Cỗ xe lìa khách điếm. Trên xe chất những vò rượu đầy ăm ắp.
Lẽ tự nhiên là số rượu mua bằng món tiền năm mươi lạng của gã thiếu niên.
Hắn rót từng chén đầy và uống từng ngụm lớn.
Lý tầm Hoan nhìn hắn bằng đôi mắt ưa thích và hắn cũng đang cao hứng.
Mặt đất đã đóng một lớp tuyết khá dầy. Tuyết đã đóng cứng hơn mặt kiếng. Gã đánh xe đã phải tra những bộ móng gắn chân đặc biệt vào chân ngựa và bánh xe cũng được quấn thêm sợi dây lòi tói sắt xung quanh.
Mặt băng tuyết tuy trơn nhưng cỗ xe lăn rất ổn.
Gã thiếu niên vụt buông chén rượu và ngó Lý tầm Hoan:
– Tại sao các hạ muốn tôi lên xe này uống rượu?
Lý tầm Hoan cười:
– Bởi vì khách điếm không phải là chỗ có thể ở lâu?
Gã thiếu niên hỏi:
– Tai sao thế?
Lý tầm Hoan nói:
– Sau khi giết người, bất cứ ai cũng dễ bị phiền hà. Tôi không sợ giết người nhưng bình sinh ghét việc gì phiền phức lắm.
Lặng thinh một lúc, gã thiếu niên lại thò chén vào hũ rượu múc một chén đầy, ngước cổ tu thẳng một hơi.
Lý tầm Hoan nhìn hắn mỉm cười, một thái độ tán thưởng của người uống rượu.
Lặng thinh một lúc nữa, gã thiếu niên lại thở ra:
– Giết người, đúng ra là một chuyện chẳng phải sung sướng gì, nhưng có một số người thiệt cần phải giết. Tôi không giết người không được.
Lý tầm Hoan mỉm cười:
– Túc hạ có thật vì năm mươi lượng nên mới giết Bạch xà không?
Gã thiếu niên đáp:
– Không có năm mươi lượng tôi cũng phải giết hắn. Nhưng giết hắn mà có năm mươi lượng thì lại càng hay.
Lý tầm Hoan hỏi:
– Nhưng làm sao chỉ cần năm mươi lượng thôi?
Gã thiếu niên nói:
– Bởi gì hắn chỉ đáng giá năm mươi lượng!
Lý tầm Hoan cười:
– Trong giang hồ còn lắm người đáng giết, và có nhiều kẻ có lẽ giá trị hơn năm mươi lượng, vì thế mà sau này có lẽ túc hạ sẽ trở thành đại phú ông và có lẽ tôi sẽ lại có rượu uống thường thường.
Gã thiếu niên nói:
– Chỉ tiếc vì tôi bây giờ quá nghèo, nếu không thì tôi cũng sẽ trao các hạ năm mươi lượng.
Lý tầm Hoan hỏi:
– Vì sao?
Gã thiếu niên nói:
– Mạng của Gia Cát Lôi.
Lý tầm Hoan cười:
– Mạng của hắn không đáng một xu.
Và Lý tầm Hoan lại hỏi:
– Túc hạ có biết vì sao Gia Cát Lôi muốn giết túc hạ không?
Gã thiếu niên lắc đầu:
– Hành động của gã thật là khó hiểu.
Lý tầm Hoan nói:
– Bích huyết song xà tuy không giết hắn, nhưng chuyện xảy ra đã làm cho hắn mất chỗ đứng trong giang hồ. Trong khi đó túc hạ lại giết Bạch xà thì hắn chỉ còn cách giết túc hạ mới mong được phục hồi danh dự. Chỉ có cách đó sau này hắn mới tự quảng cáo thành tích của hắn, mới có thể bảo với thiên hạ rằng hành động khuất phục trước Bạch xà chỉ vì ” tiểu bất nhẫn tất loại đa mưu “, bằng chứng không kém sút là hắn đã giết được kẻ đã giết được Bạch xà. Giang hồ thâm tâm hiểm ác lắm, có lẽ túc hạ không tưởng tượng được.
Gã thiếu niên gật đầu:
– Có lúc lòng người thâm độc hơn thú dữ. ác thú chỉ vì lẽ sinh tồn mà giết người, hành động của chúng nặng về tự vệ, con người giết người chỉ vì thú lợi, có khi không vì một lí do cần thiết chính đáng cũng cứ giết. Cho nên theo cho tôi biết thì người giết người có lẽ nhiều hơn thú dữ giết người.
Lý tầm Hoan nhìn gã thiếu niên một cái thật dài:
– Vì thế mà các hạ chỉ bằng lòng kết bạn với thú dữ phải không?
Lặng thinh một lát, gã thiếu niên nói:
– Chỉ tiếc là chúng không biết uống rượu.
Đây là lần thứ nhất mà Lý tầm Hoan thấy gã thiếu niên cười. Cười một cách hết sức thành thật. Sắc diện của gã do đó mà cũng đổi thay.
