Các nghiên cứu mới nhất về xã hội học pháp lí đã một lần nữa khẳng định rằng chỉ trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản thì mới có thể áp dụng được nguyên lý cơ bản của pháp lí hình thức – nguyên lý theo đó mỗi trường hợp phải được phán xử theo các quy tắc duy lí phổ biến, tức các quy tắc càng ít ngoại lệ càng tốt và cho phép chứng minh rằng trường hợp nào thì phải xử theo quy tắc cụ thể nào.
Karl Mannheim
Việc tuân thủ một trong những nguyên tắc vĩ đại nhất gọi là pháp trị là điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa một đất nước tự do với một đất nước nằm dưới quyền cai trị của một chính phủ độc đoán. Bỏ qua các chi tiết kĩ thuật, điều này có nghĩa là mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ các quy tắc đã được ấn định và tuyên bố từ trước – các quy tắc này cho phép người ta dự đoán được một cách chắc chắn cách thức chính phủ sử dụng lực lượng cưỡng bức trong những hoàn cảnh cụ thể nào đó và lập kế hoạch cho các công việc của cá nhân trên cơ sở những hiểu biết như thế[1]. Và mặc dù không thể thực hiện được hoàn toàn lí tưởng này vì các nhà lập pháp và những người thừa hành pháp luật cũng là những con người có thể sai lầm, nhưng điều cốt yếu đã được thể hiện một cách rõ ràng: phạm vi mà cơ quan hành pháp có thể tự ý hành động phải được giảm thiểu đến mức tối đa. Mọi luật lệ đều hạn chế ở một mức độ nào đó quyền tự do cá nhân do nó tìm cách tước bớt các phương tiện mà dân chúng có thể sử dụng nhằm đạt được các mục đích của mình, còn pháp trị ngăn không cho chính phủ can thiệp một cách ad hoc[2] vào các hoạt động của cá nhân. Trong khuôn khổ của luật chơi đã biết, cá nhân được tự do theo đuổi các mục tiêu và ước mơ của mình, anh ta tin chắc rằng chính phủ sẽ không tuỳ tiện dùng quyền lực nhằm ngăn chặn các nỗ lực của anh ta.
Như vậy, sự tương phản mà chúng ta đã chỉ ra trước đây giữa việc tạo ra một khung luật pháp có giá trị lâu dài cho phép các cá nhân tự đưa ra các quyết định và việc quản lí nền kinh tế bằng một cơ quan trung ương thực ra là một trường hợp đặc biệt của một sự tương phản căn bản giữa chế độ Pháp trị và chính phủ độc đoán. Trong trường hợp thứ nhất, chính phủ chỉ làm một việc là đặt ra các điều luật quy định điều kiện sử dụng các nguồn lực hiện có, còn mục đích sử dụng thì để cho các cá nhân tự quyết định. Trong trường hợp thứ hai, chính phủ quản lí tất cả các lĩnh vực kinh tế từ phương tiện sản xuất cho đến mục đích cuối cùng của sản xuất nữa. Trong trường hợp thứ nhất, các quy tắc có thể được xác lập từ trước, dưới dạng các quy định mang tính hình thức, không nhằm đáp ứng nhu cầu hay ước muốn của những người cụ thể nào. Các quy tắc này chỉ là công cụ cho việc theo đuổi các mục đích cá nhân khác nhau của người dân mà thôi. Đấy là những quy tắc lâu dài hoặc phải lâu dài để có thể chắc chắn rằng một số người không thể lợi dụng chúng để kiếm được nhiều lợi nhuận hơn một số người khác. Tốt nhất nên coi chúng là một loại công cụ sản xuất, giúp người dân dự đoán hành vi của những người mà họ sẽ phải cộng tác, chứ không phải là phương tiện nhằm thỏa mãn các nhu cầu đặc biệt nào đó.
Kế hoạch hóa kinh tế theo kiểu tập thể chủ nghĩa nhất định sẽ sinh ra một cái gì đó hoàn toàn ngược lại. Cơ quan lập kế hoạch không thể bằng lòng với việc cung cấp các cơ hội rồi để mặc cho những người xa lạ muốn sử dụng thế nào cũng được. Cơ quan này không thể tự trói mình vào những quy tắc chung, những quy tắc mang tính hình thức vốn dùng để ngăn cản những hành động độc đoán. Bởi vì chính cơ quan này phải lo cho các nhu cầu thực tế của người dân, mỗi khi nhu cầu xuất hiện, và sau đó cân nhắc xem nhu cầu nào cần đáp ứng, nhu cầu nào không. Nó phải thường xuyên giải quyết những vấn đề mà các quy tắc hình thức không thể trả lời nổi, và, trong khi ra quyết định nó phải xác định nhu cầu nào và của ai là xứng đáng được đáp ứng trước. Khi chính phủ phải quyết định cần nuôi bao nhiêu lợn hay cần cho bao nhiêu xe bus chạy, mỏ than nào cần được khai thác, hoặc đôi giày giá bao nhiêu, nó không thể tìm được các quyết định đó từ những quy tắc hình thức và cũng không thể quyết định một lần là xong. Chắc chắn các quyết định phải phụ thuộc vào hoàn cảnh của từng thời điểm, và, trong khi ra quyết định người ta phải cân nhắc quyền lợi của các cá nhân và các nhóm khác nhau. Cuối cùng, một người nào đó sẽ phải quyết định lợi ích của ai là quan trọng hơn và quan điểm của người đó sẽ phải trở thành một phần của luật pháp, đấy chính là sự phân biệt đẳng cấp mới do bộ máy cưỡng bức của chính phủ áp đặt lên nhân dân.
