Ðêm tối, trời trong, vầng trăng trắng nhạt nửa phần héo hắt soi ánh sáng yếu ớt. Một cơn gió khô cất tiếng reo trên mặt tuyết; và từ nơi địa cực lạnh lẽo gió vẫn đều đều triền miên lặng lẽ thổi đến. Trên khắp mặt đất tuyết phủ thành lớp dày và khô như cát. Những ngôi nhà nằm rúc mình dưới lươn rãnh của những đụn tuyết; những khung cửa sổ tối om và được đóng chặt chống lại gió lạnh. Chỉ có một ít khói leo lắt bốc lên từ những chiếc lò sưởi cháy âm ỉ.
Trên phố lối đi đông cứng dưới những lớp tuyết bị dẫm chặt. Ðường phố im lìm, ngoại trừ lúc những người lính tuần tra lạnh lẽo, khốn khổ đi ngang qua. Những ngôi nhà như những đám đen lù lù trong màn đêm. Một chút ít hơi ấm còn nấn ná đọng lại trong những ngôi nhà trước khi trời sáng. Gần lối vào hầm mỏ, những người lính canh quan sát bầu trời, họ hướng ống nhòm và dụng cụ nghe ngóng lên trời, vì đêm nay trời trong tiện cho việc ném bom. Trong những đêm như thế này, những con suốt thép mảnh mai cất tiếng rú, chúi đầu xuống và gầm lên trước khi tung ra những mảnh nhỏ. Ðêm nay từ trên cao có thể thấy rõ dưới đất mặc dù chỉ có ánh trăng soi mờ nhạt.
Mãi tận cuối ngôi làng, trong những ngôi nhà nhỏ, một con chó đang than vãn cái rét và nỗi cô đơn. Nó nghếch mũi hướng lên đức chúa của nó và cất lên lời kể lể dông dài và chán chê về tình cảnh ở cõi trần đã áp đặt lên thân phận nó. Nó là một ca sĩ đã từng trải qua luyện tập với cổ họng như chuông ngân và sức điều khiển âm vực thật linh động. Sáu người lính tuần tra buồn rầu, nặng nhọc lê bước lên xuống con phố nghe được giọng ca của con chó, và một người trong đám lính với cổ quấn kín bằng khăn quàng lên tiếng, “Hình như mỗi tối nó càng trở nên tồi tệ hơn. Tôi nghĩ chúng ta nên bắn nó đi.”
Một người lính khác trả lời. “Sao? Cứ để nó tru. Nó tru nghe cũng được đấy. Lúc trước ở nhà tôi cũng có một con hay tru. Tôi chẳng bao giờ ngăn nó được. Con chó vàng. Tôi không phiền với tiếng tru. Họ bắt con chó của tôi cùng lúc với những con chó khác.” Hắn nói như tường thuật một sự kiện, giọng u ám.
Người hạ sĩ nói, “Không thể nào nuôi những con chó để chúng ăn hết cả lương thực đang cần thiết.”
“Ồ, tôi không phải than phiền. Tôi biết chuyện ấy cần thiết. Tôi không có khả năng hoạch định được như các nhà lãnh đạo. Nhưng tôi thấy chuyện khôi hài là có người vẫn nuôi chó mặc dù họ không có nhiều lương thực như chúng ta. Bọn chúng gầy trơ xương, cả chó lẫn người.”
“Bọn họ ngu độn,” người hạ sĩ nói. “Vậy cho nên họ thất bại rất nhanh chóng. Bọn họ không biết kế hoạch như chúng ta.”
“Không biết chúng ta sẽ được nuôi chó trở lại sau chiến tranh không,” một người lính nói. “Tôi nghĩ chúng ta có thể đem chúng từ Mỹ hay một nơi nào khác về và gầy giống trở lại. Ông nghĩ ở Mỹ người ta có loại chó nào?”
“Tôi không biết,” người hạ sĩ nói. “Có lẽ những con chó cũng quái gở như những thứ khác mà họ có.” Và hắn nói tiếp, “có lẽ chó không tốt lắm đâu, Có lẽ tốt hơn là chúng ta không cần bận trí với chúng làm gì, ngoại trừ cho công tác trật tự trị an.”
“Có lẽ vậy,”người lính nói. “Tôi có nghe nói Ngài Lãnh tụ không thích chó. Tôi nghe nói chó làm ông ấy ngứa và hắt hơi.”
“Anh nghe đủ thứ chuyện cả,” người hạ sĩ nói. “Nghe này!” Ðội tuần tra đứng lại và từ thật xa vọng lại tiếng ù ù của máy bay.
“Chúng đến rồi đấy,” người hạ sĩ nói. “Coi đấy, không có ánh đèn. Ðã hai tuần chúng không đến đây phải không?”
“Mười hai ngày,” người lính nói.
Ðám lính canh ở mỏ than nghe được tiếng ù ù của máy bay. “Chúng bay cao,” một thượng sĩ nói. Ðại úy Loft ngửa đầu ra sau để qua vành nón sắt có thể nhìn được lên trời. “Tôi đoán có thể quá 20.000 bộ,” hắn nói. “Có thể chúng chỉ bay ngang qua thôi.”