Gương mặt của gã là một gương mặt lạnh lùng cô độc, gương mặt mà vừa thấy Lý tầm Hoan đã liên tưởng đến một con chó sói tách rời một mình đi giữa vùng tuyết lạnh. Nhưng bây giờ, khi vành môi của gã điểm một nụ cười chân thật, thì gương mặt lạnh lùng của gã vụt trở nên nho nhã, thân thiết, khả ái phi thường.
Lý tầm Hoan chưa thấy một nụ cười nào đa cảm đến như thế.
Gã thiếu niên cũng nhìn sững Lý tầm Hoan. Gã hỏi thật chậm:
– Các hạ có phải là một con người rất có danh?
Lý tầm Hoan cười:
– Có danh không phải là một chuyện tốt.
Gã thiếu niên nói:
– Nhưng tôi hi vọng trở thành một kẻ nổi danh. Tôi hi vọng trở thành một kẻ rất có danh trong thiên hạ.
Lúc hắn nói câu này, vẻ mặt của hắn hết sức thật thà, thật thà y như một đứa trẻ nói đến một điều khao khát.
Lý tầm Hoan cười:
– Một con người, dù ngoài mặt trang bị bằng một gia tượng nào, trong thâm tâm cũng đều muốn được thành danh, cho đến những kẻ ngoài miệng luôn luôn tỏ ra vì một mục đích cao cả nào đó chứ chẳng cầu danh lợi cho mình. Túc hạ hơn người là nói một câu thành thật.
Gã thiếu niên lắc đầu:
– Không, tôi khác hơn sự cầu danh trong thiên hạ, vì tôi không thể không thành danh được, nếu không thành danh, tôi chỉ có con đường chết mà thôi.
Lý tầm Hoan hơi sửng sốt:
– Tại sao vậy?
Gã thiếu niên không trả lời, ánh mắt gã lộ một vẻ bi thương vô hạn.
Lý tầm Hoan chợt phát giác điều mới lạ. Gã thiếu niên này có lúc thật là ngây thơ như một đứa trẻ, nhưng có lúc lại y như sau bộ mặt đó đầy rẫy bất hạnh và bi thương.
Lý tầm Hoan dịu giọng:
– Túc hạ muốn thành danh thì điều trước hết là có lẽ phải cho mọi người biết hết danh tánh của mình.
Trầm ngâm một lúc khá lâu, gã thiếu niên kia mới nói chầm chậm:
– Những người quen biết tôi đều gọi tôi là Tiểu Phi.
Lý tầm Hoan cười:
– Tiểu Phi? ” Tiểu ” là tên họ à? Tôi rất ít nghe họ đó.
Gã thiếu niên lắc đầu:
– Tôi không có họ.
ánh mắt khi hắn nói đến câu ấy vụt hừng hững như ngọn lửa và Lý tầm Hoan thấy rằng ngọn lửa ấy không gì có thể dập tắt được do đó mà lòng nghĩ bất nhẫn không nỡ hỏi thêm.
Nhưng gã thiếu niên Tiểu Phi vụt nói tiếp:
– Chờ cho đến khi tôi thành danh, tôi sẽ công bố danh tánh, còn bây giờ…
Lý tầm Hoan nói thật dịu:
– Bây giờ cứ gọi là Tiểu Phi.
Tiểu Phi nói:
– Rất hay, bây giờ các hạ cứ gọi tôi là Tiểu Phi. Sự thật cho dù gọi tôi tên gì, cũng chẳng có gì đáng nói.
Lý tầm Hoan cười:
– Tiểu Phi, tôi xin kính túc hạ một chén.
Vừa mới cạn hớp đầu, Lý tầm Hoan đã gieo mình xuống ho sặc sụa, thế nhưng hắn vẫn điềm nhiên ngẩng mặt lên cạn nốt nửa chén còn thừa.
Tiểu Phi nhìn Lý tầm Hoan bằng đôi mắt hết sức kinh ngạc, hắn không đè một nhân vật hành hiệp giang hồ lại có thể chất suy nhược như thế này. Hắn chỉ nhìn nhưng không nói gì cả, chỉ nhìn qua rồi ngửa cổ uống cạn chén rượu của mình.
Lý tầm Hoan chợt ngó Tiểu Phi và cười:
– Túc hạ có biết tại sao tôi thích một người bạn như túc hạ không?
Rồi không cần đợi Tiểu Phi đáp, Lý tầm Hoan cười nói tiếp:
– Bở là túc hạ là người duy nhất trong số các bằng hữu khi thấy tôi ho mà không hề khuyên tôi bỏ rượu.
Tiểu Phi hỏi:
– Ho có phải là việc không nên uống rượu chăng?
Lý tầm Hoan cười:
– Đụng đến cũng không nên chứ đừng nói là uống.
Tiểu Phi cau mặt:
– Thế sao các hạ lại uống? Phải chăng các hạ có nhiều tâm sự?
Tia mắt của Lý tầm Hoan chợt nhuốm màu ảm đạm và liếc nhanh vào mặt Tiểu Phi:
– Tôi có hỏi đến những điều túc hạ không muốn nói không? Tôi có hỏi cha mẹ túc hạ là ai không? Tôi có hỏi túc hạ thụ nghiệp võ công của ai không? Tôi có hỏi túc hạ từ đâu đến đây và sẽ đi đâu không?
