Bella, sao cậu còn chưa về đi? – Mike lên tiếng hỏi, anh bạn nhìn sang bên cạnh chứ không nhìn tôi trực diện.
Tôi cũng không biết là mình đã quên để ý tới giờ giấc được bao lâu rồi.
Đó là một buổi chiều buồn tẻ ở nhà Newton. Lúc này, trong cửa hàng chỉ còn có mỗi hai người khách quen, hai du khách balô vô cùng sành sỏi, chỉ cần nghe qua cách họ trò chuyện với nhau thôi cũng đủ kết luận vì điều đó. Nãy giờ, Mike đã theo dõi hết cuộc tranh luận của hai người. Chẳng là giữa lúc anh chàng đang tính tiền, họ trò chuyện với nhau về những gì mắt thấy tai nghe trong chuyến đi, ai cũng cho rằng mình có kinh nghiệm hơn người kia. Cũng nhờ vậy mà Mike thư giãn được đôi chút.
– Mình ở lại thì có sao đâu – tôi trả lời. Tôi đã không còn giam mình trong cái vỏ ốc mà sầu đời nữa, hôm nay, mọi thứ cơ vẻ như xa lạ và ồn ã quá, tựa hồ như tôi đã rút bông gòn ra khỏi lỗ tai vậy. Tôi cố bỏ ngoài tai cuộc trò chuyện của hai vị khách bộ hành đang cười đùa, chòng ghẹo nhau, nhưng không thành công.
– Tôi cho cậu hay – vị khách đậm người có bộ râu hung đỏ, hoàn toàn chẳng hợp tông chút nào với mái tóc màu nâu sẫm, nói – tôi đã từng thấy bọn gấu xám Bắc Mỹ loanh quanh ở Yellowstone rồi, nhưng bọn chúng chẳng có vẻ gì gọi là hung dữ cả – đầu tóc của người đang nói rối bù, bộ quần áo trông cũng đã mặc vài ngày rồi chưa thay. Anh ta vừa mới đi núi về.
– Không dám đâu. Gấu đen thì làm sao mà to bằng đó được. Còn mấy con gấu xám Bắc Mỹ mà cậu nhìn thấy chắc chỉ là gấu con thôi – vị khách thứ hai vặn lai bạn mình. Anh ta cao, ốm nhom ốm nhách, gương mặt sạm nắng, dãi dầu gió sương.
– Mình nói thật đấy, Bella à, khi hai anh chàng này ra khỏi cửa hàng làm mình cũng đóng cửa luôn – Mike thì thầm.
– Được thôi, nếu cậu muốn mình về… – Tôi nhún vai.
– Chắc chắn là nó cao hơn cậu – vị khách để râu vẫn khăng khăng ( còn tôi thì gói ghém đồ đạc của mình lại – to như cái nhà và đen như hắc ín. Tôi phải báo cho đơn vị bảo vệ rừng biết mới được. Mọi người cần phải được cảnh báo “COI CHỪNG – ĐỪNG LÊN NÚI” – cái bảng cần phải được để ở trước cửa đường vài dặm.
Vị khách có nước da rám nắng bật cười:
– Để coi… lúc đó cậu đang đi trên đường à? chắc cả tuần qua, cậu đã chẳng ăn, ngủ cho ra hồn, phải không?
– Hừưm, ủa Mike, xong rồi hả? – Vị khách có râu sực tỉnh nhìn sang chúng tôi.
– Hẹn thứ hai gặp lại cậu nhé! – tôi lầm bầm.
– Vâng, xong rồi – Mike trả lời, ngoảnh mặt về phía hai người khách.
– Này, gần đây, ở khu vực này, có cảnh báo gì không… về gấu đen ấy?
– Không ạ. Nhưng tốt nhất là hãy luôn đề phòng và bảo quản thực phẩm đúng cách (!). À, hai anh đã thấy mặt hàng mới chưa: lựu đạn hơi cay phòng gấu? Nặng chưa tới một kilogram đâu…
Cánh cửa trượt mở, tôi bước ra ngoài mưa, nép mình trong áo khoác, hối hả chạy đến chỗ chiếc xe tải. Mưa giội xối xả xuống chiếc mũ trùm đầu của tôi, nghe ồn đến lạ thường, nhưng rồi.. khi tiếng động cơ xe vang lên, mọi tiếng ồn xung quanh… đều “chìm nghỉm” hết.
Tôi không vội vã về nhà ngay, căn nhà vắng vẻ, hiu quạnh lắm. Đêm qua, tôi đã thất kinh hồn vía rồi, không còn muốn tìm lại cảm giác từ cõi chết trở về đâu. Cho dù là sau khi nỗi đau đã lắng xuống, tôi hoàn toàn có thể chợp mắt được rồi, thì mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Đúng như tôi đã nói với Jessica sau khi xem phim xong, đó là một trăm phần trăm tôi sẽ gặp ác mộng.
Hiện thời, tôi vẫn thường xuyên nằm mơ thấy ác mộng, đêm nào chúng cũng “đến thăm” tôi. Thật ra thì không hẳn là ác mộng, cũng chẳng hẳn là nhiều ác mộng lắm cho cam, mà lúc nào cũng chỉ là một ác mộng duy nhất. Những tưởng, sau nhiều tháng trời mệt mỏi chịu đựng, tôi đã miễn nhiễm được với nó rồi chứ. Ai ngờ, nó chẳng bao giờ thất bại khi “hù doạ” tôi, nó chỉ bỏ đi ngay khi tôi ngồi bật dậy và gào thét ầm nhà. Ngài cảnh sát trưởng bây giờ cũng chẳng thèm đến phòng của tôi mà kiểm tra xem có chuyện gì không nữa, “ngài” tin chắc rằng chẳng có kẻ gian nào lẻn được vào nhà mà bóp cổ tôi hay là có chuyện gì ghê gớm đại loại như vậy – “ngài” đã quá quen với chuyện đó rồi.