“Không có nhiều lắm,” người thượng sĩ lắng nghe. “Tôi nghĩ không có quá ba chiếc. Tôi có nên gọi pháo đội không?”
“Coi lại xem họ có trong tình trạng báo động không, rồi gọi Ðại tá Lanser – không, đừng gọi ông ấy, có thể chúng không đến đây. Chúng sắp bay qua rồi nhưng chúng chưa khởi sự chúi đầu xuống.”
“Tôi nghe như chúng đang đánh vòng, tôi nghĩ không có quá hai chiếc,” người thượng sĩ nói.
Dân chúng giờ này đang trên giường, họ nghe được tiếng máy bay và họ cuộn người sâu trong đệm lông lắng tai nghe. Ở dinh thị trưởng âm thanh nho nhỏ đó đánh thức đại tá Lanser, ông trở mình nằm ngửa, nhìn lên trần nhà tối đen với đôi mắt mở to. Ông giữ hơi thở để nghe được rõ hơn, nhưng rồi việc nín thở làm tim ông đập mạnh và ông không thể nghe rõ hơn như lúc ông đang thở. Thị trưởng nghe tiếng máy bay trong lúc ông đang ngủ, nó cho ông một giấc mơ, và ông trở mình thì thầm trong giấc ngủ.
Trên trời cao hai chiếc máy bay ném bom màu bùn đất bay quanh lại. Chúng hãm máy lượn xuống, đánh vòng. Từ dưới bụng mỗi chiếc máy bay những vật bé tí ti, hàng trăm cái, lần lượt thả xuống. Chúng lao xuống vài bộ rồi bung chiếc dù nhỏ ra, gói đồ đeo bên dưới bay lơ lửng, rồi từ từ lặng lẽ rơi xuống đất. Hai chiếc máy bay lại tăng tốc độ, vượt lên cao, rồi hãm máy quay vòng lần nữa, lại thêm những vật nhỏ lao xuống. Và chúng quay đi, bay trở về hướng lúc trước chúng đã đến.
Những chiếc dù bé nhỏ bay lơ lửng được gió nhẹ thổi tản mác và phân tán khắp nơi như những cái hạt đính trên đầu của bông cỏ kế. Chúng bay lững lờ và đáp xuống đất thật nhẹ nhàng đến nỗi có vài gói chất nổ[5] dài mười đốt đó có thể đứng thẳng trên tuyết với chiếc dù nhỏ nhẹ nhàng nằm xếp bên cạnh. Chúng như những vật đen nổi bật trên nền tuyết. Chúng đáp xuống trên những cánh đồng trắng xóa, trong những cánh rừng bên sườn đồi, trong đám cây cối, vướng trên cành. Vài cái đáp xuống trên nóc nhà của thị trấn, một số rơi xuống khoảng sân hẹp trước nhà, và một cái cắm thẳng đứng trên vương miện làm bằng tuyết trên đỉnh đầu của bức tượng thánh Albert – Nhà truyền giáo đặt ở trong làng.
[5] Chất nổ TNT.
Trong đám dù đó có một chiếc rơi xuống con phố trước mặt đội tuần tra, và người thượng sĩ nói, “Cẩn thận! Mìn định giờ đấy.”
“Nó không đủ lớn,” một người lính nói.
“Cho là thế, đừng tới gần.” Người thượng sĩ lấy chiếc đèn bấm ra bật lên chiếu vào món đồ, một chiếc dù không lớn hơn một cái khăn tay, màu xanh lơ, móc vào một gói đồ bọc giấy xanh.
“Bây giờ không ai được đụng đến,” người thượng sĩ nói. “Harry, đi xuống mỏ và gọi đại úy đến. Chúng ta sẽ canh chừng cái đồ quỷ quái này.”
Trời trở sáng muộn màng và khi dân chúng ra nơi đồng trống họ thấy những điểm xanh nổi bật trên tuyết. Họ đến nhặt chúng lên, mở gói giấy và đọc được trang giấy in. Họ thấy món quà và bỗng nhiên trở nên lén lút. Họ che kín nó dưới lần áo khoác và tìm một chỗ bí mật chôn dấu nó.
Ðám trẻ con nghe được chuyện gói quà và chúng tìm khắp ngoài đồng như một cuộc săn lùng trứng trong ngày lễ Phục sinh. Khi một đứa bé may mắn tìm thấy gói đồ màu xanh, nó chạy đến hối hả mở gói quà, giấu đi cái ống, và nói lại với cha mẹ chúng. Có người vì sợ, đem những cái ống đó nộp cho quân đội, nhưng số đó không nhiều. Và những người lính chạy đôn đáo khắp thị trấn như làm một cuộc săn trứng khác, nhưng họ không giỏi bằng những đứa trẻ trong trò chơi này.
