Thấy Miêu Nhân Phượng một khi nổi giận thì thần uy lẫm liệt, Hồ Phỉ cũng thầm sợ hãi, ôm chặt Miêu Nhược Lan không dám dừng chân. Tới sườn núi, chàng kéo thừng bằng một tay, tuột luôn xuống dưới chân núi. Chàng biết gần đó có một cái hang rất ít người qua lại, liền giở hết khinh công chạy luôn đến đó. Tuy chàng phải bế Miêu Nhược Lan song người cô rất nhẹ, không làm giảm tốc độ chạy chút nào.
Chừng chưa uống xong một chung trà, chàng bế Miêu Nhược Lan vào hang,quấn chặt cô trong chăn rồi để cô ngồi tựa vào vách đá. Chàng thầm tính toán, nếu muốn giải huyệt đạo thì phải dựng đến người cô; nếu không giải cứu, cô lại không biết nội công càng để lâu chỉ sợ có hại chi sức khỏe. Thực là vô cùng khó xử,chàng bèn lấy mồi lửa nhóm cháy một cành cây khô.
Dưới ánh lửa, đôi mắt Miêu Nhược Lan như gợi sóng thu, khuôn mặt xinh xắn ngời sáng, chàng bèn nói:
-Miêu cô nương, tại hạ không hề có ý mạo phạm nhưng nếu muốn giải thông huyệt đạo cho cô nương thì khó tránh khỏi đụng chạm đến quý thể, vậy việc này nên như thế nào?
Miêu Nhược Lan tuy không thể gật đầu tỏ ý, song ánh mắt nàng dịu dàng như thẹn thùng cảm ơn chứ không hề có vẻ giận dữ. Hồ Phỉ mừng lắm, bèn thổi tắt lửa đi, đưa tay vào trong chăn khẽ ấn vào mấy chỗ huyệt đạo để làm thông kinh mạch cho cô.
Tay chân Miêu Nhược Lan dần dần cử động được, cô khẽ nói:
-Ðược rồi, xin đa tạ.
Hồ Phỉ vội rụt tay lại, đang định nói nhưng lại không biết nói gì. Một lúc lâu sau, chàng mới nói:
-Vừa nãy mạo phạm, thực là lỗi không cố ý. lòng này phân minh sáng láng, trời chứng giám cho, chỉ mong cô nương thứ lỗi.
Miêu Nhược Lan đáp:
-Tôi biết rồi!
Rồi hai người lại im lặng ngồi trước mặt nhau trong bóng tối. Ngoài hang tuy băng tuyết xuống đầy nhưng hai người thấy lòng ấm áp, thấy trong hang như có gió xuân dịu mát, ngày xuân tươi vui.
Một lúc sau, Miêu Nhược Lan lên tiếng:
-Không biết cha tôi bây giờ thế nào?
Hồ Phỉ đáp:
-Lệnh tôn là anh hùng vô địch, bọn chúng đâu phải địch thủ của ông. Cô nương yên tâm.
Miêu Nhược Lan khẽ thở dài:
-Ðáng tiếc, cha tôi tưởng rằng chàng… chàng không tốt với tôi.
Hồ Phỉ nói:
-Ðiều đó không đáng trách. Tình thế vừa nãy cũng thật khó xử.
Miêu Nhược Lan đỏ mặt lên, nói:
-Cha tôi có chuyện thương tâm cho nên hay nghĩ ngợi, xin Hồ huynh miễn thứ!
-Chuyện gì vậy? -Hồ Phỉ nói.
Lời vừa thốt ra, Hồ Phỉ đã biết ngay là lỡ lời, toan nói gì đó để đánh trống lảng nhưng nhất thời không biết nên nói gì. Chàng lấy hiệu là Tuyết Sơn Phi Hồ, ngày thường thông minh lanh lợi, mưu trí cơ biến, song hôm nay trước cô gái dịu dàng này thì không biết vì sao lại biến thành một người khác hẳn, tỏ ra hết sức vụng về.
Miêu Nhược Lan nói:
-Việc này nói ra thật xấu hổ nhưng tôi không muốn giấu huynh, đó là câu chuyện về mẹ tôi.
Hồ Phỉ kêu “A” một tiếng. Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Mẹ tôi đã xử sự sai lầm một việc.
Hồ Phỉ nói:
-Ai chẳng có lỗi lầm! Chuyện đó chẳng cần để dạ làm gì!
Miêu Nhược Lan thong thả lắc đầu nói:
-Ðây là việc sai lầm lớn lắm, là việc mà một người đàn bà không thể mắc phải trong đời, dù chỉ một lần. Sai lầm đó hủy hoại mẹ tôi, cả cha tôi suýt nữa cũng bị hủy hoại vì nó.
Hồ Phỉ lặng thinh, lòng thầm đoán ra được mấy phần. Miêu Nhược Lan nói tiếp:
-Cha tôi là hào kiệt giang hồ, mẹ tôi lại là tiểu thư lá ngọc cành vàng xuất thân từ một nhà quan. Một lần tình cờ cha tôi cứu được tính mệnh mẹ tôi, sau đó hai người thành thân. Hai người vốn không tương xứng lắm với nhau, nếu thế cũng chẳng có chuyện gì, nhưng cha tôi làm một chuyện rất sai là hay khen thân mẫu chàng trước mặt mẹ tôi.
-Khen mẹ tôi ư? -Hồ Phỉ ngạc nhiên.
Miêu Nhược Lan đáp:
-Ðúng thế. Hồi cha tôi so tài với lệnh tôn, ông thấy thân mẫu chàng oai phong lẫm liệt, có khí phách hơn cả đàn ông. Ngày thường nói chuyện phiếm, cha tôi tỏ ý hâm mộ lệnh tôn, nói rằng: “Hồ đại hiệp được người vợ vừa ý đến thế, sống một ngày hơn người khác sống trăm năm!”. Mẹ tôi nghe vậy, tuy không nói ra nhưng trong lòng rất không vui. Sau đó, Ðiền Quy Nông bên Thiên Long Môn đến nhà chúng tôi. Ông ấy tướng mạo tuấn tú, nói cười phong nhã, lại biết thủ thỉ làm vui lòng người. Mẹ tôi trong một lúc thiếu suy nghĩ, đã bỏ tôi lại, lẻn đi theo ông ấy.
Hồ Phỉ nhè nhẹ thở dài, không còn biết nói gì. Miêu Nhược Lan nghẹn ngào nói:
-Lúc ấy tôi mới lên ba, cha tôi bế tôi đuổi theo suốt đêm, không ăn không ngủ,cuối cùng đã đuổỉ kịp họ. Ðiền Quy Nông thấy cha tôi đâu dám động thủ. Còn mẹ tôi thì ra sức bênh vực cho ông ta. Thấy mẹ tôi thực lòng yêu ông ấy, cha tôi không có cánh nào khác là bế tôi về. Về tới nhà, ông ốm một trận suýt chết. Ông bảo tôi,nếu không vì sợ tôi bơ vơ côi cút, trên đời này không ai chăm nom thì ông đã chết quách rồi. Liền trong ba năm, ông không ra khỏi cổng lấy một bước, có lúc gọi mẹ tôi: “Lan ơi Lan. sao nàng dại dột thế?”. Tên của mẹ tôi cũng có chữ Lan.
Nói đến đây, Miêu Nhược Lan hơi đỏ mặt. Tên đàn bà con gái thường giữ kín,người ngoài chỉ được biết họ mà thôi. Riêng những người chí thân, gần gũi nhất mới nghe cô kể tên thật của mình ra. Hồ Phỉ ngà ngà ngây ngất như say rượu, lên tiếng nói:
-Miêu cô nương, Ðiền Quy Nông cố tình phá đám như thế thì chắc gì đã thật sự có tình ý với thân mẫu chăng?