Mà ác mộng của tôi chắc cũng chẳng làm cho ai khác, ngoài tôi ra, sợ được. Chắc chắn chẳng có ai thèm ngồi bật dậy mà khóc thét “A” rồi “Hu hu!” đâu. Chẳng có xác chết nào hồi sinh, chẳng có bóng ma nào vật vờ, lại càng không có gì cả. Sự thật là như vây, không có gì cả. Tất cả chỉ là một mê cung của hàng hà sa số những cây phủ đầy rêu, không gian im ắng não nề đến mức hoá thành một thứ áp lực khó chịu ép vào thái dương. Trời mờ tối, hệt như lúc chạng vạng của một ngày đầy mây, chút ít ánh sáng còn sót lại cũng chẳng đủ sức soi rõ một thứ gì. Trong cái khung cảnh u ám ấy, tôi nhỏ bé đang vội vã, loanh quanh không tìm được lối đi, cứ mãi tìm kiếm, tìm kiếm và tìm kiếm. Thời gian cứ thế lạnh lùng lướt qua, tinh thần của tôi cũng theo đó mà giảm sút. , mọi sức lực có được đều dồn cả cho đôi chân, chạy, chạy, phải chạy nhanh hơn nữa… cho dẫu càng gia tăng tốc lực thì tôi lại càng lóng ngóng, vụng về… Và rồi tôi cũng đến được tâm điểm của giấc mơ Hiện giờ, tôi cũng còn cảm giác được là ác mộng đang đến với mình, vậy mà chẳng thể nào tỉnh lại được kịp lúc để khỏi phải “đụng độ” với nó – Vào đúng cái lúc tôi đã quên mất là mình đang tìm kiếm cái gì, thì cũng là lúc mà tôi chợt nhận ra rằng chẳng có cái gì để mình tìm, chưng có cái gì để mình kiếm cả. Xung quanh chẳng có cái gì khác ngoài khung cảnh vắng lặng, ảm đạm đến thê lương, chẳng có gì khác giành cho tôi… không một cái gì, ngoại trừ chính sự thật là không có cái gì ấy…
… Và tiếp theo đó là tiếng thét thật dài…
Nãy giờ tôi không để tâm xem là mình dang phóng xe đi đâu – cứ tự nhiên thả ga trên những con đường vắng vẻ, ướt mèm… không dẫn về nhà – bởi lẽ tôi cũng chẳng biết phải đi đâu cả.
Lúc này, tôi lại ước ao sao cho mình được tê liệt mọi cảm xúc, nhưng lại không sao nhớ được là trước đây, mình đã xoay xở điều ấy như thế nào. Cơn ác mộng vẫn làm tình làm tội đầu óc tôi, buộc tôi lại lan man nghĩ về những điều đã khiến mình đau khổ. Tôi không muốn nhớ lại cánh rừng một chút nào. Rồi khi nhận ra là trong tâm trí của mình không còn hiện lên một hình ảnh nào nữa, tôi mới ý thức được rằng đôi mắt của mình đã mọng đầy những nước, nõi đau lai bắt đầu nhoi nhói khắp lồng ngực. Một tay giữ lấy vôlăng, tay kia, tôi ôm ghì lấy những chỗ đau.
Như thể anh chưa hề tồn tại trên cõi đời này. Lời nói từ quá khứ chợt hiện về khuấy đảo tâm trí tôi, nhưng không còn rõ ràng như trong ảo giác của tôi tối hôm qua nữa. Tất cả chỉ còn là những từ ngữ, không kèm theo âm thanh, tựa như những chữ in trên một tờ giấy. Chỉ là những từ ngữ thôi, ấy vậy mà chúng xé toạc được những chỗ tấy đau nơi lồng ngực, cho vết thương loang ra, loang ra. Một cách nặng nề, tôi đạp chân vào phanh, hiểu rằng mình không nên tiếp tục cầm lái trong tình trạng kiệt cùng sức lực như thế này.
Đổ gục người xuống, tôi mặc nhiên để gương mặt mình tỳ trên vô lăng mà cố gắng điều hoà hơi thở cho trở lại bình thường.
Tôi không biết nỗi đau này có thể tồn tại trong bao lâu. Có lẽ vào một ngày nào đó, sau nhiều năm trôi qua- khi đau khổ đã thuyên giảm đến mức mà tôi còn có thể chịu đựng được – tôi sẽ hồi tưởng được lại quãng thời gian vài tháng ngắn ngủi ấy, một kỷ niệm đẹp nhất trong cuộc đời của tôi. Giả sử như nỗi đau chịu lắng dịu để tôi làm được điều đó, thì tôi tin chắc một điều rằng tôi sẽ vô cùng biết ơn anh, về những tháng ngày anh đã dành cho tôi – nhiều hơn những gì tôi mong đợi, nhiều hơn những gì tôi xứng đáng được hưởng. Có lẽ vào một ngày nào đó, tôi sẽ nhìn lại cuộc đời của mình theo hướng này mà thôi. Nhưng nếu chẳng may sự thể lại không khá hơn thì sao? Ngộ nhỡ những vết thương lòng không bao giờ chịu khép miệng thì sao? Lỡ “liều thuốc độc tinh thần” này thay vì có thể tan biến đi, lại trường tồn mãi mãi thì sao?