Tiểu Phi lắc đầu:
– Không, không có.
Lý tầm Hoan lại hỏi:
– Thê thì tại sao túc hạ lại hỏi tôi?
Lặng thinh ngồi ngó Lý tầm Hoan khá lâu, rồi Tiểu Phi vụt cười:
– Phải rồi, tôi không hỏi các hạ.
Lý tầm Hoan cũng cười, hình như hắn muốn kính Tiểu Phi một chén rượu nữa, nhưng vừa thò chén múc rượu lên thì lại gập mình xuống ho sặc sụa, ho không kịp thở.
Tiểu Phi lật đật mở cửa sổ cho thoáng khí, nhưng ngay lúc ấy thì cỗ xe đột nhiên dừng lại.
Lý tầm Hoan dòm ra hỏi:
– Có chuyện gì thế?
Gã đánh xe trả lời:
– Có người cản đường?
Lý tầm Hoan hơi cau mày:
– Người nào thế?
Gã đánh xe cười nho nhỏ:
– Người tuyết.
Hai người dòm ra thấy giữa đường có một hình tuyết khá lớn, lớn hơn người thật, trên mặt có nhét hai cục than làm hai con mắt.
Hai người bước xuống đứng dựa thành xe nhìn người tuyết.
Tiểu Phi nhìn bằng cặp mắt lạnh lùng, y như chưa từng thấy người tuyết như thế bao giờ.
Lý tầm Hoan nhìn hắn mỉm cười:
– Chưa thấy hình tuyết bao giờ hả? Đấy là một lối chơi thông thường của những đứa trẻ vị thành niên ở miền Bắc. Nói là những đứa trẻ là tại vì trò chơi này đúng là riêng của chúng, nhưng sự thật thì đôi khi muốn giết thời giờ, người lớn cũng chơi.
Tiểu Phi lắc đầu:
– Tôi chỉ thấy tuyết là thứ đáng ghét, chẳng những nó làm cho người lạnh cóng mà còn làm cho cây cỏ tiêu điều, muôn thú phải tránh xa, nó làm cho người đói rét, nó làm cho cảnh vật đơn sơ tịch mịch.
Hắn vừa nói vừa nắm một nắm tuyết bóp lại tròn và ném vút ra xa.
Cục tuyết tan ra biến mất trong sa mù, hắn nhìn ra xa lẩm bẩm:
– Đối với hạng người ăn no mặc ấm, có lẽ họ cho tuyết là cảnh đẹp, có lẽ họ thích thú, nhưng với tôi…
Hắn vụt nhìn Lý tầm Hoan bằng tia mắt khác thường và nói tiếp:
– Các hạ có biết không? Tôi là một kẻ lớn lên giữa miền hoang dã, cho nên mưa gió, tuyết sương đều là kẻ thù địch của tôi, một kẻ địch mạnh mà khó lòng diệt được.
Lý tầm Hoan thoáng hơi buồn buồn, hắn cũng nắm một nắm tuyết và nói:
– Tôi thì không ghét tuyết lắm, cái làm cho tôi ghét nhất là có kẻ đón đường.
Hắn vừa nói vừa ném cục tuyết vào mặt người tuyết.
Người tuyết không ngã xuống mà những lớp tuyết lại rớt rải tứ tung.
Tiểu Phi thoát nhìn ngơ ngác.
Bên trong lớp tuyết lại là người thật – một người đã chết.
Tiểu Phi buộc miệng kêu lên:
– Hắc xà!
Rõ ràng bộ mặt đen thui chỉ liếc qua cũng dễ dàng nhận được. Nhưng tại sao hắn lại chết ở đây?
Kẻ giết hắn tại sao lại đứp tuyết ra ngoài và đặt chắn ngang đường?
Gã đánh xe bước lại khom mình xuống xác Hắc xà và tìm xem thương tích.
Lý tầm Hoan vụt hỏi Tiểu Phi:
– Có biết ai giết Hắc xà không?
Tiểu Phi lắc đầu:
– Khó hiểu quá!
Lý tầm Hoan cười:
– Cái túi vải mà chúng buộc Gia Cát Lôi phải trao ra ấy!
Tiểu Phi cau mày:
– Cái túi đó giết hắn?
Lý tầm Hoan gật đầu:
– Cai túi ấy Gia Cát Lôi lấy ra để trên bàn, đến khi Hắc xà chạy rồi thì không thấy túi ấy đâu. Tôi nghĩ rằng Hắc xà đã lén lấy khi không ai chú ý. Nhưng hắn không biết cái túi ấy đã gây ra đại họa. Kẻ giết hắn, có lẽ cũng chỉ vì cái túi ấy.
Lý tầm Hoan cầm con dao khắc cây so sẽ trên tay và nói nho nhỏ trong dáng sắc trầm ngâm:
– Không hiểu cái túi ấy đựng vật gì mà làm lắm kẻ chú ý như thế? Đáng lý lúc ấy mình nên mở ra xem.