Trong phòng khách của dinh thị trưởng chiếc bàn ăn và những chiếc ghế sắp quanh nó vẫn còn ở vị trí cũ, như trong ngày Alex Morden bị bắn. Căn phòng không được thanh nhã như hồi hãy còn là dinh của Thị trưởng. Bức tường thiếu đi những chiếc ghế dựa trông thật trơ trọi. Trên mặt bàn, giấy tờ bỏ rải rác làm căn phòng trông giống một văn phòng. Chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi chỉ chín giờ. Một ngày u ám, mây phủ kín bầu trời, từ sáng sớm mây mang theo tuyết nặng trĩu đã kéo đến.
Annie từ phòng của thị trưởng bước ra; bà quét quanh cái bàn và liếc nhìn giấy tờ nằm trên bàn. Ðại úy Loft bước vào. Hắn dừng trước cửa và trông thấy Annie.
“Bà làm gì ở đây?” Hắn hạch hỏi.
Annie lầm lì nói, “Vâng, thưa ngài.”
“Tôi hỏi bà làm gì ở đây?”
“Tôi định quét dọn, thưa ngài.”
“Ðể mặc đó, và đi đi.”
Và Annie nói, “Vâng, thưa ngài,” và bà đợi khi hắn đi qua khỏi cửa liền hối hả bước ra.
Ðại úy Loft lại quay bước ra cửa hắn gọi, “Ðược rồi, mang vào.” Một người lính theo sau hắn vào phòng, cây súng trường cột dây đeo trên vai và trên tay nắm một đống gói đồ màu xanh. Mỗi cái gói có gắn theo mấy sợi dây nhỏ và một miếng vải xanh.
Loft nói, “Ðặt chúng lên bàn.” Người lính cẩn thận đặt mớ đồ lên bàn. “Bây giờ lên lầu báo cáo với đại tá Lanser là tôi đang ở đây với những – cái gói.” Người lính xoay người bước ra khỏi phòng.
Loft đến bên bàn, cầm lên một cái gói, gương mặt hắn ra vẻ gớm ghiếc. Hắn giơ miếng vải dù xanh đưa lên cao quá đầu rồi thả nó xuống; chiếc dù bung ra và gói đồ lơ lửng rơi xuống sàn. Hắn gói đồ lên lần nữa, quan sát nó.
Lúc này đại tá Lanser đi nhanh vào phòng, theo sau là thiếu tá Hunter. Hunter cầm trong tay một vuông giấy màu vàng. Lanser nói, “Chào Ðại úy,” và ông đi tới đầu bàn ngồi xuống. Ông đưa mắt nhìn qua đống ống chất trên bàn một lúc, rồi nhắc một cái lên, cầm trong tay. “Ngồi xuống, Hunter, anh đã coi đến những vật này chưa?”
Hunter kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống. Hắn nhìn vuông giấy trong tay. “Không kĩ lắm,” hắn nói. “Có ba đoạn đường ray hỏng, tất cả chỉ trong vòng có mười dặm.”
“Thế à, nhìn qua chúng một cái, nói cho tôi biết ý của anh.”
Hunter với tay cầm một cái ống, bóc lớp giấy bọc ngoài, bên trong có một cái gói nhỏ nằm cạnh chiếc ống. Hắn lấy ra một con dao cắt một nhát trên cái ống. Ðại úy Loft đứng ở phía sau nhìn qua vai hắn. Hunter ngửi vết cắt, lấy ngón tay chà vào nhau, và hắn nói, “Ðúng là thứ ngốc nghếch, đây là thứ chất nổ lưu hành ngoài thương trường. Tôi phải khảo nghiệm mới biết có bao nhiêu phần trăm chất nitroglycerin[6] trong ấy.” Hắn nhìn đầu ống. “Nó có đầu nổ loại thông thường, fulminate thủy ngân, và một ngòi cháy chậm – tôi ước chừng một phút.” Hắn vất cái ống trở lại xuống mặt bàn. “Rất rẻ và rất đơn giản,” hắn nói.
[6] Fulminate thủy ngân: Một hợp chất thủy ngân, dạng bột trắng, rất dễ nổ, thường dùng làm chất kích nổ.
Ðại tá quay sang Loft, “Anh nghĩ bọn họ thả xuống bao nhiêu cái.”
“Tôi không biết, thưa đại tá,” Loft nói. “Chúng tôi nhặt được khoảng năm mươi cái, và có khoảng chín mươi cái dù. Có lý do nào đó khi dân chúng nhặt những cái ống bọn họ bỏ lại những chiếc dù. Có lẽ có khá nhiều nữa nhưng chúng ta không tìm được.”
Lanser khoát tay, “Chẳng thành vấn đề,” ông nói, “họ có thể thả xuống bao nhiêu nếu họ muốn. Chúng ta không thể nào chận được. Và chúng ta cũng không thể nào dùng nó chống lại họ. Họ chẳng đi xâm chiếm ai.”
Loft phẫn nộ nói, “Chúng ta có thể đập chúng bay khỏi mặt đất.”