Tôi bấu chặt lấy lồng ngực. Như thể anh chưa hề tồn tại trên cõi đời này – tôi “tua” lại câu nói ấy trong tận cùng nỗi tuyệt vọng. Thật là một lời hứa ngốc ngếch và vô lý nhất chưa từng thấy! Anh tự tiện lấy các bức ảnh của tôi, lại còn đem đi mất những món quà anh đã tặng tôi nữa ; mà những việc làm đó có làm thay đổi được mọi thứ, biến mọi thứ trở về như cũ, như từ trước khi tôi gặp anh đâu cơ chứ. Bằng chứng hiển nhiên nhất chính là trạng thái tinh thần không lúc nào ổn của tôi đây. Tôi đã thay đổi, tính cách của tôi quay ngược đúng một trăm tám mươi độ, chẳng còn ai nhận ra cái con Bella – tôi – trước kia nữa. Còn diện mạo thì khỏi phải nói, khác xưa hoàn toàn – gương mặt xanh xao, trắng bệch, ngoại trừ mấy cái quầng thâm ở dưới mắt do những cơn ác mộng hành hạ. Hiện tại, đôi mắt của tôi đã chuyển sang màu đen, đủ sức để “chõi” với nước da tái xanh tái xám rồi – giá mà tôi được trời ban cho nhan sắc, thì nhìn từ xa, có lẽ tôi còn vượt quá cả ma-cà-rồng nữa. Đằng này, tôi lại là một đứa con gái không đẹp, thế nên tôi giống một thây ma biết đi hơn.
Như thể anh chưa hề tồn tại trên cõi đời nà? Thật là điên rồ. Đó là một lời hứa chẳng bao giờ anh giữ được, một lời hứa mà ngay khi anh vừa nói ra, dã trở nên vô nghĩa rồi.
Tôi khẽ động đầu vào cái vôlăng, mong sao có thể làm vơi đi cơn nhức nhối.
Rồi tôi chợt nhận ra là mình cũng ngớ ngẩn không kém gì cái lời hứa kia của anh, vì khi không tôi lại quyết tâm giữ đến cùng lời hứa của mình. Hợp lý ở chỗ nào khi tôi thì cứ chăm chăm làm theo giao ước, còn “người ta” thì đã vi phạm ngay từ đầu? Ai mà thèm kiểm chứng xem tôi có làm điều gì khinh suất, chẳng có lý do gì khiến tôi không được làm gì khinh suất, chẳng có nguyên do gì khiến tôi không được có hành động nào dại dột.
Tôi bật cười, cười một cách chua chát, cười với chính bản thân mình, miệng vẫn còn hổn hển thở. Khinh suất ở thị trấn Forks…. – trong cơn tuyệt vọng, tôi chợt nảy ra một ý định…
Cái ý nghĩ cay độc ấy đã làm xao lãng được tâm trí của tôi, xoá sạch mọi cơn đau, không chừa lại một chút dấu vết nào. Hơi thở của tôi trở nên nhẹ nhàng hơn, và tôi đã có thể ngồi dậy mà tựa lưng vào thành ghế. Tiết trời hôm nay lạnh, nhưng trên trán của tôi đã bắt đầu lấm tấm mồ hôi.
Và cứ như vậy, tôi “tua” đi “tua” lại cái ý nghĩ đen tối vừa nảy sinh trong đầu, bởi tôi không muốn bị rơi trở lại vào cái bể ký ức khổ đau đó nữa. Khinh suất ở Forks à, thế thì phải có nhiều sáng tạo vào – nhiều hơn những gì mình đang có hiện thời, tôi thầm nhủ. Ước gì tôi có thể tìm được một cách mà… Ừưmmm, có lẽ tôi sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi rũ bỏ giao ước, khi đắm mình vào trong nỗi cô độc. Tôi đã chính thức trở thành một kẻ hứa mà không giữ lời rồi cũng nên. Chậc, nhưng mà làm sao toi có thể biến mình thành một kẻ cố tình quên hết mọi thề hẹn, khi mà ở đây, trong cái thị trấn bé con con này này luôn bình yên, hiền hoà được chứ? Lẽ tất nhiên, không phải Forks lúc nào cũng an lành, nhưng hiện tại, chính xác thì nó đang là như vậy đấy. Nó buồn tẻ, nên nó bình an vô sự.
Tôi nhìn chằm chặp ra ngoài ô cửa kính chắn gió một đỗi khá lâu, thế mà những suy nghĩ cũng chẳng chịu nhanh lên hộ cho – đã vậy, những ý nghĩ đó hình như cũng chẳng dẫn tới đâu cả. Chán nản, tôi đưa tay tắt máy xe, tội nghiệp cho cái xe, nãy giờ nó cũng đã kêu gào đến rát cả “cuống họng” rồi, tôi tất bật bước ra ngoài mưa.
Cơn mưa phùn lạnh lẽo mau chóng thấm vào tóc tôi, từng giọt nước nhẹ nhàng lăn dài xuống má, hệt như nước mắt. Thế cũng hay, nhờ vậy mà đầu óc của tôi được gột rửa hoàn toàn. Chớp chớp mắt để giũ sạch nước mưa đọng trên khoé mắt, tôi thẫn thờ bước sang phía bên kia đường.