Tiểu Phi cau mày thật sâu và vụt nói:
– Kẻ giết hắn đã cướp cái túi ấy, thế thì tại sao khi được vật rồi lại còn dùng xác hắn để cản đường?
Lý tầm Hoan thoáng hơi kinh ngạc.
Hắn phát giác gã thiếu niên này xem qua như có vẻ không sâu sắc, thế nhưng qua nhận xét này chứng tỏ gã cũng tinh tế lắm. Phản ứng khi đụng chuyện cũng không kém những kẻ lịch lãm giang hồ.
Tiểu Phi lại nói tiếp:
– Phải chăng kẻ này đã đoán rất đúng rằng con đường này chỉ có xe của các hạ đi qua trước hơn ai hết? Và phải chăng đây là dụng ý cản đường cỗ xe này?
Lý tầm Hoan không trả lời mà lại hỏi gã đánh xe:
– Có tìm ra thương thế của hắn chưa?
Gã đánh xe chưa kịp đáp thì Lý tầm Hoan lại nói luôn:
– Thôi khỏi cần tìm nữa.
Tiểu Phi cũng gật đầu:
– Họ đã tới rồi, còn tìm chi cho mất công.
Thính giác của Lý tầm Hoan có thể gọi là quán tuyệt trong thiên hạ, và ngay bây giờ hắn càng ngạc nhiên về gã thiếu niên hơn nữa, vì không ngờ thính giác của gã cũng quá tinh anh.
Y như là bẩm sinh đã có một bản năng tự nhiên như dã thú, Tiểu Phi có một cảm giác cực kì bén nhậy, một cảm giác mà những người thường không có được.
Lý tầm Hoan nhìn hắn mỉm cười và quay ra quát lớn:
– Những người bạn đến đây sao không thể ra mặt ngay để dùng vài chén rượu ấm?
Bên ven rừng tuyết phủ đầu cây chợt nghe tiếng động, bước chân người theo tuyết rớt rõ lên:
– Mười năm không gặp, không ngờ Lý thám hoa tinh lực vẫn còn chưa già.
Một lão già cụt một cánh tay, mặt vàng như sáp tiếp liền theo câu nói bước ra, cùng đi với lão lại có một lão già nữa ốm tong toe như que củi.
Tiểu Phi thoáng hơi chớp mắt khi nhận ra bước chân của lão ốm trên mặt tuyết đất không lưu lại một dấu vết gì, chứng tỏ khinh công của lão đáng cho người chú ý.
Lý tầm Hoan mỉm cười:
– Tại hạ mới qua biên giới chưa đầy nửa tháng không dè Tra tổng tiêu đầu và ” Thần hành vô ảnh ” lại biết và đến đây.
Lão gìa ốm tong cười hô hố:
– Lý thám hoa quả là danh bất hư truyền, chỉ thoáng một lần hồi mười ba năm về trước mà Lý thám hoa vẫn còn nhớ được cái thằng già vô dụng Ngu Nhị này sao?
Tiểu Phi liếc xuống chân lão già ốm, cái lão mà Lý tầm Hoan gọi là ” Thần hành vô ảnh ” và chính lão đã xưng tên là Ngu Nhị ấy, chợt thấy lão què hết một chân, lão di động thân hình bằng một bước đi khập khễnh.
Có lẽ vì một chân bị què từ thủa nhỏ, nên hắn mới luyện khinh công hơn người để bù vào chỗ khuyết tật của mình.
Tiểu Phi khẽ gật dầu, có lẽ hắn khâm phục về sự điêu luyện khinh công của lão ” Thần hành vô ảnh “.
Lý tầm Hoan lại mỉm cười:
– Cùng đi với mấy nhị vị còn có mấy người bạn nữa, sao lại không mời ra một lượt?
Câu nói thẳng băng của Lý tầm Hoan làm cho ven rừng lại thêm một lần khua động và bốn người nữa lao ra.
Vừa thoáng thấy, Lý tầm Hoan hơi đổi sắc..
Bốn người đến sau tuổi tác không phải là nhỏ nhưng cách ăn mặc thì như đứa bé lên mười.
Đặc biệt là bốn người ăn mặc bốn áo sặc sỡ áo khác nhau và đều thêu kết hoa tua sặc sỡ. Cả bốn người mặt mày không dấu được vẻ đanh ác, nhưng lại cố làm bộ nhăn mày chu miệng y như những đứa trẻ ngây thơ, trông quả thật là chướng mắt vô cùng.
Một điều lố lăng khác là cổ tay cổ chân họ đầu có đeo nhiều chiếc vòng bằng bạc, mỗi cử động của họ, những vòng ấy chạm vào nhau khua lên nghe cũng khá vui tai.
Gã đánh xe vừa thấy bốn tên này, da mặt vùng xám lại và nói thật khẽ:
– Tên Hắc xà không phải bị người giết mà là bọ bò cạp và rít cắn.
Lý tầm Hoan trầm giọng:
– à…thì ra chư vị là ” Ngũ độc đồng tử ” môn hạ Cực lạc động ở Miêu cương.