Hunter đang cạy nắp đồng bịt một đầu của cái ống, và Lanser nói, “Phải, chúng ta có thể làm được. Anh có xem qua tờ giấy bọc ngoài này chưa Hunter?”
“Chưa, tôi chưa có thời gian.”
“Vật này là một thứ hiểm độc,” đại tá nói. “Giấy bọc màu xanh, vậy rất dễ nhìn thấy. Bóc lớp giấy bọc ra và đây,” ông nhặt cái gói nhỏ lên, “đây là một thỏi sô-cô-la. Ai cũng sẽ tìm cái này. Tôi dám cá là lính của chúng ta cũng lấy cắp sô-cô-la. Tại sao nó kèm theo trong gói, vì bọn trẻ con sẽ lùng nó như săn tìm trứng trong ngày lễ Phục Sinh.”
Một người lính bước vào, đặt một vuông giấy màu vàng trước mặt đại tá và rút lui, Lanser liếc nhìn mẩu giấy rồi cười với giọng khàn khàn, “Chuyện này dành cho anh đây, Hunter. Hai chỗ nữa trên tuyến đường ray của anh bị phá hỏng.”
Hunter đang xem xét cái nắp đồng, ngước lên hỏi, “Cái này được dùng rộng rãi cỡ nào? Họ thả chúng khắp nơi chứ?”
Lanser trầm tư. “Xem này, đây là một chuyện khôi hài. Tôi đã có liên lạc với thủ đô. Ðây là chỗ duy nhất bọn họ thả những cái này.”
“Ðại tá cho chuyện này là thế nào?” Hunter hỏi.
“Nó hả, khó mà nói lắm. Tôi nghĩ chỗ này là một chỗ thí điểm. Tôi đoán nếu thành công ở đây bọn họ sẽ dùng nó ở khắp nơi, còn nếu không, họ sẽ chẳng lưu ý đến chúng nữa.”
“Vậy đại tá tính sẽ làm gì?” Hunter hỏi.
“Về chuyện này ở thủ đô ra lệnh tôi phải đập tan không nương tay, để bọn họ không thả nó ở những nơi khác.”
Hunter rầu rĩ nói, “Làm sao tôi có thể sửa cả năm chỗ bị phá hỏng trên đường ray? Tôi đâu có thanh ray cho năm chỗ hỏng trong lúc này.”
“Anh phải lột những đoạn đường rẽ cũ, tôi nghĩ vậy.” Lanser nói.
Hunter nói, “Làm như vậy phá nền đường kinh khủng.”
“Thế à, dẫu sao đi nữa cũng sẽ làm nền đường.”
Hunter vất cái ống đã bị xé toang trở lại đống gói ở trên bàn. Loft nói xen vào, “Chúng ta phải chận ngay việc này, thưa đại tá. Chúng ta phải bắt giữ, trừng trị những người nào nhặt những vật này trước khi bọn họ sử dụng chúng. Chúng ta phải làm gấp để đám dân chúng không nghĩ là chúng ta yếu.”
Lanser mỉm cười với hắn, và ông nói, “Ðừng nóng nảy, đại úy. Hãy xem chúng ta có được gì trước đã, rồi sẽ nghĩ cách chữa trị.”
Ông nhặt một gói mới khác từ trong đống gói và bóc lớp giấy bọc. Ông lấy ra một mẩu sô-cô-la nhỏ nếm thử, và ông nói, “Cái này là một trò hiểm độc. Miếng sô-cô-la cũng ngon. Tôi cũng không thể cưỡng được. Một món quà nằm trong túi.” Rồi ông cầm ống thuốc nổ lên. “Thật sự anh nghĩ gì về cái này, Hunter?”
“Tôi đã nói với đại tá. Ống thuốc nổ rất rẻ tiền và rất hiệu quả đối với những việc nhỏ, thuốc nổ với đầu nổ và ngòi dẫn một phút. Nó hiệu nghiệm nếu biết cách dùng, còn không thì chỉ là vô dụng.”
Lanser xem trang chữ in ở mặt sau của tờ giấy bọc ngoài. “Anh đọc nó chưa?”
“Liếc sơ qua thôi,” Hunter nói.
“Tôi vừa đọc xong, và tôi muốn anh nghe kĩ đây,” Lanser nói. Ông cầm tờ giấy đọc, “‘Gởi đến những người bất khuất. Hãy giấu nó, đừng để lộ. Các bạn sẽ cần nó sau. Ðây là món quà từ những người bạn của các bạn, và sẽ từ bạn gửi đến kẻ xâm lăng đất nước bạn. Ðừng thử làm chuyện gì lớn với nó.’” Ông đọc lướt qua tờ truyền đơn. “Ðây này, ‘đường ray trong vùng đồng trống’. Và ‘làm ban đêm’ và ‘tắc nghẽn giao thông.’ Còn đây, ‘Hướng dẫn: đường ray. Ðặt ống thuốc nổ dưới đường ray, gần mối nối, và cột chặt vào tà vẹt. Ðắp bùn hay tuyết nén dẽ cho thật chắc. Bạn có đủ thì giờ đếm chậm được sáu mươi tiếng sau khi châm ngòi.’”
