimir – ngồi trên băng ghế đối diện với cô, nhưng không phải là Vladimir, đó là người bác sĩ từ Bornholm, đó chỉ là trí nhớ của cô về ông ta, van lơn và hoảng hốt, cố gắng một cách say sưa khiêm tốn xen vào cuộc đời của cô.

Đến một lúc – chắc chắn là gần nửa đêm – họ phải rời chuyến xe lửa này luôn. Họ đã đến biên giới của Đan Mạch. Helsingor. Biên giới trên đất liền, ít nhất – cô đoán biên giới thực sự là một nơi nào đó trong vùng Kattegat.

Và ở đó chuyến phà cuối cùng chờ đợi họ, nó có vẻ lớn và dễ chịu với nhiều ánh đèn sáng. Và ở đây một người đến mang những túi xách của cô lên tàu, cảm ơn khi cô cho mấy đồng tiền Đan Mạch và anh vội vã bỏ đi. Sau đó, cô đưa vé cho nhân viên trên tàu và ông nói với cô bằng tiếng Thụy Điển. Ông đảm bảo họ sẽ liên lạc ở bên kia với chuyến xe lửa đi Stockholm. Cô sẽ không phải qua đêm trong một phòng chờ đợi.

“Tôi cảm thấy như tôi đã trở lại với nền văn mình”, cô nói với ông. Ông nhìn cô hơi lo âu. Giọng nói của cô khàn, mặc dù cà phê đã giúp cổ họng. Chỉ bởi vì ông là một người Thụy Điển, cô nghĩ. Không cần thiết để mỉm cười hoặc có những nhận xét giữa người Thụy Điển. Văn mình vẫn có thể duy trì được.

Chuyến đi hơi khó khăn, nhưng cô không say sóng. Cô nhớ viên thuốc nhưng cô không cần nó. Và chiếc tàu chắc được sưởi nóng, bởi vì một số người đã cởi ra lớp ngoài quần áo mùa đông. Nhưng cô vẫn rùng mình. Có lẽ cô cần rùng mình, cô đã thu thập quá nhiều cơn lạnh trong cơ thể suốt cuộc hành trình qua Đan Mạch. Nó đã lưu trữ bên trong người cô, cơn lạnh, và bây giờ cô có thể rùng mình để nó thoát ra.

Chuyến xe lửa đi Stockholm đang chờ đợi, như đã hứa, tại bến cảng náo nhiệt của Helsingborg, sống động hơn rất nhiều và lớn hơn so với cảng có tên tương tự ở bờ bên kia. Người Thụy Điển có thể không mỉm cười với bạn, nhưng thông tin họ đưa ra chính xác. Một người đến mang các túi đồ của cô và giữ chúng trong khi cô tìm kiếm trong ví của cô vài đồng tiền. Cô lấy ra một đống thật nhiều và đặt vào tay ông ta, nghĩ rằng đó là tiền Đan Mạch, cô sẽ không cần nửa.

Đó là tiền Đan Mạch. Ông ta đưa lại cho cô, nói tiếng Thụy Điển, “Không nhận tiền này.”

“Tôi chỉ có bấy nhiêu thôi”, cô la lên, nhận thức hai điều. Cổ họng cô đỡ hơn và thực sự cô không có tiền Thụy Điển.

Ông bỏ các túi xách của cô xuống và bỏ đi.

Tiền Pháp, tiền Đức, tiền Đan Mạch. Cô đã quên tiền Thụy Điển.

Xe lửa sửa soạn khởi hành, hành khách lên xe, trong khi cô vẫn đứng đó trong tình thế khó khăn. Cô không thể mang các túi xách của cô. Nhưng nếu không, chúng sẽ bị bỏ lại.

Cô nắm lấy mấy sợi dây đai và bắt đầu chạy. Cô chạy loạng choạng và thở hổn hển với một cơn đau ở ngực và xung quanh dưới cánh tay và các túi chạm vào chân cô. Có những bực thang phải leo lên. Nếu cô dừng lại để thở cô sẽ bị trễ. Cô leo lên. Với những giọt nước mắt tủi thân cô cầu khẩn cho xe lửa không di chuyển.

Và nó không chạy. Cho đến khi ông trưởng tàu, nghiêng người ra để khóa cửa, bắt cánh tay cô, tiếp theo bằng một cách nào đó đã chụp được các túi xách của cô và kéo tất cả lên tàu.

Một khi được cứu, cô bắt đầu ho. Cô cố gắng ho một cái gì đó ra khỏi ngực. Cơn đau, ra khỏi ngực cô. Cơn đau và tức ra khỏi cổ họng cô. Nhưng cô phải đi theo ông trưởng tàu đến toa xe của cô, và cô đã cười với chiến thắng giữa những cơn ho. Ông trưởng tàu nhìn vào một toa đã có một số người ngồi rồi, sau đó đưa cô đến một toa trống.