Một trong bốn tên, gã Hoàng y đồng tử ngửa mặt cười ha hả:
– Bọn ta đã cực khổ lắm mới đắp được một hình tuyết đẹp, nhà ngươi lại phá cho bể đi thì phải bắt đền.
Vừa chấm dứt câu nói, gã Hoàng y đồng tử đã xồng xộc lao thẳng tới.
Tiếng khua động của những vòng bạc trong cổ tay cổ chân của gã khua lên nhức óc đinh tai.
Lý tầm Hoan yên lặng mỉm cười. Nhưng nhanh hơn một bước, ” Thần hành vô ảnh ” Ngu Nhị đã lao theo kéo gã đồng tử áo vàng trở lại.
Vị tổng tiêu đầu ” Kim sư tiêu cục” là ” Kim sư ” Tra Mãnh vội cười lớn như khoả lấp:
– Cái gia tài thiên vạn của Lý thám hoa cho dù người vàng đi nữa cũng thừa sức đền bù chứ đừng nói chi người tuyết. Xin bốn vị để cho Tra mỗ giới thiệu đã.
Gã hồng y đồng tử cười hi hí:
– Biết rồi, biết rồi…ta biết hắn là Lý tầm Hoan mà.
Hắc y đồng tử tiếp theo:
– Ta còn biết hắn rất hay về cái thú giải trí nữa, xưng danh là ” tầm hoan ” lắm.
Lục y đồng tử nói:
– Học vấn còn cao nữa chứ, không cao thì làm sao đậu được chức Thám hoa của triều đình? Nghe đâu từ đời ông đến đời cha cũng đều chiếm bảng Thám hoa đấy.
Hồng y đồng tử cười lớn:
– Chỉ tiếc vì Lý thám hoa không thích làm quan mà chỉ thích làm cường đạo.
Bọn “Đồng tử ” này cố nói cho thật nhiều, tên này nói một câu, tên nọ chêm một câu, hình như chúng muốn tỏ ra rằng quá biết về con người của Lý tầm Hoan. nhưng nếu tinh ý thì sẽ nhận thấy rằng bọn chúng chỉ nói được một vài khía cạnh nhỏ nhặt, chứ căn bản vẫn không nói được gì về lai lịch.
Tiểu Phi khẽ liếc Lý tầm Hoan.
Vẻ mặt họ Lý vẫn tươi cười không tỏ gì giận dữ, nhưng trong khóe mắt ánh cười ấy, Tiểu Phi cảm thấy có một sự buồn bã vô cùng. Hình như chuyện cũ của đời mình làm cho Lý tầm Hoan đau khổ. ” Thần hành vô ảnh ” Ngu Nhị trầm trầm sắc mặt:
– Các vị biết về Lý thám hoa cũng khá nhiều nhưng đã có nghe nói đến ” Thần đao ” của họ Lý chưa? Quán tuyệt thiên hạ đấy nhé, một đao vung ra không bao giờ sai chạy đấy nghe!
Hoàng y đồng tử cười hô hố:
– Một dao vung ra không hề sai chạy…ha ha, té ra vì sợ ta phải chết vì ngọn dao ấy nên ông mới kéo ta lại đấy à? Sợ ta chết rồi về khó nói chuyện với sư phụ ta, nên ông ngăn chặn đấy ư?
Lý tầm Hoan cười chúm chím:
– Nhưng các vị hãy yên lòng, một dao của tại hạ thì quả có như thế, nhưng dao thứ hai chưa chắc đã hay? Huống chi một dao làm sao có thể chết sáu người!
Và bỗng nhiên họ Lý trầm mặt ngó ” Kim sư ” Tra Mãnh:
– Vì lẽ đó cho nên nếu các vị muốn báo thù cho Gia Cát Lôi thì xin cứ ra tay đừng ngại.
“Kim sư ” Tra Mãnh cất giọng cười khô khốc:
– Gia Cát Lôi quả là đáng chết, thì có đâu lại phiền trách thám hoa?
Lý tầm Hoan nhướng mắt:
– Đã không phải báo thù cho Gia Cát Lôi, vậy chẳng lẽ chư vị tìm tại hạ để uống cho vui sao?
Tra Mãnh trầm ngâm, y như chưa biết phải nói ra sao, thì Ngu Nhị nói:
– Anh em chúng tôi chỉ muốn Lý thám hoa vui lòng trao chiếc túi ấy lại mà thôi.
Lý tầm Hoan cau mày:
– Chiếc túi?
Tra Mãnh gật đầu:
– Phải, chiếc túi ấy là do người giao cho ” Kim sư tiêu cục ” nếu lỡ ra bị mất, thì thanh danh mấy mươi năm qua của tiêc cục chúng tôi cũng bị mất theo luôn.
Đưa mắt về phía Hắc xà, Lý tầm Hoan hỏi:
– Chiếc túi ấy không có trong mình hắn sao?
Tra Mãnh cười lớn:
– Lý huynh đùa chi thế? Có mặt Lý huynh nơi đó thì Hắc xà làm sao lấy được?
