Đọc xong truyện này, tôi nghĩ đây không phải chỉ là câu chuyện dành cho trẻ em, mà có thể là câu chuyện dành cho người lớn, nếu không nói rằng đối tượng chủ yếu mà tác giả muốn hướng tới chính là những người lớn! Nếu như trong truyện ngắn “Cuộc chia tay của những con búp bê” (Khánh Hoài), thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới những người lớn oai phong bệ vệ là: “Hãy vượt qua thói ích kỉ bệnh hoạn để nghĩ đến tình thương và trách nhiệm đối với trẻ thơ vô tội!” thì trong truyện ngắn này, thông điệp của nhà văn là: “Hãy khiêm tốn nhận thức lại cho đúng về bản thân mình để chiến thắng thói đố kị tầm thường!”.
Nếu tất cả những người lớn trên hành tinh này đều từ bỏ được hai thói xấu ích kỉ và đố kị thì có lẽ trăm phần trăm nhân loại đã nhất loạt hiển Thánh cả rồi! Tuy nhiên, đó chỉ là ảo vọng, mãi mãi là ảo vọng! Bởi con người không phải là thánh nhân, cho nên tất phải có lỗi lầm. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, nhà văn Bùi Bình Thi có nói rằng: “Nếu con người mà không có khuyết tật gì thì vị trí của họ là ở trong… viện bảo tàng!”. Bởi sống là phải hoạt động. Mà hoạt động tất phát sinh quan hệ. Trong vô số các quan hệ mà con người phải xử lí thì có thể có cái đúng, có cái sai, có cái gần đúng, có cái gần sai, có cái vừa đúng vừa sai… Vấn đề là có nhận ra cái sai hay không? Nhận ra rồi thì có chịu sửa hay không?
Câu chuyện của Tạ Duy Anh được khởi đầu trong bầu không khí hồn nhiên “rất trẻ con”, đó là những quan sát và nhận xét khá khách quan vô tư của nhân vật “tôi”: “Em gái tôi tên là Kiều Phương, nhưng tôi quen gọi nó là Mèo bởi vì mặt nó luôn bị chính nó bôi bẩn”. Nhưng ngay sau đó, nhân vật “tôi” bắt đầu “khó chịu” vì cảm thấy ở cô em gái có một điều gì đó không tầm thường như những thói đời bẩm sinh mà ai ai cũng có, thế là như một phản ứng tức thì của bản năng: “Tôi quyết định bí mật theo dõi em gái tôi”! Đến đây, nhân vật “tôi” – tức người anh trai, đã có một biểu hiện không thật đàng hoàng. Cái không thật đàng hoàng ấy tuy còn mơ hồ, nhưng cũng đủ trở thành mối bận tâm của người anh trai, mà nếu phải gọi đúng tên nó ra thì đó chính là cái “mầm đố kị ghen ghét” vốn sẵn có trong mọi con người, ở mọi lứa tuổi, ngự trên mọi cương vị… Cái mầm ấy luôn “phục kích” trong lòng dạ con người và nó thường nhẫn nại chầu chực cơ hội để được “phát tác” như một thứ vũ khí bảo vệ sĩ diện của những kẻ “tiểu nhân đắc chí”!