Miêu Nhược Lan thở dài đáp:
-Cha tôi cũng nói như vậy, song ông thường trách mình, cho rằng nếu ông ân cần chăm sóc mẹ tôi thì bà chẳng đến nỗi bị người khác lừa. Cha tôi lấy hiệu là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”, song về mặt xử thế và giao tiếp với người thì ông thua xa Ðiền Quy Nông. Gã họ Ðiền lừa dối mẹ tôi thực ra là muốn lấy được bản đồ kho báu gia truyền của nhà họ Miêu. Tuy hắn khiến gia đình tôi tan nát, khiến tôi mất mẹ từ thửa ấu thơ song rốt cuộc vẫn là uổng phí tâm cơ. Mẹ tôi đã nhìn thấy tâm địa của hắn nên trước lúc lâm chung vẫn gửi trả chiếc thoa ngọc có giấu tấm bản đồ ở thoa ngọc cho cha tôi.
Thế rồi Miêu Nhược Lan kể lại tất cả những điều Lưu Nguyên Hạc mắt thấy tai nghe từ gầm giường, kể tới việc bọn Bảo Thụ giật lấy tờ bản đồ cùng bọn người này dựa vào thanh quân đao của Sấm Vương và tấm bản đồ để đi tìm kho báu như thế nào cho Hồ Phỉ nghe.
Hồ Phỉ căm tức nói:
-Lòng dạ gã họ Ðiền thật vô cùng thâm độc. Hắn sợ cha nàng nên không lấy được tờ bản đồ bèn mượn nhà quan bắt giam ông để buộc ông phải giao tờ bản đồ.
Nào ngờ lưới trời lồng lộng, cuối cùng không thoát khỏi quả báo oan nghiệt! Ôi,kho báu ấy không biết đã làm hại bao người rồi!
Ngừng giây lát rồi Hồ Phỉ nói:
-Miêu cô nương, cha tôi thành thân với mẹ tôi lại là nhờ kho báu ấy đấy!
Miêu Nhược Lan kêu lên:
-Ôi! Thật thế sao? Mau kể cho tôi nghe đi!
Cô tuy giữ gìn nhưng do ít tuổi, lúc háo hức liền giơ tay nắm chặt lấy tay Hồ Phỉ,song ngay sau đó nhận ra không tiện liền rụt tay về. Hồ Phỉ khẽ cầm lấy tay cô,không chịu buông. Miêu Nhược Lan mặt đỏ thôi không rút tay về nữa. Cô cảm thấy sức nóng ở bàn tay chàng thấm sâu đến tận tim mình. Hồ Phỉ nói:
-Cô nương biết mẹ tôi là ai không? Là em họ của trang chủ họ Ðỗ đấy!
Miêu Nhược Lan càng lấy làm lạ, nói:
-Tôi từ bé đã biết Ðỗ bá bá nhưng cha tôi chưa nhắc đến chuyện ấy bao giờ.
Hồ Phỉ nói:
-Tôi biết được chuyện này là từ thư để lại của cha mẹ tôi, có thể lệnh tôn chưa biết tỉ mỉ. Ðỗ trang chúa lần được một vài manh mối, đoán rằng kho báu phải ở quanh vùng núi tuyết này nên ở lâu đài trên núi đẻ tìm kiếm. Có điều ông ta xưa nay suy nghĩ chậm chạp, lại không có cơ duyên nên rút cục không tìm ra nơi để kho báu. Cha tôi ngầm tìm hiểu và tìm ra trước ông ta. Cha tôi vào trong hang để kho báu thấy cha Ðiền Quy Nông và ông nội cô nương chết trong hang. Ông đang định khui kho báu thì bất ngờ mẹ tôi cũng vào theo. Bản lĩnh mẹ tôi cao hơn Ðỗ trang chúa nhiều. Mấy ngày liền cha tôi loanh quanh trong vùng gần đấy nên mẹ tôi nhận ra được đầu mối. Bà vào tới trong hang liền ra tay với cha tôi. Hai người so tài thành quen nhau và khâm phục lẫn nhau, thế là cha tôi ngỏ lời cầu thân. Mẹ tôi cho biết từ nhỏ bà được anh họ là Ðỗ Hi Mạnh nuôi dưỡng nếu để cha tôi lấy hết kho báu thì bà mắc lỗi với anh họ, vì vậy hỏi cha tôi muốn có bà hay muốn kho báu, trong hai đằng chỉ được chọn một.
Cha tôi cười lớn, trả lời rằng châu báu có tới ngàn vạn cũng không bằng mẹ tôi.
Ông thuật lại việc này trên giấy, cất kín trong hang để sau này người nào tìm ra kho báu, đọc bài viết ấy tất hiểu rằng vật quý nhất trên đời này là tình yêu chân thành giữa hai trái tim thương mến nhau, quyết không phải là của báu đáng giá hàng mấy toà thành.
Miêu Nhược Lan nghe đến đây bất giác mơ màng khẽ, nói:
-Tuy cha mẹ huynh mất sớm nhưng sung sướng hơn cha tôi mẹ tôi nhiều.
Hồ Phỉ đáp:
-Còn tôi không cha không mẹ côi cút từ nhỏ thì đáng thương hơn cô nương.
Miêu Nhược Lan nói:
-Nếu cha tôi biết huynh còn sống trên đời này thì dù phải vứt bỏ tất cả cũng nuôi nấng huynh từ nhỏ. Như vậy từ nhỏ chúng ta đã được gặp nhau.
Hồ Phỉ đáp:
-Nếu tôi sống cùng gia đình cô nương, thì chỉ e lại bị ghét bỏ…
Miêu Nhược Lan cướp lời:
-Không, không đời nào! Nhất định tôi sẽ đối xử rất tốt với huynh như đối với anh trai ruột thịt của mình!
Tim đập rộn lên, Hồ Phỉ nói:
-Bây giờ mới gặp mặt nhau, có muộn không?
Miêu Nhược Lan không đáp, một lúc lâu sau mới nói:
-Không muộn đâu!
-Muội rất mừng! -Lát sau cô nói thêm.
Lòng mến mộ giữa nam nữ chỉ cần nửa câu là đủ truyền hết ý cho nhau. Hồ Phỉ nghe được câu ấy thì mừng quá, đáp:
-Suốt đời Hồ Phỉ không dám phụ lòng!
Miêu Nhược Lan nói:
-Muội nhất định học theo thân mẫu huynh chứ không học theo mẹ mình.
Mấy câu này cô chân tình nói với vẻ ngây thơ song ý tứ tỏ ra là quyết như vậy,đó là trao trọn số phận cả đời mình cho Hồ Phỉ, bất kể phận xấu hay tốt, bất kể mai sau là khổ hay sướng cũng đều chia xẻ với chàng.
Hai người nắm tay nhau không nói gì thêm, dường như hang núi bé nhỏ này là cả thế giới khác mà họ đặt mình trong đó.
Một lúc lâu sau, Miêu Nhược Lan nhắc:
-Chúng ta đi tìm cha muội đi, cùng đi nhé, mặc kệ những người của của Ðỗ trang chủ.
-Nào đi! -Hồ Phỉ đáp.
Tuy nói vậy nhưng trong đời, Hồ Phỉ chưa từng có được niềm hạnh phúc như vừa qua nên thực tình chàng không muốn rời hang. Miêu Nhược Lan cũng chung tâm trạng như thế, cảm thấy còn muốn nói chuyện thêm, gần nhau chút nào hay chút ấy, bèn hỏi:
-Ðỗ trang chủ là bề trên trong họ, sao huynh lại làm khó dễ cho ông ấy?
Hồ Phỉ căm tức nói:
-Việc này nói ra thật đáng giận, khi lâm chung, mẹ tôi nhờ cậy cha muội trông nom nuôi nấng tôi thành người. Trong đám tã lót của tôi, bà có để lại một số thứ và một số giấy tờ, trong đó ghi rõ ngày sinh tháng đẻ của tôi, quên quán họ Hồ, tên tuổi tổ tông cùng họ hàng thân quyến còn sống. Sau đó xảy ra sự biến, Bình Tứ thúc thúc ẵm tôi bỏ trốn. Ông tưởng cha muội muốn hại tôi nên thấy trong giấy tờ để lại có tên họ Ðỗ trang chủ nên liền bế tôi tìm tới. Nào ngờ Ðỗ trang chủ sinh lòng xấu xa, nghĩ rằng cha tôi có quyển sách võ học bí truyền, lại lờ mờ đoán rằng cha mẹ tôi biết điều bí mật về kho báu nên đã lục soát số di vật mà mẹ tôi để lại.