Lý tầm Hoan cau mày nói lầm thầm:
– Bình sinh ta rất sợ chuyện phiền phức, thế mà chuyện phiền phức lại cứ đeo đẳng theo ta…
Không nghe rõ, Tra Mãnh nói tiếp:
– Chỉ cần Lý huynh trao chiếc túi ấy lại, chúng tôi lập tức đi liền và chúng tôi còn phải cảm tạ Lý huynh nữa.
Nhồi con dao nhỏ trong tay, Lý tầm Hoan nói:
– Đúng,cái túi ấy hiện ở trong tay tôi, nhưng tôi chưa quyết định có nên trao lại cho các vị hay không, vậy các vị nên để cho tôi suy nghĩ lại đã.
Tra Mãnh hơi đổi sắc nhưng Ngu Nhị đã lướt tới hỏi:
– Nhưng không biết Lý thám hoa cần suy nghĩ bao lâu?
Lý tầm Hoan nói:
– Một giờ thôi cũng đủ, sau một giờ chúng ta sẽ gặp lại nơi đây.
Không cần suy nghĩ, Ngu Nhị nói ngay:
– Được rồi, một lời làm chắc. Chúng ta đi thôi.
Gã Hoàng y đồng tử đưa tay cản lại:
– Nửa giờ thôi cũng đủ cao chạy xa bay, tại sao lại phải đến một giờ.
Ngu Nhị trầm giọng:
– Từ ngày ra mắt giang hồ và trước ngày lui về ẩn dật, Lý thám hoa dự hơn ba trăm trận chiến, chưa ai nói có chuyện đào thoát bao giờ.
Vừa nói lão ” Thần hành vô ảnh ” khoát tay mạnh, cả bọn kéo đi một lượt.
Họ đến khá mau mà khi rút đi lại càng mau hơn nữa, chỉ nghe những vòng bạc khua lên là họ đã xa cách ngoài mười trượng.
Tiểu Phi cau mặt:
– Cái túi ấy không có trong mình các hạ mà!
Lý tầm Hoan im lặng gật đầu:
Tiểu Phi lại hỏi:
– Đã không có thì sao lại nhận chịu?
Lý tầm Hoan mỉm cười:
– Dù nói không có, họ cũng không tin, sớm muộn gì rồi cũng phải đánh nhau, vì thế tôi đành phải nhận bừa để tránh việc cãi cọ đôi co với họ.
Tiểu Phi lại hỏi:
– Đã biết sớm muộn gì rồi cũng phải đánh nhau, thì còn phải hẹn làm gì?
Lý tầm Hoan:
– Trong vòng một giờ, tôi cần phải tìm một người.
Tiểu Phi hỏi:
– Ai?
Lý tầm Hoan nói:
– Kẻ cắp cái túi đó!
Tiểu Phi cau mặt:
– Làm sao biết kẻ ấy là ai?
Lý tầm Hoan nói:
– Đêm hôm nơi khách điếm, có mặt ba người của ” Kim sư tiêu cục “, trừ Gia Cát Lôi và Triệu lão nhị đã chết, còn lại một, tôi cần tìm người ấy.
Trầm ngâm một lúc, Tiểu Phi hỏi:
– Có phải người mặc áo da màu tía thêu hoa, lưng buộc nhuyễn tiên và bên mép tai có một chòm lông đen ấy không?
Lý tầm Hoan mỉm cười:
– Chỉ nhin qua mà nhận được kỹ như thế quả là tài đấy nhé.
Tiểu Phi cũng cười:
– Bộ dạng hắn nhìn qua một lượt cũng đã đủ nhớ rồi.
Lý tầm Hoan nói:
– Tôi muốn nói con người đó vì chỉ có hắn mới biết giá trị của cái túi ấy, hắn trốn dưới gầm bàn rồi thừa lúc không ai để ý lén đoạt lấy. Có lẽ hắn có chủ ý đến cái túi ấy từ lâu rồi, đã có ý muốn đoạt từ lâu rồi nay mới có dịp. Và chỉ muốn cho Tra Mãnh lạc hướng nên hắn mới đổ trút trách nhiệm ấy lên vai tôi.
Thấy Tiểu Phi làm thinh, Lý tầm Hoan mỉm cười nói tiếp:
– Đây cũng không phải là lần thứ nhất mà tôi phải đưa cổ mang ách giữa đường.
Tiểu Phi nói:
– Và sở dĩ Tra Mãnh biết con đường của các hạ phải qua cũng chính do tên ấy mách?
Lý tầm Hoan gật đầu:
– Hắn chứ còn ai.
Tiểu Phi nói:
– Để tránh sự hoài nghi của Tra Mãnh có lẽ bây giờ hắn chưa dám trốn.
Lý tầm Hoan mỉm cười gật đầu và nói:
-Chỉ cần trong vòng năm ba năm xông xáo chốn giang hồ, nhất định sẽ không còn ai qua túc hạ được và nếu còn có cơ hội gặp lại thì chúng ta vẫn là bằng hữu nhé.