Tới khi hoạ sĩ Tiến Lê chính thức thừa nhận cô em gái là một “tài năng” thì cái mầm đố kị ghen ghét trong con người nhân vật “tôi” bùng nổ từ âm thầm đến dữ dội, từ dữ dội đến mù quáng! Thoạt đầu là mặc cảm kém cỏi: “Kể từ hôm đó, mặc dù mọi chuyện vẫn như cũ trong căn nhà của chúng tôi, nhưng tôi luôn cảm thấy mình bất tài nên bị đẩy ra ngoài. Những lúc ngồi bên bàn học, tôi chỉ muốn gục xuống khóc”. Tiếp theo là thói sinh sự theo kiểu “đất bằng nổi sóng”: “Tôi chẳng tìm thấy ở tôi một năng khiếu gì. Và không hiểu vì sao tôi không thể thân với Mèo như trước kia được nữa. Chỉ cần một lỗi nhỏ ở nó là tôi gắt um lên”. Tiếp theo nữa là một hành vi vụng trộm: “Tôi quyết định làm một việc mà tôi vẫn coi khinh: xem trộm những bức tranh của Mèo”. Cuối cùng là thái độ hằn học: “Bây giờ tôi cảm thấy nó như chọc tức tôi…” và sự cô độc: “Rồi cả nhà – trừ tôi – vui như tết…”.Thế đấy! Khi đã “phát tác”, thói đố kị ghen ghét giống như một ngọn lửa hoang dại thiêu đốt và làm méo mó tâm hồn của nhân vật “tôi”, khiến cho nhân vật này nhìn cái vẻ mặt “rất ngộ” của cô em gái trước đây thành ra cái mặt “chọc tức” trong hiện tại, tức là gương mặt vốn khả ái của người thân thích ruột thịt bỗng trở thành gương mặt thách đố ngạo mạn của kẻ thù!
Thế nhưng, nếu chỉ có thói đố kị ghen ghét ngự trị thì hẳn là nhân loại sẽ bị rơi vào tình trạng “tự ăn thịt mình” cho đến khi… tự huỷ diệt! Thói xấu thâm căn cố đế ấy chắc chắn là không thể tận diệt được, nhưng có thể chế ngự được, có thể hoá giải được bằng lòng nhân ái vị tha! Phải chăng đây là một sự cân bằng động do Tạo Hoá khả kính từng dày công vun đắp cả triệu triệu năm?! Trong câu chuyện của Tạ Duy Anh, người anh càng tha hoá bao nhiêu thì cô em gái càng có “liệu pháp điều trị” thích hợp và hiệu quả bấy nhiêu! Bài học mà hoạ sĩ Tiến Lê dạy Mèo: “Cháu hãy vẽ cái gì thân thuộc nhất với cháu” đâu chỉ là bài học dạy cho trẻ con? Bỏ qua tất cả sự “khó chịu” của người anh, cô em gái đã “nhập tâm” một nguyên lí của sáng tạo nghệ thuật là chỉ vẽ “những gì thân thuộc nhất” không phải như nó vốn có, mà là phải nhào nặn, tái tạo và tôn vinh “nguyên mẫu” lên một tầm cao thẩm mĩ đầy sức cảm hoá, thuyết phục: “Trong tranh, một chú bé đang ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chú bé như toả ra một thứ ánh sáng rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ sự suy tư mà còn rất mơ mộng nữa”. Nghệ thuật đích thực tự nó đã hàm chứa thiên chức giáo dục, cái thiên chức có sức mạnh cải tạo con người thật kì diệu: “Tôi giật sững người. Chẳng hiểu sao tôi phải bám chặt lấy tay mẹ. Thoạt tiên là sự ngỡ ngàng, rồi đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ. Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo đến thế kia ư?… Vậy mà dưới mắt tôi thì…” và “tôi muốn khóc quá”…
Dĩ nhiên, cái gốc của nghệ thuật đích thực bao giờ cũng là: “… tâm hồn và lòng nhân hậu…” của người nghệ sĩ! Chính tâm hồn và lòng nhân hậu ấy đã trở thành tác nhân hối thúc con người tự nhận thức lại bản thân mình nghiêm khắc hơn bao giờ hết: “Không phải con đâu. Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy”!Hẳn nhiên, nhân loại tiến bộ chẳng còn mong gì hơn thế! Và chỉ có như thế thì nghệ thuật mới thực sự có ích cho đời sống tinh thần của con người! Mà đời sống tinh thần của con người là bằng chứng hùng hồn nhất và cũng là bằng chứng duy nhất để phân biệt con người với cầm thú!