Sau đúng một phú định thần nhìn kỹ khung cảnh xung quanh, tôi mới nhận ra được là mình đang ở đâu. Tôi đã đậu xe ở…. ngay chính giữa một con đường nhỏ – một nhánh nhỏ trên đại lộ Russell. nằm về phía bắc thị trấn. Hiện tôi đang đứng trước cửa nhà Cheney – còn chiếc xe tải của tôi thì nằm án ngữ ngay trước lối vào nhà họ – bên kia đường là căn hộ của anh em nhà Marks. Tôi hiểu rằng mình phải “di dời” chiếc xe tải, và mình phải trở về nhà. Thật không nên chút nào khi cứ thơ thẩn như thế nào ngoài đường, đầu óc thì để mãi tận đâu đâu, còn cơ thể thì mệt nhoài, đã vậy lại còn muốn “phá làng, phá xóm”, để cho chiếc xe tải gầm rú khắp thị trấn Forks này nữa. Mặt khác, thể nào cũng có người sớm nhận ra tôi và “báo cáo” lại với ngài cảnh sát trưởng cho mà xem.
Tôi hít vào một hơi thật sâu, toan bỏ đi, thì bất chợt, cái biển hiệu trong sân nhà Marks đập vào mắt tôi – thật ra, nó chỉ là một miếng bìa cạc- tông đang dựa tạm vào chân thùng thư đặt trước nhà. Miếng bìa viết nguệch ngoạc mấy cái chữ cái in hoa.
Đôi khi, những gặp gỡ tình cờ lại trở thành định mệnh.
Trùng hợp chăng? Cớ sao lại như thế chứ? Tôi không rõ nữa, nhưng xem ra cũng có hơi vớ vẩn một chút khi cho rằng đấy là do số phận, rằng mấy chiến xe gắn máy rỉ sét, xiêu vẹo trong sân nhà Marks, bên cạnh cái tấm biển viết tay ” BÁN XE ” kia vốn đã được định sẵn cho một sự việc nào đấy rất ghê gớm, vì rằng chúng đang đứng sừng sững ngay đó để thu hút mối quan tâm của tôi.
Có lẽ chẳng phải là do định mệnh. Có lẽ đấy là tất cả những gì có thể dẫn đến kinh suất mà tôi nhìn ra được, trong lúc này.
Khinh suất và dại dột. Chẳng phải đó là tất cả những từ mà ngài cảnh sát trưởng vẫn thường xuyên sử dụng để gán cho xe máy đó sao?
Thật ra, nếu so với những cảnh sát ở các thị trấn lớn hơn, thì công việc của bố tôi chưa đến nỗi nào gọi là bận rộn luôn tay, không có thời gian để thở, nhưng nói vậy cũng không phải là bố chưa xử lý một vụ tai nạn giao thông nào. Trên những xa lộ dài tít tắp, trơn tuột, đầy những đoạn ngoằn ngoèo đâm xuyên qua rừng, lắm ngã rẽ khó nhận thấy cứ nhận thấy cứ liên tục tiếp nối nhau, thì làm sao mà thiếu được các pha hành động nghẹt thở kia chứ? Khi những chiếc xe tải khổng lồ chở gỗ lạc tay lái ở các khúc cua, thì hầu hết các số phận là phải vĩng biệt thị trấn Forks. Ngoại trừ các trường hợp đó ra thì… phần lớn tai nạn đều xảy ra ở xe máy. Ngài cảnh sát trưởng đã từng thấy một vụ tai nạn có rất nhiều nạn nhân, hầu hết là trẻ em mới lớn, nằm la liệt trên đường quốc lộ. Và bố đã buộc tôi phải hứa, từ trước khi tôi đón sinh nhật lần thứ mười kia lận, rằng không bao giờ được vi vu trên xe máy. Ngày ấy, chẳng cần phải suy tính gì cho lôi thôi, tôi gật đầu hứa ngay. Ai mà thèm lái xe máy ở đây chứ? Và cũng không ngần ngại gì, tôi cũng hứa luôn: chỉ được đi xe sáu- mươi- dặm- một giờ.
Nhiều lời hứa quá…
… Và tất cả như được sắp sẵn đâu vào đấy cho tôi. Tôi muốn dại dột và khinh suất, tôi không muốn giữ lời hứa nữa nữa. Việc gì cứ phải ép mình chịu khổ mãi như vậy?
Tôi chỉ nghĩ được đến đây thôi. Rồi tôi bì bõm lội mưa đến trước cửa nhà Marks, bấm chuông.
Một người vội vã bước ra mở cửa, đó là người em, cậu ta hiện đang là học sinh năm thứ nhất của trường trung học. Tên của cậu ấy thì tôi quên mất rồi. Mái tóc hung hung đỏ của cậu chàng chỉ xấp xỉ lưng chừng vai tôi.
Khác với tôi, cậu chàng vừa nhìn thấy tôi đã nhận ra ngay tức khắc:
– Chị Bella Swan? – cậu ta lên tiếng, giọng nói đầy ắp sự ngạc nhiên.
– Em bán chiếc xe bao nhiêu? – tôi hổn hển hỏi, ngón cái vung về phía tấm biển, ra hiệu.
– Chị hỏi thật chứ? – cậu ta hỏi lại tôi.
– Ừ, thật.
– Nhưng chúng không chạy được nữa đâu.
Đó là điều tôi đã đoán được từ trước, khi nhìn tấm biển – tôi thở dài sốt ruột:
– Bao nhiêu hả em?
– Nếu chị thích thì cứ lấy đi. Mẹ em bảo bố em đem chúng ra đường để nhân viên vệ sinh… quẳng chúng vào xe rác đấy mà.
Tôi liếc nhìn hai chiếc xe máy lần nữa, chúng đang đứng trên mảnh sân chất đầy những củi và gỗ.