Ông ngước nhìn Hunter và Hunter nói gọn, “Dùng được.” Lanser nhìn lại mẩu giấy và ông lướt nhanh. “‘Cầu: làm yếu, không phá hẳn.’ Và đây, ‘Trụ điện,’ và đây ‘cống thoát, xe tải.’” Ông đặt tờ truyền đơn xuống. “Nó như vậy đó.”
Loft nó giận dữ, “Chúng ta phải làm cái gì chứ! Phải có cách nào để ngăn chận được chuyện này. Bộ tư lệnh nói sao?”
Lanser mím môi và ngón tay mân mê một cái ống. “Tôi có thể nói được với anh những điều họ muốn nói trước khi họ lên tiếng. Tôi được lệnh: ‘gài mìn bẫy và tẩm độc kẹo sô-cô-la’.” Ông ngừng một lát rồi nói, “Hunter, tôi là một binh sĩ tốt, trung thành, nhung khi tôi được những ý kiến sáng suốt từ bộ tư lệnh tôi chỉ mong mình được làm một người thường dân, một thường dân già, tàn tật. Họ luôn nghĩ là họ đang đối phó với một đám dân ngu xuẩn. Tôi không nói rằng ý kiến này là cái để đánh giá sự thông minh của họ, phải không?”
Hunter có vẻ buồn cười, “Ðại tá không nói vậy chứ?”
Lanser nói gay gắt, “Không, nhưng rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Một người sẽ nhặt một gói đồ và bị nổ tung vì mìn bẫy của chúng ta. Một đứa trẻ ăn sô-cô-la và bị trúng độc strychnine[7]. Rồi sao?” Ông nhìn xuống đôi bàn tay. “Họ sẽ dùng gậy chọt thử, hay quăng dây giật, trước khi họ chạm đến chúng. Họ sẽ thử sô-cô-la trên mèo. Thật là khốn kiếp, thiếu tá, đây là một đám dân thông minh, những cái bẫy ngốc nghếch không thể bẫy bọn họ được hai lần.”
[7] Strychnine: Một chất độc trích từ hạt Mã tiền.
Loft đằng hắng, “Ðại tá đây là ngôn ngữ của kẻ bại trận,” hắn nói. “Chúng ta phải làm cái gì đó. Tại sao Ðại tá cho rằng bọn họ chỉ thả những gói đồ đó ở đây.”
Lanser nói, “Có một trong hai lý do: hoặc là thị trấn này được chọn ra một cách ngẫu nhiên, hoặc là có liên lạc từ trong thị trấn với bên ngoài. Chúng ta biết có một vài thanh niên đã thoát ra.”
Loft lặp lại một cách ngờ nghệch, “Chúng ta phải làm một cái gì đó, thưa đại tá.”
Lanser lúc này quay sang hắn, “Loft, tôi nghĩ tôi sẽ đề cử anh lên bộ tham mưu. Anh muốn bắt tay vào hành động trước khi biết vấn đề ra sao. Ðây là một kiểu chinh phục mới. Trước đây chúng ta luôn luôn có thể tịch thu vũ khí và giữ họ trong tình trạng bưng bít. Bây giờ họ nghe radio và chúng ta không thể nào ngăn chặn được. Chúng ta cũng không thể tìm thấy được radio của họ.
Một người lính đứng ở ngưỡng cửa đưa đầu nhìn vào. “Ông Corell muốn gặp, thưa đại tá.”
Lanser trả lời, “Bảo ông ấy đợi.” Ông tiếp tục nói chuyện với Loft. “Họ đọc được tờ truyền đơn; vũ khí được thả xuống cho họ. Bây giờ là thuốc nổ, đại úy. Không lâu nữa có thể sẽ là lựu đạn, rồi đến chất độc.”
Loft lo lắng nói, “Họ chưa thả chất độc.”
“Chưa, nhưng rồi họ sẽ làm. Anh nghĩ tinh thần của binh sĩ của chúng ta, hay ngay cả anh nữa sẽ ra sao nếu đám dân chúng có những chiếc phi tiêu, món đồ chơi ngốc nghếch anh hay phóng vào những tấm bia, với mũi nhọn được tẩm độc cyanide, những mũi phi tiêu im lặng chết người, nó bay tới đâm thủng quân phục mà anh không nghe thấy một tiếng động? Và sẽ ra sao nếu binh sĩ của chúng ta biết rằng có thạch tín? Liệu anh hay họ có thoải mái ăn uống không?”
Hunter nói khô khốc, “Ðại tá đang thảo kế hoạch hành quân cho kẻ địch hay sao vậy?”
“Không, tôi đang dự đoán sự việc.”
Loft nói, “Ðại tá, chúng ta ngồi đây bàn luận trong khi đáng lẽ phải lùng kiếm chất nổ. Nếu có việc tổ chức trong lòng dân chúng, chúng ta phải tìm ra, chúng ta phải đập tan nói.”