Và để câu chuyện có vẻ tự nhiên, Lý tầm Hoan cười lớn nói luôn:
– Bởi vì tôi thật không muốn có một cừu địch như túc hạ.
Tiểu Phi mở to mắt hơn:
– Bây giờ các hạ muốn tôi đi?
Lý tầm Hoan gật đầu:
– Đây là chuyện của tôi không có quan hệ đến túc hạ. vả lại họ cũng không tìm túc hạ thì túc hạ nên đi.
Tiểu Phi hỏi:
– Các hạ sợ liên lụy đến tôi hay là không muốn đi chung với tôi?
Tia mắt Lý tầm Hoan lộ nhiều buồn khổ nhưng khóe miệng vẫn cười:
– Trong đời không có buổi tiệc nào nào mà không đến lúc tàn. Chúng ta sớm muộn gì rồi cũng chia tay, sớm muộn đôi ngày không cũng có hơn kém.
Trầm ngâm một lúc, Tiểu Phi múc đầy hai chén rượu:
– Tôi xin kính túc hạ thêm một chén nữa.
Tiếp chén rượu uống cạn một hơi, Lý tầm Hoan cười và ngâm một câu thơ cổ:
Huyết quân cánh tân nhất bôi tửu đũ nhi đồng tiên vạn cô sầu.
Giọng cười chưa dứt thì họ Lý lại gập mình xuống ho sặc sụa.
Tiểu Phi nhìn sững Lý tầm Hoan một lúc rồi vũng quay bước bỏ đi. Hắn đi thẳng một hơi không ngó lại.
Hoa tuyết lại lả tả rơi, quang cảnh thật là tịch mịch.
Nhìn theo bước chân rắn chắc của gã thiếu niên, Lý tầm Hoan khẽ thở dài lẩm bẩm:
– Người bạn nhỏ thật tình tôi không muốn bạn đi nhưng tiền đồ của bạn còn dài, cùng đi với tôi không có lợi mảy may nào cả. Tôi không muốn đem sự phiền toái nguy hiểm bất hạnh của tôi ra để trao cho bạn mà cũng không muốn trao cho người bạn nào khác nữa.
Từ đầu đến cuối gã đánh xe cứ đứng tựa bên thành xe như tượng đá đã không nói một lời mà tuyết rơi xuống đầu xuống mặt hắn cũng không buồn đưa tay phủi.
Lý tầm Hoan uống thêm một chén rượu nữa rồi mới quay qua nhìn gã:
– Ngươi hãy đợi ở đây. Điều nên làm là chôn giúp xác Hắc xà cho tử tế, một giờ sau ta trở lại.
Đang cúi mặt gã đánh xe vụt ngẩng lên:
– Tôi biết Tra Mãnh tuy nhờ vào chưởng lực mà thành danh nhưng đối với thiếu gia làm sao qua đựơc ba mươi chiêu.
Lý tầm Hoan mỉm cười:
– Chỉ mười chiêu thôi chứ.
Gã đánh xe hỏi:
– Thế còn cái tên ” Thân hành vô ảnh ” Ngu Nhị?
Lý tầm Hoan nói:
– Khinh công của hắn cao lắm, nghe đâu ám khí độc hại nhưng ta vẫn đủ để đối phó với hắn.
Gã đánh xe nói:
– Nghe nói môn hạ của ” Cực Lạc Động ” người nào cũng khá giỏi về tài ngoại công, vừa rồi thấy chúng mới động đậy quả nhiên không giống với lộ số Trung Nguyên…
Lý tầm Hoan mỉm cười gắt lời gã:
– Ngươi yên lòng, số người ấy không làm ta phải bận tâm đâu.
Sắc mặt gã đánh xe trầm ngâm, gã nói hết sức e dè:
– Thiếu gia đừng dối tôi, tôi biết chuyến đi này hung hiểm lắm. Nếu không thế nhất định thiếu gia sẽ không bao giờ để vị Tiểu Phi ấy đi đâu!
Lý tầm Hoan cau mặt:
– Ngươi lại sinh ra chứng nói nhiều bao giờ thế?
Gã đánh xe cúi mặt không dám nói thêm. Cho đến khi gã ngẩng mặt lên thì Lý tầm Hoan dã tới ven rừng và tiếng ho còn vọng lại.
Tiếng ho kéo dài hòa với tiếng tuyết rơi tạo thành một thứ âm thanh não ruột.
Gã đánh xe đầm đìa nước mắt, hắn thì thầm như thủ thỉ với ai:
– Thiếu gia ơi. Chúng ta đang sống yên lành ngoài biên giới, tại làm sao lại phải vào đây chịu khổ. Mười năm qua, chẳng lẽ thiếu gia lại không thể quên được nàng hay sao? Hay thiếu gia vẫn còn muốn gặp nàng? Gặp để rồi lại không nói một câu.
Vừa qua khỏi đường cái, bước vô đến rừng, phong độ của Lý tầm Hoan vùng biến đổi.
Từ một con người dáng sắc uể oải, bần thần, đột nhiên trở nên nhanh nhẹn lạ thường.