– Thật hả em?
– Thật mà, chị có muốn hỏi mẹ em không?
Có lẽ tốt hơn hết là đừng có mắc míu gì đến người lớn, lỡ họ sẽ ” báo cáo lại tình hình ” với ngài cảnh sát trưởng thì khốn.
– Không, chị tin em.
– Để em giúp chị nhé? – Marks em đề nghị – chúng không nhẹ đâu.
– Ừ, cảm ơn em. Nhưng mà… chị chỉ cần một chiếc thôi.
– Thôi, chị lấy luôn cả hai chiếc dùm em đi – cậu ta trả lời – biết đâu chị cần lấy một vài bộ phận.
Nói rồi, Marks em bước ra ngoài mưa, cùng tôi vần hai chiếc xe nặng trịch lên thùng xe tải. Cậu ta có vẻ rất hăm hở khi “tống khứ” được cả hai chiếc xe, nên tôi cũng bằng lòng nhận lấy luôn cả hai.
– Chị tính làm gì với chúng vậy? – Marks em hỏi – gia đình em đã không đụng đến chúng mấy năm nay rồi.
Chị cũng đoán như vậy – tôi trả lời, khẽ nhún vai. Chợt tôi nảy ra một ý định bất ngờ không dự tính trước, kế hoạch ban đầu của tôi vẫn sẽ không thay đổi – – chắc chị sẽ đem chúng đến nhà Dowling.
– Marks em bày tỏ ngay thái độ:
– Nhà Dowling sửa xe lấy giá mắc thấy mồ.
Vấn đề đó thì tôi không thể phủ nhận. Ông John Dowling vốn “khét tiếng” vì kiểu tính phí; không ai dám tìm đến ông ta, trừ trường hợp bất khả kháng. Hầu hết mọi người thích sửa xe trên Port Angeles hơn, nếu xe của họ còn có thể chạy lên đến đó được. Nghĩ đến điều ấy, tôi tự cảm thấy mình thật may mắn – khi bố tặng tôi chiếc xe tải “sắp đi vào viện bảo tàng”, là cái xe của tôi hiện giờ đây, tôi đã lo lắng không yên. Nhưng ơn trời, nó chưa bị “ốm đau, sụt sùi” gì cả, chỉ phải mỗi tội “gào thét” quá to và chạy tối đa là năm- mươi- lăm dặm một giờ thôi. Về dáng vẻ bề ngoài thì nó đã được Jacob Black chăm chút kỹ đến từng li từng tý, ấy là khi nó còn là của cha cậu, ông Billy…
Một ý nghĩ chợt xuất hiện chớp nhoáng trong đầu tôi – hệt như một ánh chớp loé lên ngang bầu trời – đúng rồi, không tệ chút nào.
– À, em biết không, chị có quen một người biết lắp ráp xe hơi.
– Ồôô. Thế thì tốt quá – Marks em mỉm cười nhẹ nhõm.
Và cho đến tận lúc tôi lái xe đi, Marks em vẫn còn đứng vẫy tay chào tạm biệt. Quả là một người đáng mến biết bao.
Giờ thì tôi lái xe đã có chủ đích hẳn hoi, tôi phải nhanh chân trở về nhà trước bố, dẫu vẫn biết rằng tầm này mà ngài cảnh sát trưởng tan sở là một sự kiện hiếm hoi nhất trong số các sự kiện hiếm hoi. Và vừa đặt chân vào nhà là tôi nhảy bổ ngay đến cái điện thoại, chùm chìa khoá vẫn còn cầm trên tay.
– Cho cháu gặp ngài cảnh sát trưởng Swan – tôi nói vội khi ngài phó cảnh sát trưởng bốc máy trả lời – cháu là Bella.
– Ồ, ra là Bella – Ngài phó cảnh sát trưởng Steve niềm nở trả lời – để chú đi kêu bố cháu.
Tôi chờ đợi.
– Có chuyện gì thế Bella? – Ngài cảnh sát trưởng hỏi liền ngay khi vừa chụp lấy cái ống nghe.
– Chẳng lẽ không có chuyện gì cần kíp thì con không được gọi cho bố ư?
Bố tôi im lặng khoảng năm phút.
– Trước đây, con chưa bao giờ gọi cho bố cả. Có chuyện gì quan trọng không con?
– Dạ không. Con chỉ muốn hỏi bố đường đến nhà bác Black… con e là mình không nhớ rõ lắm. Con muốn đến thăm Jacob. Mấy tháng rồi, con không gặp cậu bé ấy.
Và ngài cảnh sát trưởng lên tiếng, giọng nói của “ngài” hoạt bát, vui vẻ hẳn lên:
– Đúng rồi đó Bells. Con có bút ở đó chưa?
Đường sá xem ra có vẻ rất đơn giản. Tôi hứa chắc với bố rằng sẽ sớm về nhà ăn tối, dù rằng bố bảo không có gì phải vội vàng, và bố cũng muốn đến La Push cùng tôi, nhưng tôi khước từ.
Chuyện đã thành ra như vậy nên tôi phải lái xe thật nhanh, ngõ hầu có thể trở về nhà cho kịp dùng bữa tối với bố. Xe tôi lao đi giữa cơn giông mù mịt trên đường ra khỏi thị trấn. Tôi hy vọng sẽ được gặp riêng Jacob. Chứ nếu một khi ông Billy đã biết được tôi định làm gì, thể nào ông cũng sẽ “lên lớp” tôi một thôi một hồi cho mà xem.