“Ðúng,” Lanser nói, “Chúng ta phải đập tan chúng, không thương tiếc. Anh hãy lo phần chi tiết cụ thể, Loft, hãy lấy thêm Prackle phụ một tay. Tôi mong chúng ta có thêm sĩ quan cấp nhỏ. Tonder bị giết không giúp ích gì cho chúng ta cả. Tại sao anh ta không bỏ mặc những người đàn bà đi?”
Loft nói, “Tôi không thích cách biểu hiện của thiếu úy Prackle, thưa đại tá.”
“Anh ta làm gì?”
“Anh ta không làm gì, nhưng anh ta ủ rũ và dễ kích động.”
“Phải,” Lanser nói, “Tôi biết. Ðây là vấn đề tôi đã từng nói đến nhiều lần.” Ông nói, “Anh biết không, tôi có thể đã là thiếu tướng nếu tôi không nói quá nhiều về việc ấy. Chúng ta huấn luyện thanh niên của chúng ta để chiến thắng, và anh phải nhận là họ thật rực rỡ trong chiến thắng, nhưng họ hoàn toàn không biết phải hành động ra sao khi bị thất bại. Chúng ta bảo rằng họ thông minh và can đảm hơn những thanh niên khác. Và họ bị sốc khi nhận ra rằng họ không thông minh và can đảm hơn những thanh niên khác một chút nào.”
Loft nói giọng gắt gỏng, “Ðại tá nói thất bại nghĩa là gì? Chúng ta không thất bại.”
Và Lanser lạnh lùng nhìn hắn một lúc lâu không nói, cuối cùng cặp mắt của Loft nao núng, hắn nói, “Thưa đại tá.”
“Cám ơn,” Lanser nói.
“Không thể đòi hỏi điều đó ở người khác, thưa đại tá.”
“Họ không nghĩ về điều đó, nên không phải là một chuyện sỉ nhục. Khi anh bỏ mặc nó, đó mới là một sự sỉ nhục.”
“Ðúng vậy, thưa đại tá”
“Ði đi, ráng kiềm chế Prackle. Hãy bắt đầu lục soát, Tôi không muốn có bắn giết trừ khi bọn họ loạn động, anh hiểu không?”
“Vâng, thưa đại tá,” Loft nói, hắn nghiêm chỉnh chào và bước ra khỏi phòng.
Hunter nhìn đại tá Lanser cười thú vị, “Ðại tá đối xử với hắn có cứng rắn không?”
“Tôi phải vậy. Hắn sợ. Tôi biết tuýp người của hắn. Hắn cần được khép vào kỉ luật khi hắn sợ hãi, nếu không hắn sẽ suy sụp tinh thần. Hắn nương tựa vào kỉ luật như những người khác nương tựa vào sự thông cảm. Tôi nghĩ tốt hơn anh nên đi coi những đường ray. Anh nên dự đoán tối nay là thời điểm bọn họ thực sự cho nổ những đường ray.”
Hunter đứng lên và hắn nói, “Vâng. Tôi cho là những lệnh trên được đưa đến từ thủ đô.”
“Ðúng.”
“Có phải họ.”
“Anh biết họ như thế nào.” Lanser ngắt lời. “Anh biết họ sẽ làm sao rồi. Bắt người cầm đầu, bắn người cầm đầu, bắt giam con tin, bắn con tin, bắt thêm con tin, bắn họ,” giọng ông lúc đầu cất cao nhưng lúc này hạ xuống gần như thì thầm, “và hận thù gia tăng, tổn thất của chúng ta mỗi lúc càng thêm nặng nề.”
Hunter nói lưỡng lự, “Họ có kết tội ai trong danh sách được gửi lên không?” Hắn di chuyển hơi nghiêng về hướng phòng ngủ của thị trưởng.
Lanser lắc đầu. “Chưa, chưa đâu. Cho đến lúc này họ chỉ giam giữ thôi.”
Hunter lặng lẽ nói, “Thưa đại tá, ngài muốn nghe một lời khuyên của tôi không – có thể ngài quá mệt, thưa đại tá? Có thể tôi, hay là – có thể tôi báo cáo rằng ngài quá mệt?”
Lanser lấy hai tay bịt mắt một lúc, rồi vươn thẳng vai lên và vẻ mặt trở nên cứng rắn. “Tôi không phải là một người thường dân, Hunter. Chúng ta đã quá thiếu hụt sĩ quan rồi. Anh cũng biết đó. Hãy làm việc của anh đi, thiếu tá. Tôi phải gặp Corell.”
Hunter mỉm cười. Hắn đi đến cửa và mở ra. Hắn nói vọng ra ngoài cửa, “Vâng, ông ấy ở đây,” và hắn quay về phía sau nói với Lanser, “Prackle đấy. Anh ta muốn nói chuyện với đại tá.”
“Cho anh ta vào,” Lanser nói.