“Ông làm đúng. Đưa tôi vào một chỗ mà tôi không thể. Làm phiền ai,” cô nói, tươi cười rạng rỡ. “Tôi không có tiền. Tiền Thụy Điển. Tất cả các loại tiền ngoài tiền Thụy Điển. Tôi phải chạy. Tôi không bao giờ nghĩ tôi có thể-“

Ông nói cô ngồi xuống và tiết kiệm hơi thở của cô. Ông đi ra và trở lại ngay với một ly nước. Khi cô uống cô nghĩ đến viên thuốc và lấy nó ra uống với ngụm nước cuối cùng. Cơn ho giảm xuống.

“Cô không được làm như vậy nửa,” ông nói. “Ngực của cô đập lên xuống quá mạnh.”

Người Thụy Điển rất thẳng thắn, cũng như là kín đáo và đúng giờ.

“Chờ đã,” cô nói.

Như có điều gì khác cần được xác nhận, gần giống như là nếu chuyến tàu không thể đưa cô đến đúng nơi vậy.

“Chờ một chút. Ông có nghe nói về…? Ông có nghe có bệnh đậu mùa? Tại Copenhagen?”

“Tôi không nghĩ vậy,” ông nói. Ông gật đầu một cách nghiêm trọng mặc dù lịch sự và đi ra.

“Cảm ơn ông. Cảm ơn ông,” cô nói với ông.

Sophia chưa bao giờ say rượu trong cuộc đời của cô. Bất cứ loại thuốc nào cô dùng, có thể làm rối loạn não, đã đưa cô vào giấc ngủ trước khi sự xáo trộn đó có thể xảy ra. Vì vậy, cô không có gì để so sánh cảm giác kỳ dị – sự thay đổi nhận thức – đang lướt qua người cô bây giờ. Lúc đầu, nó có thể chỉ dễ chịu, một cảm giác lớn mặc dù điên khùng được ưu đãi, bởi vì cô đã cố gắng mang các túi xách và chạy lên những bực thang và bắt kịp chuyến xe lửa. Và sau đó cô đã sống sót qua cơn ho và sức ép của trái tim và có thể bằng cách nào đó không để ý đến cổ họng.

Nhưng nhiều hơn nửa, tựa như trái tim của cô có thể tiếp tục mở rộng ra, lấy lại tình trạng bình thường của nó, và tiếp tục sau đó phát triển nhẹ nhàng và tươi hơn và thổi phòng những điều gần như một cách khôi hài. Ngay cả bệnh dịch tại Copenhagen bây giờ có thể trở thành một cái gì đó giống như một dịch bệnh trong một bản nhac, của một câu chuyện cũ. Tựa như cuộc sống của chính cô, những va chạm và nỗi buồn của nó biến thành ảo tưởng. Những sự kiện và ý tưởng bây giờ mang một hình dạng mới, nhìn qua những mảnh thông minh rõ ràng của một cái kính biến chuyển.

Có một kinh nghiệm khiến cô nhớ đến. Đó là trở ngại đầu tiên của cô về môn lượng giác, khi cô mười hai tuổi. Giáo sư Tyrtov, một người hàng xóm ở Palibino, đã mang đến văn bản mới ông đã viết. Ông nghĩ cha của cô, ông Đại Tướng có thể quan tâm đến, với kiến thức của ông về pháo binh. Cô tìm thấy trong phòng làm việc và mở ra một cách tình cờ vào chương viết về quang học. Cô bắt đầu đọc và nghiên cứu các sơ đồ và cô đã tự thuyết phục rằng một thời gian ngắn nửa, cô sẽ có thể hiểu được. Cô chưa bao giờ nghe nói về sin hay cô sin, nhưng bằng cách thay thế sợi dây của một vòng cung cho sin, và với cơ hội may mắn trong những góc nhỏ chúng gần như trùng hợp, cô có thể đột nhập vào cái ngôn ngữ mới và thú vị này.

Cô không ngạc nhiên lắm lúc đó, mặc dù cô vô cùng mừng rỡ.

Những khám phá như vậy sẽ xảy ra. Toán học là một món quà tự nhiên, giống như ánh sáng chiếu từ phương bắc. Nó không lẫn lộn với bất cứ cái gì khác trên thế giới, không với văn kiện, giải thưởng, đồng nghiệp và bằng cấp.

Ông trưởng tàu đánh thức cô dậy trước khi tàu đến Stockholm. Cô hỏi, “Hôm nay là ngày thứ mấy?”