Bình Tứ thúc thúc biết chuyện không hay, suốt đêm bế tôi chạt trốn khỏi núi, mang theo được quyển sách võ học bí truyền đó, nhưng gói di vật mẹ tôi để lại cho tôi thì thất lạc trên trang trại. Lần này tôi hẹn với ông ta là muốn hỏi tại sao ông bắt nạt đứa trẻ mồ côi là tôi và đòi lại số di vật mẹ tôi để lại đó.
Miêu Nhược Lan nói:
-Ðỗ trang chủ xưa nay đối xử với người ôn hoà khiêm nhường, lại rất hiếu khách, không ngờ lại đối xử với huynh tồi tệ đến vậy.
Hồ Phỉ đáp:
-Con người này giả nhân giả nghĩa, chỉ một việc ông ta mưu hại cha muội có thể nhận ra những việc khác…
Nói đến đây, giọng chàng dịu hẳn lại:
-Nhưng bây giờ tôi không oán hận ông ta nữa. Nếu không có ông ta, làm sao tôi gặp được muội?
Lúc này ngoài hang chợt có tiếng binh khí va chạm nhau, văng vẳng xen kẽ với tiếng quát tháo chửi bới. Những tiếng này trầm đục, Hồ Phỉ lờ mờ nhận ra được còn Miêu Nhược Lan chỉ tưởng đó là tiếng gió lay tùng bách, tiếng tuyết rơi từ trên núi.
Hồ Phỉ nói:
-Tiếng này vang lên từ lòng đất, thật lạ! Muội ở đây, tôi ra xem sao!
Nói xong đứng ngay dậy. Miêu Nhược Lan nói:
-Không, cho muội đi cùng!
Hồ Phỉ cũng không muốn để nàng một mình trong hang liền nói “Thôi được!” rồi cầm tay nàng ra khỏi hang lần theo tiếng động mà đi.
Hai người thong thả đạp tuyết đi chừng mấy chục dặm. Hôm ấy là ngày rằm tháng ba, trăng đang độ tròn, ánh trăng như bạc rót xuống ánh tuyết như bạc lại phản chiếu trên da dẻ trắng ngần của Miêu Nhược Lan, thật là cảnh tiên trên cõi trần gian, nào biết đêm nay là cái đêm gì? Lúc này Hồ Phỉ đã cởi áo ngoài khoác lên vai cho Miêu Nhược Lan. Dưới ánh trăng, bốn mắt nhìn nhau, thật là không còn gì vướng bận trong lòng nữa.
Hai người thấy lòng êm dịu, những câu thơ ca vịnh tình ý gắn bó của người xưa bỗng từng câu buộc ra từ miệng họ. Hồ Phỉ bất giác ngâm khẽ:
-Nghĩ ngôn ẩm tửu, dữ tử giao lão.
Miêu Nhược Lan ngẩng đầu nhìn lên vào mắt chàng khe ngâm theo:
-Cầm sắt tại ngư, mạc bất tĩnh hảo.
Ðó là những câu đối đáp giữa một đôi vợ chồng được ghi lại trong Kinh Thi, tình ý triền miên, dịu dàng vô hạn. Chợt tiếng người trong lòng đất vang rõ hơn.
Hồ Phỉ nhận biết tinh hơn, nói:
-Bọn họ đã tìm đến nởi cất giấu kho báu đang tranh giành chém giết nhau dưới đó.
Từ lá thư để lại của cha, chàng biết nơi để kho báu, đã từng vào đó mấy lần và lấy ra tờ giấy cha mẹ cất giấu năm nào và cả cây bút bằng vàng của cha Ðiền Quy Nông. Sáng hôm nay, chàng búng cây bút vàng cho Ðiền Thanh Văn là có ý cảnh cáo. Tuy biết rõ kho báu nhưng thể theo ý cha mẹ, chàng không muốn khui nó ra.
Lúc này lần theo hướng tiếng động chàng đoán bọn Bảo Thụ thấy châu báu vàng bạc thì vằn mắt lên, đang tranh cướp lẫn nhau.
Hồ Phỉ đoán không sai một li. Dưới hang sâu, người của các phái Thiên Long Môn, ẩm Mã Xuyên sơn trại, Bình Thông tiêu cục đang lăn xả chém giết nhau để tranh giành của báu. Bảo Thụ khoanh tay đứng xem, chỉ cười nhạt, thầm nghĩ cứ để cho chúng mày đâm chém nhau vãn đi, lão hoà thượng này sẽ thong thả dọn dẹp chúng mày. Chu Vân Dương giằng co với Hùng Nguyên Hiến, cả hai lăn lộn dưới đất. Bỗng cả hai lăn đến cạnh đống lửa. Lúc đầu cả hai đều muốn đè đối phương trên đống lửa, nào ngờ lăn lộn một lúc suýt nữa làm tắt cả lửa. Bảo Thụ chửi mắng:
-Muốn chết cóng cả lũ hay sao mà dập lửa đi thế?
Lão giơ chân phải kê dưới thân mình Chu Vân Dương rồi hất tung cả hai gã cùng bay lên rồi rơi biu bịch xuôngs đất. Bảo Thụ cười hì hì, cúi xuống nhặt mấy thanh củi to bỏ thêm vào đống lửa. Ðang định ưỡn thẳng lưng đứng lên, lão chợt thấy dưới ánh lửa bập bùng soi rõ hai bóng người trên vách băng trước mặt. hai bóng người này cùng đang rung rinh khiến lão giật mình quay lại nhìn. Thì ra ở cửa hang có hai người sánh vai nhau cùng đứng, một người có vẻ e lệ, đó là Miêu Nhược Lan, người kia râu ria tua tủa, mặt đầy sát khí, đó là Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ.
Bảo Thụ “A!” lên một tiếng, vẫy tay phải ra, một xâu tràng hạt sắt bay đi. Tràng hạt lúc đầu ném ra liền như một chuỗi nhưng thực ra dây xâu đã bị lão ngắt từ trước nên mâý chục hạt bỗng chia ra trên dưới, tả hữu đánh vào những huyệt đạo quan trọng trên người Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan. Ðây là tuyệt kĩ do lão khổ luyện hơn mười năm mới thành, chuyên nhằm bảo vệ mình và cứu người, chưa bao giờ dùng để đón đánh địch thủ cả. Lúc này, gặp địch thủ tài giỏi quá đột ngột,trong lúc cấp bách, lão phải giở chiêu sát thủ này ra.
Hồ Phỉ cười nhạt, bước tới một bước, che chắn cho Miêu Nhược Lan. Bảo Thụ thấy chàng không có công phu kì lạ nào chống đỡ thì mừng lắm, thầm nghĩ: “Thì ra ngươi chỉ phách lối, công phu chẳng qua có vậy, phen này phải khiến cho ngươi không có đất chôn mới được!”. Lão đang lúc đắc ý chợt thấy Hồ Phỉ vung hai tay áo ra là đã thu hết mấy chục hạt sắt đang vun vút bay tới, rồi từ tay áo có tiếng lách tách như tiếng băng rơi, mấy chục viên sắt đã bay cả sang vách băng, làm băng vụn toé ra tứ phía.
Bảo Thụ thấy thế thì bất giác sợ mất mặt, vội nhảy lùi về phía sau Tào Vân Kỳ.
Sợ Hồ Phỉ đuổi theo, lão la lên “Hỏng rồi!” hai tay chộp lấy lưng Tào Vân Kỳ, nhấc tấm thân cao lớn ấy lên ném vào đống lửa. Lão định dập tắt lửa đê Hồ Phỉ không thấy được lão, nào ngờ đống lửa vừa được bỏ thêm củi khô đang rực cháy, Tào Vân Kỳ ngã vào lửa, lửa bén vào quần áo hắn khiến trong hang càng thêm sáng.
Hồ Phỉ thấy Bảo Thụ vừa bước lên đã giở ngay độc thủ ra với mình và Miêu Nhược Lan, lại nghĩ tới những điều Miêu Nhược Lan vừa kể, đủ thấy lão hoà thượng này bỉ ổi ham tiền, đã hại đến tính mạng cha mình thì lửa giận trong lòng bùng lên chẳng khác gì đống lửa đang cháy trong hang vậy. Chàng cúi nhặt một vốc châu báu đặt lên lòng bàn tay trái, dùng ngón tay trỏ bên phải không ngừng búng đi.