Cứ thế, tôi phóng xe di, tronglòng hơi nhấp nhổm, lo lắng một chút về thái độ của ông Billy sẽ dành cho mình. Ông sẽ rất – rất – rất hài lòng. Dù gì thì trong suy nghĩ của mình, chắc chắn, mọi chuyện đã kết thúc một cách mỹ mãn, hơn hẳn những gì mà ong mong đợi. Nỗi thanh thản, nhẹ nhõm của ông sẽ chỉ gợi cho tôi nhớ lại một người mà tôi không tài nào chịu đựng nổi khi nhớ về người ấy. Hôm nay đừng để mình rơi vào trạng thái đó, Bella ơi – tôi cầu xin mình trong câm lặng. Tôi không còn chút sức lực nào nữa.
Ngôi nhà của gia định Black trông hơi quen quen, đó là một căn nhà gỗ nhỏ với những ô cửa sổ rất hẹp, cái màu sơn đỏ đã xỉ làm cho nó trông giống như một cái kho thóc bé tẻo teo. Jacob ló đầu nhìn ra ngoài cửa sổ từ trước khi tôi kịp bước ra khỏi cabin. Không sai chút nào, chính cái tiếng gầm rống quen thuộc của động cơ xe đã báo tin cho cậu ta biết là tôi đến. Ngày ấy, Jacob đã vui mừng xiết bao khi ngài cảnh sát trưởng nhà tôi mua lại chiếc xe tải của ông Billy để tặng cho tôi, “ngài” đã cứu Jacob một bàn thua trông thấy.. để cậu khỏi phải lái chiếc xe này khi đã đủ tuổi. Tôi thì rất thích chiếc xe tải của mình, nhưng Jacob thì không – bởi cái tốc độ quá hạn chế của nó.
Cậu ta chạy ra đón tôi.
– Bella! – Nụ cười tươi rói của Jacob nở ra hết cỡ.
Màu răng trắng bóng tương phản rõ rệt với nước da màu nâu đỏ của cậu. Hầu như Jacob lúc nào cũng cột tóc kiểu đuôi ngựa. Nhưng hiện thời, tóc của cận đang buông xoã, tôi có cảm tưởng như mái tóc buông xoã bị cái gáy rẽ làm đôi kia là hai mảnh satanh mượt mà, đen huyền dang phủ đều hai bên má của Jacob.
Jacob bắt đầu “trổ mã” từ tám tháng trứơc. Cậu đã vượt qua cái ngưỡng của một đứa trẻ bình thường “nhỏ giò”, giã biệt các cơ bắp mềm mại của tuổi thơ để bước vào cuộc đời của một thanh thiếu niên: cao ráo và cứng cáp. Dưới lớp da nơi cánh tay và mu bàn tay của Jacob, những đường gân nổi lên lồ lộ. Gương mặt của cậu ta vẫn giữ được vẻ ngây thơ, hồn nhiên của tuổi ấu thơ, hệt như trong trí nhớ của tô, dù rằng giờ đây, gương mặt ấy cũng đã săn lại – hai bên má đã bằng phẳng hơn quai hàm trở nên góc cạnh ; tất cả những nét bầu bĩnh của tuổi thơ đã “đội nón ra đi”.
– A, Jacob! – Nhìn nụ cười của cậu bạn nhỏ, trong tôi bỗng dưng dâng trào một niềm thiết tha, sôi nổi. Tôi chợt nhận ra rằng quả tình mình rất vui khi lại được gặp Jacob. Sự nhận biết này khiến chính tôi tự lấy làm ngạc nhiên.
Tôi cũng mỉm cười đáp lại. Không gian hốt nhiên im ắng lạ thường, tựa như cả hai chúng tôi đều đang tự hỏi về nhau như vậy. Tôi quên mất là mình từng quý mến Jacob như thế nào rồi.
Cậu bạn da đỏ chợt dừng lại, cách tôi chừng vài bước chân. Tôi nhìn sững vào cậu ta, ngạc nhiên thêm lần nữa, rồi bất giác ngước đầu lên…. để nhìn cho rõ hơn, thế là bị những giọt mưa nặng trĩu rơi đầy mặt. – Em lại cao lên nữa! – tôi buột miệng trong nỗi sửng sốt tột cùng.
Jacob bật cười khanh khách, nụ cười làm cho khoé miệng xếch lên đến tận mang tai.
– Một- mét- chín- mươi- lăm- Cậu “bé” thông báo, vẻ mặt có phần tự mãn. Giọng nói của cậu đã trầm hơn, trứơc đây tôi nhớ là nói chỉ hơi khàn khàn.
– Liệu em có ngừng cao không nhỉ? – Tôi lắc đầu ngờ vực – Em đúng là người khổng lồ.
– Khổng lồ đâu, em vẫn ốm mà – Jacob nhăn nhó – À, vào nhà đi chị! Chị ướt hết rồi kìa.
Dứt lời, Jacob xoay người lại đi trước dẫn đường, hai tay túm gọn mái tóc lại. Rồi cậu rút từ từ trong túi một sợi dây thun, cột tóc lại thành một cái đuôi.
– Bố ơi, bố ơi! – Jacob gọi to khi vừa khom lưng bước vào nhà – bố xem ai đến thăm chúng ta này.
Ông Billy đang ngồi trong căn phòng khách vuông vức, chỉ bé như cái mắt muỗi, đang cầm trong tay một quyển sách. Trông thấy tôi, ông đặt vội quyển sách xuống lòng rồi lăn xe tiến tới gần.
– Trời ơi, thật là bất ngờ! Rất vui được gặp lại cháu Bella.
Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay tôi nằm lọt thỏm trong bàn tay to lớn của ông.
– Ngọn gió nào đưa cháu đến đây? Charlie vẫn ổn chứ?
– Dạ thưa bác, bố cháu hoàn toàn ổn ạ. Cháu muốn ghé thăm Jacob… Đã lâu lắm rồi, cháu không gặp cậu ấy.
Đôi mắt của Jacob sáng rực lên theo từng lời nói của tôi. Nụ cười của cậu lạ căng ra hết cỡ. Chắc đôi má của cậu đang đau lắm đây!
– Cháu ở lại ăn tối cùng gia đình bác nhé! – Ông Billy nói rất thiết tha.
– Dạ không được đâu, bác ạ, cháu còn phải về nấu ăn cho bố cháu nữa, bác cũng biết rồi đấy.
– Để bác gọi cho bố cháu – Ông Billy đề nghị – Bố cháu luôn luôn được hoan nghênh ở đây.
Tôi bật cười thành tiếng hòng che giấu hòng che giấu nỗi lo lắng.
– Bác cứ làm như sẽ chẳng bao giờ còn trông thấy cháu nữa vậy. Cháu sẽ lại sớm đến đây chơi, bác ạ…. rồi bác sẽ thấy với cháu mà xem – muốn gì thì gì, dẫu Jacob có đã sửa xong chiếc xe máy, thì tôi cũng cần phải… học lái nữa chứ?!
Ông Billy phá ra cười ha hả:
– Rồi, vâỵ thì lần sau vậy
– Ồ chị Bella chị thích làm gì nào? – Jacob cất tiếng hỏi.
– Làm gì cũng được. Ủa, mà nãy giờ, lúc trước khi chị đến, em đang làm gì vậy? Ở nơi đây tôi bỗng cảm thấy thoải mái một cách lạ thường. Bầu không khí mới thân tình lám sao, không hề có chút giả tạo, xa cách nào. Không ai hỏi han tôi về những chuyện buồn đã qua.
Jacob ậm ừ trong giây lát.
– Em đang hí hoáy lắp ráp chiếc xe hơi của em, nhưng không sao đâu, chúng ta làm gì khác cũng được….
– Không đâu tuyệt vời lắm!- Tôi ngắt lời cậu nhỏ người da đỏ – Tôi rất muốn chiêm ngưỡng chiếc xe hơi của em.
– Vâng – Jacob đồng ý, nhưng có vẻ không dứt khoát- nó ở ngoài kia kìa chị, trong gara ấy.
Thế thì càng tốt – tôi nghĩ trong đầu, rồi chào ông Billy
– Cháu xin phép bác hẹn gặp lại bác sau ạ.
Cái gara của Jacob nằm khuất nẻo sau rặng cây um tùm và nhưng thân cây đại thụ. Nó chẳng khác gì hai cái nhà kho đã bị đập bỏ bức tường nhăn cách để nới rộng thêm diện tích. Bên trong chỗ ẩn náu này, nằm sừng sững bên trên mớ sắt vụn… hình như là cái xe hơi. Ít ra thì tôi cũng nhận diện được cái biểu tượng trên cái tấm lưới bảo vệ.
– Chiếc Volkswagen này thuộc loại nào vậy em.
– Rabbit đời 1986, loại cổ điển.
– Em làm tới đâu rồi.
– Gần xong rồi chị- Jacob nói như reo. Nhưng rồi ngay sau đó, giọng cậu ta chợt hạ xuống- đó là nhờ bố em đã thực hiện lời hứa đầu mùa xuân vừa qua.
– À – Tôi chỉ biết đáp lại có bấy nhiêu.
Dường như Jacob cũng hiểu tôi chẳng vui chút nào khi cậu nhắc lại chuyện cũ đó. Tôi đã cố gắng thôi không nghĩ đến buổi vũ hội hồi tháng năm vừa qua. Bố của Jacob đến truyền đạt lời nhắn gửi của ông cho tôi, đỏi lại, ông sẽ cho cậu tiền và xe hơi. Ông Billy muốn tôi tránh xa người quan trọng nhất với tôi trong cuộc đời. Nhưng cuối cùng sự lo lắng của ông đã thành ra không cần thiết nữa. Hiện giờ thì tôi đã an toàn lắm rồi- nhưng tôi đang tìm cách thay đổi cái điều đó đây.
– Jacob à, em có biết gì về xe máy không? – tôi hỏi.
Cậu bạn nhỏ nhún vai.
– Em cũng có biết chút ít. Chẳng là bạn em, Embry, có một chiếc xe rất hay “Làm nũng”. Thỉnh thoảg bọn em vẫn cùng ngôì sửa chung với nhau. Mà có việc gì hả chị?
– Ừm… – tôi mím môi lại, cân nhắc. Tôi không chắc Jacob có thể kín mồm kín miệng được không, nhưng xem ra, tôi cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác – mới vừa rồi, chị kiếm được hai chiếc xe máy, nhưng mà chúng không được tốt lắm. Chị không biết em có làm cho chúng chạy lại được không…
– Tuyệt lắm – Có vẻ như Jacob rất hài lòng trước thử thách này. Gương mặt cậu ta rạng rỡ hẳn lên. Em sẽ cố gắng.
Tôi giơ một ngón tay lên nhắc nhở.
– Nhưng vấn đề là… – Tôi giải thích – bố chị không thích xe máy. Sự thật là nếu bố chị biết chuyện này, thể nào bố cũng bị đứt mạch máu não ngay. Thế nên, em đừng kể gì với bác Billy nhé.