Đôi mắt sáng quắc như xuyên từng lá cây cỏ, tai mắt, tay chân thính giác, xúc giác y như cũng một lúc hoạt động rộn lên.
Suốt hai mươi mấy năm nay chưa ai bị Lý tầm Hoan theo dõi mà có thể đào thoát được.
Từ nhánh cây không, kẽ đá, mặt tuyết đóng băng… mỗi một vật chỉ cần có địch đi qua là Lý tầm Hoan có thể nhận ra một cách dễ dàng.
Hành động của họ Lý y như một con thỏ, phản ứng nhanh nhẹn nhưng không hoảng hốt, y như một vũ công tuyệt đỉnh, dồn dập nhưng vẫn nhịp nhàng chứ không phải múa may cuồng loạn.
Mười năm về trước, hắn đã một lần bỏ tất cả nhưng gì sẵn có, ảm đạm vượt ra vùng biên ải, lúc đó chính là lúc tiết xuân thiên. Họ Lý nhớ rõ gần đây có một quán rượu nhỏ, khi đến đây xa xa đã thấy dạng tấm bảng đề hiệu quán, và hắn đã cho dừng xe lại mua vài cân rượu.
Lý tầm Hoan còn nhớ rõ, rượu ở đây tuy không ngon lắm, nhưng giữa ngày xuân với non xanh nước biếc đã thu hút khá nhiều du khách thanh niên nam nữ xanh đỏ dập dìu.
Nhưng bây giờ, bây giờ trở lại nơi, sau khi đã bẵng đi mười năm biền biệt, tuế nguyệt chất chồng đã làm cho quang cảnh đổi thay. Những cô bé cuộn tóc trái đào nay đã tay bồng tay ẵm, nhưng cặp vợ chồng son trẻ, nay đã răng long tóc bạc đìu hiu. Ngày xưa, cánh hoa đào nở rộ tiết xuân, bây giờ tất cả đã vùi sâu vào lớp tuyết thành băng giá.
Chỉ còn một điều họ Lý mong hãy đừng thay đổi. Đó là ngôi quán con bán rượu ngày xưa.
Không phải hy vọng nơi đây sẽ có thể mà về dĩ vãng, mà vì nếu ngôi quán ấy còn thì nhất định bọn Tra Mãnh sẽ có mặt ngay nơi đó.
Lý tầm Hoan cứ lao mình theo hướng cũ, mà lòng chợt thấy nao nao.
Sản nghiệp, quyền thế, đôi khi người ta bỏ được, chỉ có một việc mà lòng người ta khó nỗi quên. Đó là kí ức, đó là dĩ vãng.
Nó là vật vô hình nhưng con người không tài nào vửt được.
Lý tầm Hoan móc bình rượu nhỏ ra, ngửa mặt uống cạn một hơi rồi lại gập mình ho sặc sụa.
Đợi cho cơn ho chấm dứt, hắn mới ngẩng mặt bước đi. Và quả nhiên, bóng ngôi quán rượu đã thấy thấp thoáng từ xa.
Lý tầm Hoan biết mình đoán không lầm. Năm xưa, giữa ngày xuân, nơi đây du khách dập dìu nhưng bây giờ là tiết đông thiên, không ai buồn đặt chân vào chốn hoang sơ này nữa.
Khung cảnh tiêu điều vắng vẻ thuận lợi là nơi trú chân cho khách giang hồ. Nhất định bọn Tra Mãnh sẽ dừng ở nơi đây.
Càng gần tới tửu điếm, Lý tầm Hoan chợt cảm thấy hơi là lạ. Bốn bề im lặng, một sự im lặng khác thường.
Giải hành lang cũ kĩ trống trơn, những tấm ván lót theo đường đá bị nứt hở nhiều nơi.
Vừa đặt chân đến, tấm ván chông chênh nghiến vào nhau nghe ken két.
Lý tầm Hoan giật mình lui lại, nhưng trong tửu điếm vẫn lặng im.
Hắn nhún mình qua giải hành lang một cái thật lẹ và thật nhẹ nhàng, trong trí Lý tầm Hoan bắt đầu hơi thắc mắc: hay là bọn Tra Mãnh không có ở nơi đây?
Nhưng không, quặt qua một góc nhà, Lý tầm Hoan bắt gặp ngay Tra Mãnh.
Hắn đứng tựa lưng vào vách nhìn ngay về phía Lý tầm Hoan đang đi lại.
Không, không phải hắn đứng tựa lưng vào vách, khi gần đến, Lý tầm Hoan hấy hắn đang đứng dựa một trụ cây trước tàu ngựa, da mặt hắn sẳn vàng bây giờ xám ngoét và hai mắt hắn trừng trừng dễ sợ.
Trong tàu, ngựa vẫn hí nho nhỏ, chân dậm nhẹ xuống nền. Tra Mãnh vẫn đứng yên, không nói một lời mà cũng không cử động.
Lý tầm Hoan ngó hắn thở phào:
– Không ngờ…
Nhưng họ Lý ngậm miệng nín ngay.
Chỉ vì đã nhận rõ ra rằng Tra Mãnh đã không bao giờ nghe ai nói nữa!