Chỉ thấy nào trân châu, san hô, bích ngọc, mã não, phỉ thuý, bảo thạch, ngọc mắt mèo, ngọc xanh tố mẫu… thôi thì đủ thứ quý hiếm bay tới như mưa trên người Bảo Thụ. Mỗi hạt ngọc bắn tới khiến lão đau đớn khôn cùng. Lão vọt lên, cui xuống cố tránh nhưng hễ ngón tay Hồ Phỉ búng ra, châu báu bắn tới đều trúng cả không chệch chút nào. Người trong hang khá đông, vậy mà số châu báu này không khi nào chạm vào người khác.
Nhìn thấy cảnh đó, bọn Lưu Nguyên Hạc, Ðào Bách Tuế đều nép sát người vào vách hang không dám động đậy. Lúc đầu Bảo Thụ còn né đông tránh tây, sau mắt cá chân trúng liền hai viên ngọc bích lão ngã ngay xuống, không đứng dậy được,đành kêu gào lăn lộn dưới đất. Lúc trước, lão chỉ sợ châu báu không nhiều, lúc này lão lại mong càng ít châu báu càng hay.
Hồ Phỉ càng búng càng nặng tay song cố ý tránh những chỗ nguy hiểm đến tính mạng lão, để cho lão nếm đủ mùi cay đắng. Những người kia lùi cảvào một góc hang chăm chú ngó xem, ai nấy hồn xiêu phách lạc, thở cũng không dám thở mạnh.
Miêu Nhược Lan thấy Bảo Thụ kêu rên thê thảm quá, trong lòng không nỡ bèn nói nhỏ:
-Người này xấu xa nhưng lão nếm đòn thế đủ rồi, tha cho lão đi!
Bình sinh Hồ Phỉ đã trừ ác là trừ tận gốc, huống hồ kẻ đó chính là kẻ thù đã giết hại cha mẹ mình, nhưng vừa nghe Miêu Nhược Lan nói vậy, chàng bỗng thấy mình đã hưởng hạnh phúc cực lớn nên lòng căm giận kẻ thù độc ác nhất trên đời cũng vơi đi nhiều. Chàng bèn vung tay trái ra, hơn mười mảnh ngọc quý còn lại trên tay bắn ra kêu lách tách, găm hết vào trong vách băng. Mọi người đều kinh hãi, thầm nghĩ: “Số đá quý ấy nếu cho Bảo Thụ nếm mùi, thì chỉ một mảnh thôi, cũng đủ lấy đi tính mệnh lão!”.
Hồ Phỉ quét ánh mắt giận dữ từ trái sang phải, ánh mắt tia đến mặt người nào,người ấy bất giác cúi gầm mặt xuống, không dám đón ánh mắt chàng. Trong hang im lặng như tò, Bảo Thụ tuy đau đớn trên người song không dám rên nửa tiếng.
Một lúc sau, chàng quát lên:
-Các vị ham châu báu đến thế thì ở lạ trong hang này mà làm bạn với châu báu nhé!
Nói xong chàng dắt tay Miêu Nhược Lan quay gót bước ra.
Cả bọn không ngờ chàng chịu dễ dàng buông tha bon họ đến thế nên đều mừng rỡ khi nghe tiếng bước hcân hai người xa dần trong đường hầm. Họ kêu lên vui vẻ rồi cúi xuống nhặt châu báu.
Ra khỏi đoạn có hai tảng đá tròn, Hồ Phỉ nói:
-Chúng mình ngồi đây đợi một lát xem họ có chịu ra không. Ai ít lòng tham,chịu rút ra ngoài thì tha mạng sống của người đó.
Lúc này trong hang mọi người dùng tay bới nhặt lung tung, chỉ giận cha mẹ không sinh cho mình vài cái tay nữa. Một lúc lâu sau, bỗng trong đường hầm vang lên một hồi tiếng đóng nện nặng nề, bọn họ lúc đầu không hiểu, sau mới nghĩ ra thì ai nấy hoảng sợ, mặt xám ngoét, cùng kêu lên:
-Trời ơi, nguy mất rồi!
-Hắn lấp chặt lối ra rồi!
-Liều mạng với hắn thôi!
Trong lúc nguy cấp, mọi người tranh nhau ùa ra. Ðến được chỗ hai tảng đá tròn thì hai tảng đá đó đã bị Hồ Phỉ đẩy về chỗ cũ, chặn cứng lối ra. Ðường hầm chật chội, ở phía ngoài còn có chỗ để đẩy, còn phía trong chỉ đủ chỗ cho mọi người đứng. Mặt đá lại trơn nhẵn không bám vào đâu được mà xê dịch, bị lấp kín như thế này, chỉ một lúc sau số băng tan thành nước sẽ đông cứng lại, nếu bên ngoài không có người đến cứu thì người trong hang không sao thoát ra ngoài được.
Miêu Nhược Lan thấy không nỡ, nói:
-Huynh định chôn sống họ hay sao?
Hồ Phỉ đáp:
-Muội nói đi, trong số đó ai là người tốt, đáng được tha mạng nào.
Miêu Nhược Lan thở dài:
-Trên đời này, ngoài cha muội và huynh, muội không còn biết có ai thực sự là người tốt cả. Song huynh không thể giết hết kẻ xấu trong thiên hạ được.
Hồ Phỉ sững người, hỏi:
-Huynh sao kể được là người tốt?
Miêu Nhược Lan ngẩng lên nhìn chàng, đáp:
-Muội biết huynh là người tốt. Khi chưa gặp huynh, muội đã biết rồi kia! Ðại ca,đại ca có biết lúc nào trái tim muội đã thuộc về đại ca không?
Ðây là lần đầu tiên nàng buộc miệng gọi chàng là “đại ca”, nhưng tiếng này gọi tự nhiên, trôi chảy, dường như đã quen gọi như thế từ rất lâu. Hồ Phỉ không sao kìm nén được nữa, dang tay ra ôm chặt lấy nàng. Miêu Nhược Lan cũng vòng tay ôm lại, cả người tựa vào lòng chàng. Hai người ôm lấy nhau, chỉ mong sao giây phút này dài vô tận.
Hai người ôm nhau như thế không biết đã được bao lâu thì ngoài cửa hang vang lên mấy tiếng bước chân. Hồ Phỉ thầm nghĩ: “Hỏng rồi, mình lấp cửa đường hầm để chôn sống bọn kia thì lại có: “con sẻ vàng rình con bọ ngựa bắt con ve”, thế là lại có kẻ khác lấp cửa hang chôn sống mình!”. Tay vẫn ôm Miêu Nhược Lan, Hồ Phỉ nhanh chóng đưa nàng rời khỏi hang.
Dưới ánh trăng, họ thấy trên tuyết có hai người ra sức chạy trốn, hiển nhiên là hai khách võ lâm đã so tài với Hồ Phỉ trên đỉnh núi tuyết. Chàng cười, bảo:
-Cha muội đuổi chúng đấy.
Chàng cúi xuống vốc một nắm tuyết, vận lực ra ngón tay nắm tuyết thành hòn cứng như đá. Chàng vung tay ra, hòn tuyết bay thẳng đánh trúng sau lưng một người, người này ngã xuống không dậy được. Người chạy sau thất kinh, ngoái cổ lại nhìn thì một hòn tuyết khác bay trúng vào ngực, lập tức ngã ngửa ra. Tuy hai kiểu ngã khác nhau song cả hai đều không sao đứng dậy được.
Hồ Phỉ cười ha hả rồi chợt dịu giọng hỏi:
-Trái tim muội thuộc về huynh từ khi nào? Huynh nghĩ chắc không thể sớm hơn huynh được. Phút đầu tiên nhìn thấy muội, huynh… huynh đã không còn làm chủ được bản thân nữa.