Prackle bước vào khuôn mặt lầm lì, gây gổ. “Ðại tá Lanser, thưa đại tá, tôi muốn…”
“Ngồi xuống,” Lanser nói. “Ngồi xuống nghỉ một lát. Hãy như một người lính tốt, thiếu úy.”
Vẻ cứng ngắc của Prackle nhanh chóng tan biến. Hắn ngồi cạnh chiếc bàn, tì khuỷ tay lên mặt bàn. “Tôi muốn…”
Lanser nói, “Khoan nói một lát đã. Tôi biết chuyện gì rồi. Anh không hề nghĩ là sự việc sẽ như thế này, đúng không? Anh tưởng nó hẳn tốt đẹp hơn.”
“Họ ghét chúng ta,” Prackle nói. “Họ rất ghét chúng ta.”
Lanser mỉm cười. “Tôi tự hỏi nếu tôi biết được chuyện gì. Cần phải có những người trai trẻ mới có những người lính tốt, và những người trai trẻ cần những phụ nữ trẻ, chuyện là vậy, phải không?
“Ðúng, chuyện là vậy.”
“Thế thì,” Lanser ôn tồn nói, “Cô ta có ghét anh không?”
Prackle nhìn ông ngơ ngẩn. “Tôi không biết, đại tá, lắm lúc tôi nghĩ cô ta đang đau buồn.”
“Và anh cảm thấy rất khốn khổ?”
“Tôi không thích nơi đây, thưa đại tá.”
“Không đúng, anh tưởng sự việc sẽ vui thú, đúng không? Thiếu úy Tonder suy sụp, anh ta bỏ đi để rồi bị đâm chết. Tôi có thể gởi anh về. Anh có muốn về không, dù biết rằng ở đây chúng tôi cần anh?”
Prackle trả lời khó khăn, “Không, thưa đại tá, tôi không muốn.”
“Tốt. Bây giờ tôi nói với anh, mong rằng anh sẽ hiểu. Anh không còn là một con người nữa. Anh là một binh sĩ. Sự thoải mái của anh không phải là điều quan trọng và nữa, thiếu úy, cuộc sống của anh cũng không quan trọng lắm. Nếu anh sống, anh sẽ còn có kí ức. Ðó là tất cả những gì anh sẽ có. Nhưng trong khi ấy anh phải nhận mệnh lệnh và thi hành chúng. Phần lớn những mệnh lệnh sẽ không vui thú gì, nhưng đó không phải là vấn đề của anh. Tôi nói thật, Thiếu úy. Họ đúng ra phải huấn luyện anh để giáp mặt những vấn đề này, chớ không phải để đi trên những đường phố rải hoa. Họ phải đào luyện tinh thần anh bằng sự thật, không phải với với những lời dối trá. Giọng nói của ông trở nên cứng rắn. “Nhưng anh đã nhận lãnh công tác, thiếu úy. Hoặc là anh sẽ ở lại, hoặc anh sẽ bỏ đi? Chúng tôi không thể chăm sóc tinh thần của anh được.”
Prackle đứng lên, “Cám ơn, thưa đại tá.”
“Và cô gái kia,” Lanser nói tiếp, “Cô gái đó, thiếu úy, anh có thể hãm hiếp cô ta, có thể bảo vệ cô ta, hay cưới cô ta – điều đó không quan trọng, miễn là khi anh được lệnh anh sẽ bắn cô ta.”
Prackle nói, giọng mệt lử, “Vâng, thưa đại tá, cám ơn.”
“Tôi khẳng định là tốt hơn anh nên biết điều ấy. Tôi khẳng định như thế. Ði đi, Thiếu úy, nếu ông Corell còn đợi, gọi ông ấy vào.” Và Lanser nhìn theo thiếu úy Prackle đi ra cửa.
Ông Corell đi vào, lúc này trông hắn đã thay đổi. Cánh tay trái của hắn bó bột, và hắn không còn là một Corell với dáng vẻ vui tính, thân hữu, tươi cười. Khuôn mặt hắn cau có, khổ sở, và cặp mắt cụp xuống ti hí như mắt của một con heo chết.
“Tôi đúng ra nên đến sớm trước đây, nhưng sự thiếu hợp tác của ngài làm tôi do dự.”
Lanser nói, “Ông đang chờ đợi phúc đáp về bản báo cáo của ông, tôi nhớ như vậy.”
“Tôi chờ đợi nhiều hơn thế. Ngài từ chối không cho tôi nắm một chức vụ trong chính quyền. Ngài nói tôi không còn giá trị. Ngài không nhận ra là tôi đã ở trong thị trấn này lâu hơn trước khi ngài đến. Ngài để thị trưởng ngồi lại chức vụ của ông ấy, ngược lại với lời khuyến cáo của tôi.”
Lanser nói, “Không có ông ta chúng ta sẽ gặp nhiều rối loạn hơn là chúng ta đang có hiện nay.”
“Ðấy chỉ là vấn đề chủ kiến,” Corell nói. “Người này là kẻ lãnh đạo một đám dân nổi loạn.”
