Vệ sinh ăn uống trước tiên
Khuyên ăn thanh đạm, khuyên kiêng đậm nồng
Ngũ tâm (5 vị cay) dùng phải có chừng
Ăn nhiều tán khí, biết phòng mới hay
Các mùi mặn đắng chua cay
Ăn nhiều sinh bệnh chẳng sai đâu mà
Đắng nhiều hại phế khô da
Mặn nhiều tâm lãnh, máu tà phải ngưng
Quá chua can động rút gân
Quá cay, chai thịt, môi quăn, hại tỳ
Ngọt nhiều cũng chẳng ích gì
Tỳ chen, thận yếu xương tê, tóc cằn (1)
Đến như gừng, tỏi, kiệu, hành
Từng dùng phòng bệnh đã thành thói quen
Vừa chừng gia vị thì nên
Hễ người táo nhiệt, chớ quên kiêng dùng
Cao lương tích trệ sinh ung
Rau tương thanh đạm đói lòng cũng ngon
Ăn nhiều ngũ cốc (2) tốt hơn
Thịt thà tanh béo sinh đờm, sinh giun (lãi)
Có câu: Tham thực cực thân
Bệnh tòng khẩu nhập (3) ta cần phải kiêng
Muốn cho ngũ tạng được yên
Bớt ăn mấy miếng, nhịn thèm sinh đau
Ăn no thì chớ gội đầu (4)
Nên đi bách bộ cho tiêu kiêng nằm
Tháng 3 đói kém thiếu ăn
Đến mùa cơm mới, ăn dần mới tiêu
Chết vì bội thực cũng nhiều
Ngờ đâu lại có người nghèo chết no
Còn người phú quý nhàn cư
Ngày đêm yến tiệc ăn no lại nằm
Rượu say rồi lại nhập phòng
Khỏi sao tích trệ, phạm phòng chết non
Nhà nghèo củ chuối cũng ngon
Ăn nhiều sinh thũng còn hơn đói lòng
Bệnh can no đói bất đồng
Tai y khôn dễ dự phòng được ư?
Mấy điều cần phải phòng ngừa
Kiêng ăn sống sít, bẩn dơ, làm nhàm
Thức ăn phải đậy để phòng
Thằn lằn, nhện, kiến, nhặng ông rơi vào
Kiêng ăn rau sống tương meo (mốc)
Quạ đen, chó trắng (5) cùng loài tanh hôi
Chẳng ăn thịt thối, thịt ôi
Nem thiu, lươn chết tanh hôi ích gì
Quả xanh nước lã độc ghê
Ăn vào ỉa mửa thường khi bất ngờ
Lại còn độc sắn (6) chẳng ngờ
Cũng nên biết cách phòng ngừa mới yên
Phải đem bóc vỏ trước tiên
Cắt ra ngâm nước một đêm, trắng ròng
Nấu kỹ thì tốt hơn hông (Đồ)
Trước, sau, ăn mía, mật, đường đã say
Từng dùng rau muống xưa nay
Tuy rằng giải độc chưa hay đâu mà
Ai hay ăn nấm cần ngừa
Nấm lim (7) rất độc vì chưng rắn, trùng
Vậy nên biết cách đề phòng
Cho vào đồ bạc nấu cùng thử xem
Thấy đồ sắc biếc xám đen
Biết rằng nấm độc ta bèn bỏ đi
Nhược bằng ngộ độc đôi khi
Uống ngay nước Phẩn (8) tức thì giải luôn
Hoặc dùng nước xáo đất tường (9)
Lóng trong mà uống cũng thường được an
Luận về phòng độc thức ăn
Biết bao nhiêu thứ khó khăn kể cùng
Chỉ bằng kiêng kỵ là xong
Đừng ăn thức lạ mới hòng khỏi nguy
Bất kỳ ngộ đọc thứ gì
Rễ sòi, củ chuối uống thì trục ra
Đậu đen, cam thảo trung hoà
Hoàng đằng, Quán chúng, Từ cô giải liền
Độc cá thì dùng Mã tiên (Cỏ roi ngựa)
Thịt toi: Hoàng bá; Trùng: phèn, chè khô
Độc cua, sò ốc: tía tô
Trứng rau ngộ độc: Giấm chua tiêu liền
Chú Thích
1. Theo Thiên ngũ tạng sinh thành của Nội kinh tố vấn
2. Gạo tẻ, gạo nếp, bắp, đậu, mè
3. Tham ăn thì dễ bị đau, bệnh thường do ăn uống sinh ra
4. Người xưa để tóc dài, khi vừa ăn no mà gội đầu phải cúi xuống thì dễ sinh tức bụng và nhức đầu
5. Quạ đen hay con kênh kênh thường ăn xác chết: Thịt chó cò ăn thì dễ sinh đau bụng đi ngoài
6. Đây nói cây khoai mì (sắn) lương thực phụ trồng để ăn không phải là dã cát có độc theo sách xưa, cũng có tên là Câu vẫn tức Lá Ngón (Đoạn trường thảo)
7. Chất độc ở trong nấm không phải do rắn trùng nhả ra. Chính tuỳ theo loại cây nấm. Quan niệm về nguyên nhân trúng độc rắn và việc dùng nước phẩn giải độc là theo “Bản thảo cương mục”
8. Theo Linh nam bản thảo: Phân người đốt thành tro; để lâu khi dùng hoà với nước và lắng lấy nước trong uống giải độc
9. Đất vách hoà với nước, lóng lấy nước trong để uống