Miêu Nhược Lan thủ thỉ:
-Mười năm trước đây, khi mới lên bảy, muội nghe cha kể chuyện về cha mẹ đại ca, lòng muội chỉ toàn nghĩ tới đại ca. Muội tự nhủ, nếu cậu bé đáng thương đó còn sống trên đời này muội sẽ chăm lo cho cậu ta suốt đời để cậu ta đưọc sung sướng,quên thủa nhỏ đã bị người ta bắt nạt, xử tệ như thế nào.
Hồ Phỉ cảm kích trong lòng, không biết nói gì hơn, chỉ biết ôm chặt nàng vào lòng, qua vai nàng trông ra, bỗng chàng thấy trên đỉnh núi tuyết có mấy bóng đen đang bám dây trượt xuống. Hồ Phỉ kêu lên:
-Chúng mình chặn bọn xấu xa này cho cha muội nhé!
Nói xong, chàng vận lực vào gan bàn chân rồi ôm Miêu Nhược Lan chạy gấp,chốc lát đã tới chân đỉnh núi tuyết. Lúc này hai người đã đặt chân lên đất chỗ chân núi, mấy người khác đang tuột theo sau. Hồ Phỉ đặt Miêu Nhược Lan xuống, hai tay nắm hai hòn tuyết rồi cùng lúc vung ra, hai người khách dưới chân núi ngã liền.
Chàng đang định vung tuyết đánh bọn chưa xuống tới đất, chợt nghe lưng chừng núi có có người tiếng nói rành rọt:
-Ta thả chúng đi đấy, đừng ai cản chúng!
Từng tiếng một trong hai câu này vang lên từ lưng chừng núi xuống, âm vang và rành rọt, đó chính là tiếng nói của Miêu Nhân Phượng. Miêu Nhược Lan mừng rỡ gọi:
-Cha!
Tiếng nói ấy xa ngoài trăm trượng nhưng âm thanh từ xa vang tới chẳng khác nào người nói ở ngay trước mặt. Hồ Phỉ thấy nội lực Kim Diện Phật quả thực thâm hậu hơn hẳn mình, bất giác càng thêm khâm phục. Chàng vung hai tay ra, hai hòn tuyết nằm trong tay chàng lại cùng bay đi, lại trúng vào huyệt đạo hai người nằm dưới đất, song lần trước là điểm huyệt, lần này là giải huyệt. Hai người này nhúc nhích mấy cái rồi chống tay đứng lên, bỏ chạy thục mạng.
Tiếng Miêu Nhân Phượng từ lưng chừng núi lại vang lên:
-Quả nhiên công phu rất khá, chỉ tiếc là học chưa tốt!
Lời bình gồm mười hai chữ này, mỗi tiếng lại gần thêm ra, rồi một người cao gầy bám thừng tụt xuống. Chữ “tốt” vừa ra khỏi miệng thì người này đã đứng ngay trước mặt Hồ Phỉ. Hai người giương mắt nhìn nhau, đều không nói gì, chỉ nghe xung quanh tiếng lạo xạo vang lên, đó là bước chân trên tuyết của những kẻ lên núi lần này được thoát chết chạy tản ra tứ phía.
Dưới ánh trăng, một người khập khiễng bước tới gần, chính là trang chủ Ðỗ Hi Mạnh. Lão đưa một cái bọc dài chừng hai gang tay cho Hồ Phỉ, run run nói:
-Ðây là di vật cũ của mẹ cháu, trong này không thiếu một thứ gì, cháu hãy nhận lấy đi!
Hồ Phỉ nhận lấy cái bọc, cảm thấy như có một luồng hơi nóng từ đấy truyền vào tim, khiến chàng run rẩy cả người. Nhìn theo bóng Ðỗ Hi Mạnh cà nhắc xa dần trong tuyết, Miêu Nhân Phượng thầm nghĩ: “Người này văn võ toàn tài, kết giao khắp thiên hạ, cũng gọi được là một hào kiệt, tình bạn với mình cũng đã trải hơn hai chục năm. Chỉ vì một sai lầm một lúc mà thân tàn mang tiếng xấu, thực là đáng tiếc!”. Ông không biết Ðỗ Hi Mạnh và mẹ Hồ Phỉ là chỗ họ hàng gần gũi, càng không biết Hồ Phỉ là đứa con côi mà mình thương nhớ không quên trong hơn hai chục năm qua. Ông thong thả quay người lại, thấy con gái mình đang khoác áo đàn ông thẹn thò đứng trong tuyết. Ông thầm nghĩ, chàng trai kia tuy cứu mình thoát chết nhưng lại làm hoen ố sự trinh trắng của con gái mình, lại nghĩ đến chuyện
người vợ thất tiết bỏ nhà, giận không thể giết hết bọn đàn ông vô hạnh đểu cáng trong thiên hạ. Nghĩ đến đây ngực ông như muốn vỡ ra, khàn khàn bảo Hồ Phỉ:
-Theo ta!
Nói xong sải chân bước đi. Miêu Nhược Lan kêu lên:
-Cha, Hồ đại ca là…
Miêu Nhân Phượng vốn trầm mặc ít nói, xưa nay không thích nói thừa dù chỉ một tiếng, cũng không thích nghe thừa một lời nào, lúc này lại đang cơn giận bèn không cho con gái nói nữa. Thấy Hồ Phỉ đưa tay toan dắt con gái mình đi theo, ông quát to:
-To gan thật!
Ông lướt tới giơ tay trái lên, bàn tay to như chiếc quạt lá nắm chặt lấy cánh tay trái của Hồ Phỉ, nói:
-Lan Nhi, con đứng đây. Cha có mấy câu cần nói với nó.
Nói rồi chỉ một ngọn núi bên phải. Ngọn núi này tuy không cao vút tận mây như ngọn Ngọc Bút song phần nguy nga hiểm trở cũng chẳng kém là bao. Ông bỏ cánh tay Hồ Phỉ ra, đi nhanh lên núi. Hồ Phỉ nói:
-Lan muội, cha muội đã nói như vậy, huynh phải đi một lát đây. Muội đợi ở đây nhé!
Miêu Nhược Lan nói:
-Ðại ca nhận lời với muội một việc…
Hồ Phỉ đáp:
-Ðừng nói một việc, một ngàn một vạn việc cũng chiều theo ý muội.
Miêu Nhược Lan nói:
-Nếu cha muội muốn huynh lấy muội…
Hai tiếng cuối cùng nhỏ như tiếng muỗi kêu cơ hồ không nghe thấy, rồi nàng cúi mặt xuống, ngượng ngùng mãi không thôi. Hồ Phỉ trao cái bọc vừa nhận từ Ðỗ Hi Mạnh lúc nãy cho Miêu Nhược Lan, dịu giọng nói:
-Muội yên tâm. Huynh giao di vật của thân mẫu huynh cho muội. Trong thiên hạ không còn một vật ước định nào trang trọng như vật này cả.
Miêu Nhược Lan nhận lấy cái bọc, bất giác run rẩy, cúi đầu nói:
-Tất nhiên muội tin huynh rồi, có điều muội hiểu tính cha muội. Nếu ông giận dữ thậm chí đánh huynh, thì xin huynh hãy nể mặt muội, nhường nhịn ông lần này.
Hồ Phỉ cười:
-Ðược, huynh nhận lời!
Nhìn phía xa, bóng Miêu Nhân Phượng lúc ẩn lúc hiện giữa những mô đá phủ tuyết trắng đang chạy lên đỉnh núi với tốc độ cực nhanh. Hồ Phỉ thơm nhẹ lên má Miêu Nhược Lan rồi vận khí chạy theo Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng.
Theo dấu chân trên tuyết, Hồ Phỉ ngoặt qua mấy khúc quanh co chạy lên núi.
Chỉ thấy đường lên ngày càng một hiểm trở không dám sơ ý chút nào, chỉ e sẩy chân một cái là thịt nát xương tan như chơi. Chạy đến đoạn sau, vách núi đều là băng tuyết đông cứng, rất trơn, không có chỗ để chân mà lên. Chàng thầm nghĩ:
“Miêu đại hiệp cố ý chọn đường núi hiểm, hẳn là muốn kiểm tra võ công của mình đây!”. Thế rồi, triển khai khinh công, ra sức trổ tài, đường núi càng hiểm trở chàng chạy càng nhanh. Chuyển qua một khúc ngoặt nữa, chàng bỗng thấy bóng người cao gầy đứng trên một phiến đá lồi bên vách núi, hình dáng nổi bật trên nền trời xanh thẫm như một cây cổ thụ khô cằn, đó chính là Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng với biệt hiệu “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”.