– Em biết, em biết – Jacob mỉm cười – em hiểu mà.
– Chị sẽ trả tiền cho em.
Câu nói này của tôi đã khiến cho cậu bạn nhỏ người da đỏ phật ý:
– Không. Em chỉ muốn giúp chị thôi. Chị không được làm thế với em.
– Ừmm… vậy thì phải đền bù cho em bằng cách nào nhỉ? – Tôi bước đi loanh quanh, đăm chiêu suy nghĩ… và rồi cũng tìm ra được một cách xác đáng – Chị chỉ cần một chiếc xe máy thôi… Chị cũng cần phải học lái nữa, có gì thì em chỉ cho chị nhé.
– Tờơơơ tuyyyệt – chỉ có một từ thôi mà Jacob cũng phát âm thành hai âm tiết.
– Chờ một chút… em đã đến tuỏi lái xe máy chưa nhỉ? Em sinh ngày thánh năm nào?
– chị quên mất tiu rồi kìa – cậu bạn nhỏ người da đỏ lộ ý muốn chọc ngẹo tôi. Đôi mắt thu hẹp lại ra chiều giận ghê lắm – Em đã mười sáu tuổi rồi.
– Tại bây giờ em quá cao so với tuổi của mình nên chị không chắc lắm – tôi lầm bầm – xin lỗi em.
– Không sao đâu. Em lúc nào cũng nhớ tuổi của chị. Bốn mươi rồi phải không?
Tôi khịt mũi:
– Còn lâu nhé.
– Ừm, vậy là sửa xe xong, chúng ta sẽ thành một cặp vi vu.
– Sao nghe giống hẹn hò quá.
Đôi mắt của Jacob bừng sáng lên sau câu nói đó.
Tôi cần phải điều chỉnh lại sự nhiệt tình quá mức này trước khi cậu nhóc hiểu lầm mới được – tất cả cũng tại lâu lắm rồi tôi mới tìm lại được sự nhẹ nhõm và vui vẻ trong lòng. Cảm xúc hiếm hoi lắm mới có được này thật khó điều khiển.
– Có lẽ khi xe sửa xong rồi thì… Chị em mình sẽ lại tiếp tục công việc riêng của mình thôi.
– Vâng. Khi nào thì chị đem xe đến?
Tôi bặm môi không giấu được sự bối rối.
– Chúng đang ở trên… xe tải. – Tôi bẽn lẽn thú nhận.
– Tuyệt quá! – Jacob nói mội cách thành tâm.
– Nếu chúng ta đưa nó vào đây thì liệu bác Billy có nhìn thấy không?
Cậu bạn nhỏ người da đỏ dễ mến tức thì nháy mắt:
– Chúng ta phải nhẹ nhàng, cẩn thận lắm mới được.
Nói xong, Jacob và tôi đi bọc theo hướng đông, len lỏi qua nhưng thân cây to, làm ra vẻ như đang đi ngắm cảnh, ấy là để đề phòng trường hợp có người từ trong nhà nhìn ra ngoài và bắt gặp thôi. Một cách nhanh nhẹn, Jacob vần hai cái xe máy xuống đất rồi dắt từng chiếc một vào bụi cây – chỗ trú ẩn của tôi ở đấy. Trông cậu ta chẳng phải gắng sức gì – trong khi tôi biết rõ rành rành rằng hai chiếc xe rất nặng, nặng ơi là nặng.
– Hai chiếc xe này không hề tệ chút nào đâu. Jacob nhận định khi chúng tôi dắtxe đi giữa những lùm cây – Chiếc xe này, sau khi được em nhúng tay vào sẽ đáng giá lắm đấy… đừng coi thường nha, nó là chiếc Harley nước rút đó.
– Thế thì chiếc này là của em.
– Thật ư?
– Chắc chắn rồi.
– Nhưng dù sao thì hai chiếc xe này cũng sẽ ngốn một khoản tiền đấy – Jacob lại nhận định, cậu cau mày nhìn xuống chiếc xe đen xì – chúng ta phải để dành tiền để mua phụ tùng đã.
– Không cần đâu – tôi lắc đầu phản đối – Nếu em muốn làm không công thì chị sẽ trả các khoản phụ tùng.
– Em không biết… Jacob lẩm bẩm.
– Chị có tiền để dành mà. “Ngân sách để học đại học”, em hiểu không – Đại học đại hiếc gì chứ tôi thầm nhủ với chính mình. Rút cuộc thì tôi để dành tiền cũng là hòng để đến một nơi nào đó đặc biệt mà thôi, vả lại, tôi cũng chẳng còn mong muốn rời bỉ Forks nữa. Mà cũng có đáng kể gì đâu. Nếu bây giờ tôi rút ra chút đỉnh tiền để tiêu sài.
Jacob lặng lẽ gật đầu. Với cậu, như vậy là vẹn cả đôi đường.
Cuối cùng chúng tôi cũng về lại cái gara tạm bợ một cách an toàn. Bất giác tôi rơi vào trạng thái tràm tư mặc tưởng, cứ suy nghĩ miên man về số phận. Trên đời này chỉ có duy nhất một cậu bé đang trưởng thành đồng ý làm chuyện này với tôi thôi: Giấu diếm bố sửa hai chiếc xe máy rất nguy hiểm đối với thanh thiếu niên, và triệu dùng số tiền học đại học của tôi để mua phụ tùng thay thế. Cậu ta không hề thấy chuyện này có gì là sai trái cả. Jacob quả là một món quà mà thượng đế đã dành tặng cho tôi.