“Ngày thứ sáu.”

“Tốt. Tốt, tôi sẽ có thể đến giảng dạy.”

“Cô hãy chăm sóc sức khỏe của cô.”

Lúc hai giờ cô đứng đằng sau bục và giảng một cách đắc lực và mạch lạc, không một cơn đau hoặc ho. Tiếng khàn nhạy cảm đeo đuổi cô suốt chuyến, đi trong người cô, không ảnh hưởng đến giọng nói của cô. Và cổ họng dường như tự nó đã khỏi. Khi xong buổi dạy, cô trở về nhà thay đổi áo và lấy một chiếc taxi đến buổi tiếp tân mà cô đã được mời, tại nhà của gia đình Guldens. Cô thật vui, nói về ấn tượng rực rỡ của nước Ý và miền Nam nước Pháp, mặc dù không đề cập đến chuyến về Thụy Điển. Sau đó, cô rời khỏi phòng mà không cần cáo lỗi và đi ra ngoài. Cô có quá nhiều những ý tưởng sáng sủa và đặc biệt để có thể nói chuyện với ai lâu hơn nửa.

Trời đã tối, tuyết rơi, không có gió, đèn đường phố to lớn như bóng đèn tròn Giáng Sinh. Cô nhìn quanh tìm một chiếc taxi nhưng không có. Một chiếc buýt chạy qua và cô vẫy tay cho nó ngừng. Người tài xế nói với cô đây không phải là một trạm dừng theo lịch trình.

“Nhưng ông dừng lại,” cô nói một cách tự nhiên.

Cô không biết đường phố Stockholm nhiều gì cả, vì vậy một lát sau cô mới nhận thấy cô đã đi ngược hướng trong thành phố. Cô cười khi cô giải thích điều này cho người tài xế, và ông để cô xuống đi bộ về nhà trong màn tuyết với chiếc áo đi tiệc và áo choàng mỏng mảnh cùng đôi dép của cô. Vỉa hè thật im lặng tuyệt vời và trắng xóa. Cô phải đi bộ khoảng một dặm, nhưng rất hài lòng khi khám phá ra dù sao cô biết đường. Chân của cô đã thấm ướt nhưng cô không lạnh. Cô nghĩ có thể là vì không có gió, và sự say mê trong tâm trí và cơ thể mà cô chưa bao giờ nhận thức được từ trước, nhưng chắc chắn là cô có thể trông cậy vào đó kể từ bây giờ. Nó có thể không được bình thường để nói như vậy, nhưng thành phố giống như một thành phố trong một câu chuyện cổ tích.

Ngày hôm sau, cô nằm trên giường, và gửi một tin nhắn đến người bạn đồng nghiệp Mittag-Leffler yêu cầu anh gọi bác sĩ của anh đến gặp cô, vì cô không có ai. Anh cũng đến nửa, và trong buổi viếng thăm dài, cô nói một cách vô cùng phấn khích về một công việc toán học mới cô dự định làm. Dự án tham vọng hơn, quan trọng hơn, đẹp hơn bất cứ cái gì đã từng xảy ra cho cô đến thời điểm này.

Ông bác sĩ nghĩ cô có vấn đề về thận, và để lại cho cô một số thuốc.

“Tôi quên hỏi ông ta,” Sophia nói khi ông đã đi.

“Hỏi ông cái gì?” Mittag-Leffler hỏi.

“Có phải ở Copenhagen có bệnh dịch?”

“Cô đang mơ”, Mittag-Leffler nhẹ nhàng nói. “Ai nói với cô điều đó vậy?”

“Một người đàn ông mù”, cô nói. Sau đó, cô sửa lại, “Không, tôi muốn nói tốt. Người đàn ông tốt bụng.” Cô vẫy tay cố gắng làm một số hình dạng phù hợp hơn lời nói. “Tiếng Thụy Điển của tôi”, cô nói.

“Cô đợi lúc nào khỏe hơn hẳn nói chuyện.”

Cô mỉm cười và sau đó có vẻ buồn. Cô nói một cách nhấn mạnh, “Chồng tôi”.

“Người hôn phu của cô? A, ông chưa phải là chồng của cô. Tôi chọc cô. Cô có muốn anh ta đến không?”

Nhưng cô lắc đầu. Cô nói: “Không phải anh ấy. Bothwell.”

“Không. Không. Không, “cô nói nhanh. “Người khác.”

“Cô phải nghỉ ngơi.”