Hồ Phỉ sững người, vội vàng dừng bước, hai chân sử dụng công phu “Thiên cân trụy” đặt người vững chãi bên vách núi thẳng đứng. Miêu Nhân Phượng trầm giọng nói:
-Tốt, ngươi có giỏi tới đây!
Ông quay lưng về phía mặt trăng, mặt sấp bóng nên không nhìn rõ nét mặt.
Hồ Phỉ thở một hơi; trong lúc đối diện với người mà bình sinh nghĩ tới ngàn vạn lần này, chàng không biết tính sao cho phải.
Ông ta là kẻ thù giết cha nhưng lại là cha Miêu Nhược Lan.
Ông ta khiến mình côi cút buồn khổ một đời, song Bình Tứ thúc thúc nói ông ta là một người hào hiệp trượng nghĩa, không hề có ý gì không phải với cha mẹ mình.
Ông ta lấy hiệu là “Ði khắp thiên hạ không địch thủ”, võ nghệ không có người thứ hai trên đời, song ta chưa phục, muốn thử xem ông ta mạnh hay ta mạnh?
Nhà họ Miêu là kẻ thù nhiều đời với nhà họ Hồ, hơn trăm nay đối đầu không dứt, song ông ta không truyền võ công cho con gái, phải chăng thật lòng mong muốn mối thù truyền kiếp đó đến ông ta thì cởi bỏ?
Vừa nãy ta cứu tính mạng của ông ta, song chính mắt ông ta thấy Miêu Nhược Lan chung chăn chung giường với ta, tin chắc ta đã giở trò vô lễ với con gái ông ta,nào biết ông ta có thứ lỗi cho ta không?
Miêu Nhân Phượng thấy vẻ hào kiệt thô dã, râu ria tua tủa của Hồ Phỉ mường tượng như dáng vẻ Hồ Nhất Ðao năm xưa thì trong lòng rung động song ngay lập tức nhớ ra con trai Hồ Nhất Ðao đã bị người hại, ném xuống sông ở Thương Châu rồi. Người này tướng mạo khá giống, có lẽ là ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Lại nghĩ đến chuyện hắn làm nhục con gái yêu độc nhất của mình thì lửa giận bừng bừng, tay trái giơ lên, tay phải đấm vù một cái thẳng tới ngực Hồ Phỉ.
Hồ Phỉ chỉ đứng cách có vài sải chân, thấy Miêu Nhân Phượng vung quyền đánh tới, dũng mãnh vô cùng thì đành giơ chưởng ra đỡ. Hai người quyền, chưởng giao nhau, mỗi bên đều thấy chấn động trong người. Miêu Nhân Phượng từ khi so tài với Hồ Nhất Ðao đến nay, hơn hai chục năm qua chưa gặp được địch thủ, lúc này đường quyền của mình bị Hồ Nhất Ðao hóa giải, biết đối phương luyện được chưởng pháp tinh diệu và nội lực thâm hậu thì lòng mong muốn thắng địch càng tăng. Ông vận chưởng thành luồng gió, liên tiếp ra liền ba chiêu.
Hồ Phỉ lần lượt hoá giải, đến chiêu thứ ba thì chưởng lực của Miêu Nhân Phượng cực mạnh, tuy nhanh nhẹn né tránh song người lảo đảo mấy cái, suýt nữa rơi xuống vực. Chàng thầm nghĩ: “Nếu nhường nhịn nữa thì ông ta đến buộc mình rơi xác mất thôi!”. Thấy Miêu Nhân Phượng phi chân trái đá thẳng vào bụng dưới, Hồ Phỉ lập tức tay phải ra quyền, tay trái ra chưởng cũng đánh vỗ vào mặt đối phương. Chiêu đánh này khiến kẻ địch không thể không lui, là chiêu tài tình để hoá giải cú đá chân trái của đối phương. Chiêu này tuy Hồ Phỉ ra tay rất nặng song chưa phải toàn
lực. Có điều cao thủ so tài không hề có chút nhường nhịn. Miêu Nhân Phượng giơ cánh tay đón đỡ với tất cả sức lực. Bốn cánh tay giao nhau vang lê hai tiếng tiếng răng rắc. Hồ Phỉ thấy ngực ngâm ngẩm đau, vội vàng vận khí chống đỡ. Nào ngờ quyền pháp Miêu Nhân Phượng dũng mãnh khôn bì, một khi đã chiếm lợi thế thì thế quyền ra càng lúc càng mạnh, không thể cho đối phương có cơ hội lấy hơi. Nếu ở chỗ đất bằng, Hồ Phỉ có thể nhảy ra khỏi vòng đấu né chạy mấy bước để tránh luồng chưởng phong của ông ta, sau đó quay trở lại đấu tiếp. Nhưng ở nơi vách đá dựng đứng này, thực là không có đất lùi, chàng đành nghiến chặt răng, sử dụng “Xuân tằm chưởng pháp”, che kín những chỗ trọng yếu trên toàn thân.
Mọi chiêu trong “Xuân tàm chưởng pháp” đều là thế thủ, ra tay cực ngắn, giơ chân đá không quá một gang, nhưng chiêu thuật kín kẽ vô cùng, khắp người không hề để lộ một chút sơ hở. Chưởng pháp này vốn dùng khi bị người vây đánh mà bản thân ở trong tình thế rất bất lợi, không mong tấn công chỉ không cần sơ hở mà thôi.
Tuy giữ được mình kín nhưng phép này có một điểm hết sức bất lợi là ngay từ đầu đã đứng ở thế không thắng, tên gọi “Xuân tàm chưởng pháp” quả là con tằm kết tơ tự trói buộc mình, không thể phản kích cho dù trong chiêu số của kẻ địch có sơ hở lớn đến mấy, nếu không thay đổi chưởng pháp thì không thể đánh thắng được.
Miêu Nhân Phượng ra chiêu mỗi lúc một gấp; thấy đối phương ở trong tình thế rất bất lợi nhưng dù ông có tấn công mạnh mẽ đến mấy, Hồ Phỉ cũng có cách hoá giải. Có điều anh ta chỉ giữ thế thủ chứ không tấn công thành thử ông không hề gặp nguy hiểm, bèn không cần phòng ngự nữa, dốc toàn lực ra tấn công.
Ðánh nhau đang lúc say sưa, Miêu Nhân Phượng tung ra một quyền, Hồ Phỉ tránh được, nắm đấm thoi vào vách núi là băng tuyết tung toé, một mảnh băng bắn vào mi mắt chàng. Mi mắt là chỗ mềm nhất, lần này ở ngoài dự liệu, không kịp phòng bị nên Hồ Phỉ thấy mắt đau nhói; tuy chàng không dám giơ tay lên giụi song nhau,
Hồ Phỉ chống đỡ được chỉ nhờ một chân, thấy Miêu Nhân Phượng phi đạp mà không có chỗ tránh thì than: “Thôi rồi! Thôi rồi! Hôm nay rốt cuộc mình mất mạng về tay ông ta!”. Trong lúc nguy nan, cầu được sống trong lúc cầm chắc cái chết,chàng cũng giậm chân phải, người vọt lên hơn một trượng rồi lộn ngược như con diều hâu bổ từ trên lưng chừng trời xuống. Miêu Nhân Phượng kêu to: “Hay lắm!”
rồi dùng vai xuống hích mạnh. Hồ Phỉ giơ song quyền đánh trúng vai song bị ông ta hích mạnh, bắn ra khỏi bờ vực rơi thẳng xuống dưới.