“Bậy nào,” Lanser nói, “Ông ta chỉ là một người đơn giản.”
Với cánh tay không bị bó bột. Corell lấy từ túi áo bên phải một cuốn sổ đen và lấy ngón tay mở nó ra. “Thưa đại tá, ngài quên rằng tôi có những nguồn thông tin, và tôi đã ở đây lâu trước khi ngài đến. Tôi báo cáo với ngài là thị trưởng Orden đã luôn luôn có dính líu đến mọi chuyện xảy ra ở cộng đồng dân cư này. Trong đêm thiếu úy Tonder bị sát hại, ông ta đã ở trong ngôi nhà xảy vụ án mạng. Lúc cô gái kia trốn thoát ra những ngọn đồi, cô ả ở với một trong những thân nhân của ông ta. Tôi theo dõi cô ta đến đó, nhưng cô đã trốn mất. Lúc nào có người trốn thoát, Orden cũng biết được và giúp đỡ họ. Và tôi hết sức nghi ngờ là ông ta có mặt đâu đó trong câu chuyện những chiếc dù nhỏ kia.”
Lanser bồn chồn nói, “Nhưng ông không thể chứng minh được.”
“Không,” Corell nói, “Tôi không thể chứng minh. Nhưng chuyện gì tôi đã nghi ngờ chuyện ấy xảy ra. Có lẽ bây giờ ngài chịu lắng nghe tôi.”
Lanser lẳng lặng nói, “Ồng đề nghị chuyện gì?”
“Những đề nghị này, thưa đại tá, thực ra kiên quyết hơn là những đề nghị. Orden ngay lúc này phải bị giam giữ và sự sống còn của ông ta tùy thuộc vào tình trạng yên ổn của cộng đồng dân cư ở đây. Cuộc sống của ông ta phải tùy thuộc vào lần châm ngòi của một ống thuốc nổ.
Hắn đưa tay vào túi áo lần nữa lấy ra một tập sách nhỏ, hắn lật ra và trải nó trước mặt đại tá. “Ðây, thưa ngài, là lời phúc đáp cho bản báo cáo của tôi từ bộ tư lệnh. Ngài có thể để ý thấy nó cho tôi một quyền hạn nhất định.”
Lanser nhìn tập sách, và ông lặng lẽ nói. “Ông thực đã vượt qua mặt tôi rồi, có phải không?” Ống ngước nhìn Corell với vẻ ghét bỏ hiện rõ trong mắt. “Tôi nghe nói ông bị thương. Có chuyện gì đã xảy ra?”
Corell nói, “ Trong đêm viên thiếu úy của ông bị giết tôi bị phục kích. Ðội tuần tra cứu tôi. Vài người trong thị trấn trốn thoát đêm ấy bằng chiếc thuyền của tôi. Thưa đại tá, tôi xin được mạnh mẽ hơn, đưa ý kiến rằng thị trưởng Orden phải được giam cầm.”
Lanser nói, “Ông ta ở đây, ông ta không trốn thoát. Làm sao chúng ta có giam giữ ông ta chặc chẽ hơn chúng ta đang làm hiện nay.”
Ðột nhiên từ xa có tiếng nổ, cả hai quay đầu về hướng phát ra tiếng nổ. Corell nói, “Ðó, thưa đại tá, ngài biết rõ ràng là nếu cuộc thí nghiệm này thành công, chất nổ sẽ thả khắp các nước bị chiếm đóng.”
Lanser lặng lẽ nói, “Ông đề nghị thế nào?”
“Như tôi đã nói. Orden phải bị giam giữ để ngăn chận cuộc nổi loạn.”
“Nếu họ nổi loạn và chúng ta bắn Orden?”
“Vậy thì tên bác sĩ nhỏ kia sẽ là người kế tiếp; mặc dù hắn không giữ một chức vụ nào, nhưng hắn là người có quyền hành kế đến trong thị trấn.”
“Nhưng hắn không giữ một chức vụ nào.”
“Hắn có sự tin cậy ở dân chúng.”
“Và khi chúng ta bắn hắn, sau đó thế nào?”
“Khi đó chúng ta sẽ có quyền lực. Bọn nổi loạn sẽ tan vỡ. Khi chúng ta giết kẻ cầm đầu, bọn nổi loạn sẽ tan vỡ.”
Lanser hỏi với giọng châm biếm, “Ông thực sự nghĩ vậy?”
“Việc ấy phải như vậy.”
Lanser chầm chậm lắc đầu và ông gọi, “Lính gác!” Cánh cửa mở và một người lính xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Thượng sĩ,” Lanser nói, “Tôi ra lệnh giam giữ thị trưởng Orden, và bác sĩ Winter. Anh trông coi công việc canh giữ Orden và dẫn Winter về đây ngay.”
Người lính gác nói, “Thưa vâng, đại tá.”
Lanser ngước nhìn Corell và ông nói, “Thế đấy, tôi hi vọng ông biết được ông đang làm gì. Tôi thật sự hi vọng ông biết ông đang làm gì.”