Teresa Gulden và con gái Elsa đã đến, Ellen Key cũng vậy. Họ thay phiên nhau chăm nuôi cô. Sau khi Mittag-Leffler đã đi, cô ngủ một chút. Khi cô tỉnh dậy, cô lại nói nhiều, nhưng không đề cập đến một người chồng. Cô nói về cuốn tiểu thuyết của cô, và về cuốn sách hồi ức tuổi trẻ của cô ở Palibino. Cô nói cô có thể làm điều gì đó tốt hơn bây giờ và bắt đầu mô tả ý tưởng của cô cho một câu chuyện mới. Cô trở thành lẫn lộn và cười vì cô không nói điều này rõ ràng hơn. Có một chuyển động đi lui rồi đi tới, cô cho biết, có một sự rung động trong cuộc sống. Hy vọng của cô là trong phần này của văn bản cô sẽ khám phá những gì đã tiếp tục. Một cái gì đó nằm bên dưới. Được phát mình, nhưng không phải.

Cô muốn nói cái gì vậy? Cô cười.

Cô cho biết đầu cô tràn ngập những ý tưởng ở một chiều rộng và tầm quan trọng hoàn toàn mới nhưng rất tự nhiên và hiển nhiên đến độ cô không thể nhịn cười.

Cô bịnh nặng hơn ngày chủ nhật. Cô gần như không thể nói, nhưng nhấn mạnh muốn nhìn thấy Fufu trong bộ quần áo mà bé sẽ mặc đi dự một buổi tiệc dành cho trẻ em.

Đó là một bộ quần áo của người Gypsy, và Fufu nhảy múa xung quanh giường của mẹ nó.

Thứ hai Sophia hỏi Teresa Gulden để chăm sóc Fufu.

Tối hôm đó cô cảm thấy khỏe hơn, và một y tá đến thay thế cho Teresa và Ellen nghĩ ngơi.

Trong những giờ đầu của buổi sáng Sophia thức dậy. Teresa và Ellen đã được đánh thức khỏi giấc ngủ và họ gọi Fufu dậy để đứa trẻ có thể nhìn thấy mẹ nó còn sống thêm một lần nửa. Sophia chỉ có thể nói một chút.

Teresa nghĩ nghe cô ấy nói, “Quá nhiều hạnh phúc.”

Cô qua đời khoảng bốn giờ. Việc khám nghiệm cho thấy phổi của cô hoàn toàn bị tàn phá bởi bệnh viêm phổi và tim của cô biểu hiện vấn đề đã từ nhiều năm qua. Não của cô, như tất cả mọi người đoán trước, rất lớn.

Người bác sĩ từ Bornholm đọc về cái chết của cô trên báo chí, không có gì ngạc nhiên. Ông có thỉnh thoảng những linh tính, đáng lo ngại cho một người trong nghề nghiệp của ông, và không nhất thiết đáng tin cậy. Ông đã nghĩ rằng tránh đi Copenhagen sẽ giúp cho cô. Ông tự hỏi nếu cô đã uống viên thuốc ông cho, và nếu nó đã mang niềm an ủi đến cho cô, như ông đã cảm thấy, khi cần.

Sophia Kovalevsky được chôn cất tại một nơi lúc đó được gọi là Nghĩa Trang Mới, ở Stockholm, lúc ba giờ trưa một ngày vẫn còn lạnh khi hơi thở của những người đưa tiễn và người xem biến thành những đám mây trong không khí giá lạnh.

Một vòng hoa nguyệt quế của Weierstrass được gởi đến. Ông đã nói với các em rằng ông biết sẽ không bao giờ gặp lại cô ấy.

Ông sống sáu năm nửa.

Maksim đến từ Beaulieu, được thông báo bằng điện tín của Mittag-Leffler trước cái chết của cô. Ông đến kịp lúc để nói chuyện trong tang lễ, bằng tiếng Pháp, đề cập đến Sophia như một giáo sư ông đã từng quen biết, và đại diện cho quốc gia Nga, ông cảm ơn quốc gia Thụy Điển đã cho cô một cơ hội để kiếm sống (để sử dụng kiến thức của cô một cách xứng đáng, ông nói) như một nhà toán học.

Maksim không lấy vợ. Ông được phép sau một thời gian để trở về quê hương, giảng dạy tại Petersburg. Ông thành lập Đảng Cải Cách Dân Chủ ở Nga, tham gia vào chế độ quân chủ lập hiến. Những người theo hoàng gia Nga nhận thấy ông quá tự do. Lenin, tuy nhiên, lên án ông là một phản động.

Fufu hành nghề y khoa tại Liên Xô, mất ở đó vào khoảng ngoài năm mươi tuổi của thế kỷ thứ hai mươi. Cô không thich toán học, theo lời cô nói.

Tên của Sophia đã được đặt cho một chổ trủng trên mặt trăng.

Hết

Bình luận