Hồ Phỉ cười thê thảm, một ý nghĩ tóe lên trong óc như tia chớp: “Ta từ nhỏ mồ côi khổ sở, nhưng trước khi chết được Lan muội yêu thương, thế thì cũng không uổng cả cuộc đời”. Bỗng cánh tay chàng bị nắm chặt, cú rơi thình lình dừng ngay lại, thì ra Miêu Nhân Phượng đã kịp nắm lấy cánh tay chàng, kéo chàng lên. Ông nói:
-Ngươi đã cứu tính mạng ta, bây giờ ta tha cho ngươi để đáp lại. Một mạng đổi một mạng, chẳng ai nợ nần ai. Nào, đánh tiếp đi!
Nói rồi đứng sang một bên, ngang hàng với Hồ Phỉ, không chiếm lợi thế là dựa vào vách núi nữa.
Hồ Phỉ thoát chết, không còn muốn đánh tiếp, chắp tay nói:
-Vãn bối không phải là địch thủ của Miêu đại hiệp, còn tỉ thí làm gì? Miêu đại hiệp muốn xử trí như thế nào, vãn bối xin vâng lời là được rồi.
Miêu Nhân Phượng chau mày nói:
-Lúc đầu ra tay ngươi có ý nhường, lẽ nào ta không thấy? Ngươi khinh Miêu Nhân Phượng tuổi cao sức yếu, không phải đối thủ của ngươi, phải không?
Hồ Phỉ đáp:
-Vãn bối không dám.
Miêu Nhân Phượng quát:
-Ra tay!
Hồ Phỉ muốn giải thích việc mình cùng giường chung chăn với Miêu Nhược Lan thực là chuyện bất ngờ, tịnh không phải có ý khinh nhờn, bèn nói:
-Còn chuyện trong căn phòng ấy…
Miêu Nhân Phượng vừa nghe thấy hai tiếng “Căn phòng” thì lửa giận bùng cháy,cho luôn một chưởng vào giữa mặt chàng, Hồ Phỉ đành đón đỡ. Vừa qua cuộc so tài lúc nãy, chàng biết chỉ cần hơi nhường bước là bị chưởng lực đối phương chụp lấy ngay nên đành dốc toàn lực ra. Hai người cùng thí thố tuyệt nghệ bình sinh, chưởng qua cước lại trên bờ vực, vừa đấu trí, vừa đấu lực, đấu quyền pháp cùng đấu nội công, qua hơn ba trăm chiêu cũng chưa phân thắng bại.
Miêu Nhân Phượng càng đánh càng ngờ ngợ, luôn nghi ngờ cuộc tỉ thí giữa mình và Hồ Nhất Ðao ở Thương Châu năm nào. Ông đột ngột nhảy lùi hai bước, hỏi:
-Dừng tay! Ngươi có biết Hồ Nhất Ðao không?
Nghe nhắc tới người cha đã khuất, nỗi buồn giận ngổn ngang trong lòng, Hồ Phỉ nghiến răng nói:
-Hồ đại hiệp là anh hùng tiền bối, không may bị kẻ gian giết hại. Nếu tôi có phúc được ông ấy dạy bảo mấy câu thì dù chết ngay cũng cam lòng.
Miêu Nhân Phượng thầm nghĩ: “Phải rồi, Hồ Nhất Ðao đã mất đã hai mươi bảy năm, người này chẳng qua mới ngoài hai mươi tuổi, sao quen biết được? Hắn nói mấy câu nghe được lắm, nếu không vì hắn làm nhục Lan Nhi thì chỉ nghe mấy câu đó thôi, ta đã muốn kết bạn với hắn”. Rồi thuận tay, ông bẻ hai cành cây cứng cáp bên núi, nhắc nhắc thấy nặng bằng nhau, ném một cành cho Hồ Phỉ, bảo:
-Quyền cước đã khó phân hơn kém, dùng vũ khí để quyết sống chết vậy!
Nói rồi cầm cành cây nhứ một cái, tay trái nắm bí quyết kiếm pháp, cành cây theo cách đấu kiếm đâm ra, đúng là kiếm pháp họ Miêu tuyệt nghệ chốn võ lâm,vô song trong thiên hạ. Tuy là một cành cây nhỏ song khi đâm tới, thế kiếm mangtheo cả kình phong, vừa lợi hại vừa chuẩn xác, nếu bị đầu nhọn cành cây đâm trúng thì không khác gì bị kiếm đâm trúng cả.
Hồ Phỉ thấy thế kiếm lợi hại, chẳng dám sơ sểnh chút nào, giơ ngang cành cây lên đỡ. Thế đỡ này trong cương có nhu, quả là thủ pháp bậc danh gia. Miêu Nhân Phượng sững sờ, thầm nghĩ: “Sao võ công của hắn lại y hệt Hồ Nhất Ðao thế nhỉ?”.
Nhưng khi các cao thủ sao tài, đao kiếm đã giao nhau thì sau đó cứ tới tấp qua lại,quyết không cho phép đối phương rảnh tay mà nghĩ ngợi, ngờ vực chút nào.
Hồ Phỉ đưa cành cây lên đỡ, sau đó đâm thốc lên. Miêu Nhân Phượng thu kiếm chém lại,khiến chàng không thể không rút kiếm về đón đỡ.
Hồ Phỉ cả đời chưa từng dự một cuộc đấu nào ác liệt như thế. Võ công của chàng toàn dựa vào cuốn sách cha chàng truyền lại mà luyện tập, chiêu số tuy tinh diệu song còn thiếu kinh nghiệm đọ kiếm thực tế, tài nghệ võ công còn hạn chế về tuổi tác, chưa đạt tới mức thượng thừa. May nhờ trai tráng trẻ tuổi, tinh lực hơn hăn đối phương nên trong vòng mấy chục chiêu vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đều gặp phải những chiêu cực hiểm song đều biết dùng những chiêu số khôn khéo hoá giải trong những lúc nguy cấp. Hồ Phỉ hăng hái đón đánh mà cảm phục trong lòng:
“Kim Diện Phật đại hiệp quả nhiên danh bất hư truyền, nếu ông ta trẻ lại hai chục tuổi thì ta thua từ lâu rồi. Thảo nào năm xưa ông đấu ngang sức ngang tài với cha ta, thật là anh hùng ghê gớm!”.
Hai người biết nếu chỉ dựa vào chiêu số thì không dễ gì thắng được đối phương,mà phải chiếm được địa thế thuận lợi là dựa lưng vào vách núi thì mới mong thắng trong trận tỉ thí này. Vì thế cả hai đều cố hết sức dồn đối phương ra mép vực để giành lấy lợi thế dựa lưng vào vách núi, song cả hai đều ra chiêu rất sít sao, chỉ cần ai đó bước nửa bước vào phía trong là lập tức bị kiếm đối phương đâm trúng ngay.
Ðánh đến lúc như say, Miêu Nhân Phượng ra một chiêu “Hoàng long chuyển thân thổ tu thế”, đâm vụt vào ngực đối phương. Hồ Phỉ không có chỗ tránh mà cây kiếm que lại chém xuống mé ngoài, không kịp thu kiếm về cứu. Hồ Phỉ thất kinh, vội giơ tay trái gạt ngang mũi kiếm que của Miêu Nhân Phượng, tay phải ra chiêu “Phục hổ thức” bổ xuống. Miêu Nhân Phượng buộc miệng kêu “Giỏi!” rồi rung kiếm khiến mấy ngón tay trái Hồ Phỉ tê buốt, phải vội vàng buông ra.
Miêu Nhân Phượng dấn thêm nửa bước, đang tính đâm một chiêu “Thương bộ trích tinh thức”, nào ngờ vách đá cứng bên bờ vực bị họ giẫm đạp đã lâu, lúc này nứt lở hẳn. Thế kiếm của ông hướng về phía trước, trọng lượng toàn thân dồn cả xuống chân trái phía sau, chỉ nghe hai tiếng ” lắc rắc” vang lên, thế là một tảng đá cùng băng tuyết lao nhanh xuống vực.
Miêu Nhân Phượng bị hẫng chân, cả người bất giác cũng rơi xuống. Hồ Phỉ hoảng quá vội đưa tay kéo lên. Thế rơi của Miêu Nhân Phượng rất mạnh nên tuy Hồ Phỉ nắm được tay áo ông kéo lên nhưng cả hai níu kéo nhau khiến chàng cũng ngã ra ngoài mép vực. Hai người không hẹn mà cùng lộn người trong không trung, nép vào sát vách nũi và thi triển công phu “Bích hổ du tường công” để lại leo lên núi song vách núi băng tuyết bám đầy, trơn vô cùng, khiến “Bích hổ du tường công” không sao thi triển được; đừng nói con người, mà ngay cả loài thạch sùng có ở đây nhưng cũng không thể leo nổi. Thế là leo lên tuy chẳng được nhưng thế rơi chậm dần đi.
Hai người từ từ rơi xuống. Thấy rơi thêm độ hơn mười trượng nữa là một phiến đá nhô lơ lửng ra ngoài, họ thấy nếu rơi không đúng được vào phiến đá này thì cả hai chỉ có nước thịt nát xương tan. ý nghĩ quay cuồng trong óc thì họ đã đặt mình được trên phiến đá. Võ công hai người ngang nhau, ý nghĩ cũng giống nhau, vừa nãy cùng thi triển công phu “Thiên cân trụy” nên họ đứng được vững vàng.
Mặt phiến đá rất nhẵn, bị băng phủ lại càng trơn hơn nhưng hai người võ công cao cường, vừa rơi xuống đã định thần nên không bước trượt lấy nửa bước. Chợt nghe tiếng răng rắc khẽ vang lên, phiến đá nặng hàng mấy trăm cân rung rinh nhè nhẹ. Thì ra phiến đá này gác ngang sườn núi đã nhiều năm, đá vụn bên dưới rơi rụng dần, vốn dĩ lúc nào cũng có thể rơi, nay thêm trọng lượng của hai người nữa khiến đá vụn xen lẫn băng rơi lả tả, phiến đã mỗi lúc một rung rinh dữ.
Hai cây kiếm que theo người rơi xuống phiến đá. Miêu Nhân Phượng thấy tình thế nguy cấp lạ thường vội đánh một chưởng bằng tay trái thì tay phải đã lượm được một cành cây, ngay sau đó ra chiêu “Thượng bộ vân biên bích nguyệt”, giơ kiếm chém xiên xuống. Hồ Phỉ vội hạ thấp đầu, cúi lưng né tránh, và cũng nhặt được cành cây lên, trả lại một chiêu “Bái phật thỉnh kinh”. Lúc này hai người sử dụng toàn chiêu số tấn công, chiêu nào chiêu ấy cực nguy hiểm, cực lợi hại, song tiếng răng rắc ngày một vang lên nhiều hơn, họ khó mà đứng vững chân được. Hai người đều nghĩ: “Phải ép cho đối phương rơi xuống, giảm nhẹ trọng lượng trên phiến đá thì nó mới không đến nỗi rớt ngay, có thế ta mới mong sống được”. Lúc này sống chết quyết định trong nháy mắt, ra tay không thể nể tình.
Trong chốc lát họ đã giao đấu với nhau hơm mười chiêu. Miêu Nhân Phượng thấy đối phương sử dụng kiếm giống hệt đao pháp năm xưa của Hồ Nhất Ðao thì càng ngờ vực; nhưng vì thình thế eo hẹp, không hở lúc nào để mà hỏi. Một chiêu “Phản uyển Dực Ðức xông trướng” vừa chém ra, phải xuất tiếp chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Chiêu này cùng chường nhất tề đánh ra, thế nào cũng ép được đối phương phải ngã xuống vực, đó là cách đánh đã thành thói quen của Miêu Nhân Phượng nên lúc xuất chiêu bất giác vai hơi nhô lên một chút.
Lúc này trăng sáng vằng vặc, xanh biếc tầng không, trăng soi vách đá thành một vùng sáng rỡ. Vách đá ấy toàn là băng tuyết đông lại, sáng chẳng khác gì gương,phản chiếu rõ phía sau lưng Miêu Nhân Phượng. Nhin thấy cảnh ấy, Hồ Phỉ nhớ lại tình hình cha chàng cùng Miêu Nhân Phượng tỉ thí năm xưa qua lời kể của Bình A Tứ. Lúc ấy mẹ chàng đang ở đằng sau lưng ông ta, bà đã đặng hắng để làm hiệu;còn lúc này sau lưng ông ta là một tấm gương, không cần người ngoài nhắc nhở cũng biết chiêu tiếp theo ắt là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Hồ Phỉ nhanh tay ra
chiêu “Bát phương tàng đao thức”. Thế là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” của Miêu Nhân Phượng ới ra được nửa chừng thì cả người đã bị thanh kiếm bằng cây của Hồ Phỉ chụp lấy. Lúc này, Miêu Nhân Phượng không còn nghi ngờ gì nữa, hiểu rằng người đang ở trước mặt ông phải có gốc rễ sâu xa với Hồ Nhất Ðao, bèn than
thở “Báo ứng! Báo ứng!” rồi nhắm mắt chờ chết.
Hồ Phỉ giơ thanh kiếm cành cây lên, chỉ một chiêu là bổ cho Miêu Nhân Phượng ngã xuống vực, song chàng nhớ đã từng nhận lời với Miêu Nhược Lan là sẽ không khi nào hại đến tính mạng ông ta. Nhưng nếu không bổ kiếm xuống, để ông ta ra hết chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” thì mình cũng chết. Lẽ nào vì tha đối phương để chuốc lấy cái chết uổng cho mình.
Phút chốc trăm ngàn ý nghĩ ngổn ngang trong lòng Hồ Phỉ :
-Người này đã từng giết hại cha mẹ ta, khiến ta côi cút khổ sở một đời, nhưng ông ấy lại có hào khí ngang trời, là một anh hùng hào kiệt số một, lại là cha đẻ ý trung nhân của ta, theo lẽ đó thì không thể bổ kiếm xuống được. Nhưng nếu không chém thì bản thân mình đừng hòng thoát chết, mà ta đang ở tuổi tráng niên, chịu chết được sao? Còn nếu giết ông ta, lúc trở về còn mặt mũi nào gặp Miêu Nhược Lan nữa? Lại nếu tránh mặt nàng không gặp nhau thì sống trên trần gian nhưng suốt đời đau xé con tim, sống không bằng chết.
Hồ Phỉ thấy khó nghĩ quá, thực không biết nhát kiếm này nên bổ xuống hay không? Chàng không muốn chém đối phương song cũng không muốn mình mất mạng.
Nếu Hồ Phỉ không phảỉ là người hào hiệp trong nghĩa khí thì nhát kiếm đó tất nhiên đã bổ xuống rồi, chẳng cần trù trừ. Song một người dù khảng khái hào hiệp đến dâu cũng không thể dễ dàng bỏ đi tính mạng mình. Trong lúc này, muốn đi tới quyết đoán thật là ngàn vạn lần khó khăn.
Miêu Nhược Lan đứng trong tuyết đợi rất lâu, rất lâu mà không thấy hai người trở lại bèn thong thả mở cái bọc mà Hồ Phỉ giao cho cô. Trong bọc là mấy chiếc áo cùng một đôi giày trẻ sơ sinh và một mảnh vải vàng làm bọc. Dưới ánh trăng thấy rất rõ bảy chữ “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” thêu bằng chỉ đen trên đó. Ðây chính là mảnh vải năm xưa cha cô lấy ra quấn quanh người Hồ Phỉ.
Cô đứng trên tuyết dưới ánh trăng, ngắm mấy cái áo và đôi giầy của trẻ sơ sinh, trong lòng muôn điều dịu ngọt khiến
Rốt cuộc Hồ Phỉ có bình yên trở về gặp lại cô hay không? Nhát kiếm của chàng rốt cuộc có bổ xuống hay không?
Tác giả Kim Dung để kết cục ngỏ như vậy.
Phần kết của Tuyết Sơn Phi Hồ lơ lửng, không có kết cục khẳng định. Rốt cuộc nhát kiếm của Hồ Phỉ có chém xuống không, xin để cho bạn đọc tự nghĩ lấy Nhát kiếm của Hồ Phỉ có chém xuống hay không là sự lựa chọn của Hồ Phỉ, mỗi bạn đọc đều có thể dựa vào cá tính của mình, dựa vào cách đối nhân xử thế và cách nhìn đối với thế giới này mà có cách lựa chọn khác nhau.
Hết.