Sự phân định mà chúng ta vừa tiến hành giữa một bên là luật hay công lí hình thức và bên kia là các quy tắc theo thực chất vụ việc (substantive rules) là cực kì quan trọng, dù rằng công việc này khó chỉ ra trong thực tế. Tuy vậy, nguyên lí chung thì lại khá đơn giản. Hai cách làm này khác nhau như việc ban hành Luật đi đường và chỉ cho người ta phải đi đâu hay nói một cách dễ hiểu hơn là giữa việc đặt những tấm biển chỉ đường và chỉ cho người ta phải đi theo đường nào. Các quy tắc hình thức thông báo trước cho người dân biết chính phủ sẽ hành động như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định, chúng xác định những điều kiện chung, mà không nói đến thời gian, địa điểm hay những người cụ thể nào. Chúng chỉ nói đến những tình huống điển hình mà ai cũng có thể rơi vào, còn khi đã rơi vào những hoàn cảnh như thế thì từng người sẽ sử dụng các quy tắc đó theo quan điểm lợi ích riêng của mình. Biết trước chính phủ sẽ hành động như thế nào hay sẽ đòi hỏi công dân hành xử như thế nào trong những hoàn cảnh nhất định chính là phương tiện để người dân sử dụng trong việc lập kế hoạch riêng của mình. Như vậy là các quy tắc hình thức chỉ mang tính công cụ theo nghĩa là chúng có thể được những người khác nhau sử dụng cho các mục đích khác nhau của họ và trong những hoàn cảnh mà không ai có thể lường trước được. Và vì trên thực tế chúng ta không thể biết những quy tắc này sẽ gây ra những ảnh hưởng cụ thể nào, không thể biết chúng sẽ thúc đẩy những mục tiêu đặc biệt nào, hoặc chúng sẽ giúp đỡ những người cụ thể nào cho nên chúng được diễn dạt dưới hình thức tổng quát nhất nhằm tạo thuận lợi cho tất cả những người mà nó tác động tới. Đấy chính là đặc điểm quan trọng nhất của các quy tắc mang tính hình thức theo nghĩa chúng ta sử dụng ở đây. Các quy tắc này không liên quan gì đến việc lựa chọn các mục tiêu cụ thể hay những con người cụ thể vì chúng ta không biết ai là người sẽ sử dụng và sẽ sử dụng như thế nào.
Trong thời đại của chúng ta, khi mọi người đều muốn kiểm soát một cách có chủ ý tất cả mọi thứ trên đời thì có vẻ ngược đời khi tuyên bố rằng cái hệ thống xã hội không đòi hỏi chúng ta phải biết nhiều về tác động cụ thể của các hành động của chính phủ lại có tính ưu việt hơn các hệ thống xã hội khác, và rằng một biện pháp kiểm soát xã hội sẽ được coi là ưu việt hơn bởi vì chúng ta không cần phải biết trước kết quả cụ thể của nó. Nhưng đây chính là nhân tố căn bản của nguyên tắc pháp trị của trường phái tự do. Và khi đi sâu vào thảo luận thì chúng ta sẽ thấy lời khẳng định nói trên không còn nghe có vẻ như ngược đời nữa.
* * *
Chúng ta sẽ thảo luận luận điểm trên theo hai hướng. Thứ nhất là về kinh tế, khía cạnh mà chúng ta chỉ đề cập một cách ngắn gọn. Nhà nước phải tự giới hạn trong việc soạn thảo các quy định áp dụng cho những tình huống chung và dành cho cá nhân quyền tự do hành động tùy thuộc vào hoàn cảnh của thời gian và địa điểm vì chỉ có các cá nhân đó mới hiểu rõ các hoàn cảnh cụ thể và có những hành động phù hợp mà thôi. Các cá nhân chỉ có thể sử dụng kiến thức để xây dựng kế hoạch nếu họ có thể đoán trước được các hành động của chính phủ mà có thể ảnh hưởng đến các kế hoạch của họ. Hành động của chính phủ lại chỉ có thể dự đoán được nếu chúng được xác định bởi các quy tắc được xác lập một cách độc lập với những hoàn cảnh cụ thể, tức là những hoàn cảnh vừa không thể lường trước cũng như không thể tính toán trước được: tác động cụ thể của những hành động như thế là không dự đoán được. Còn nếu chính phủ muốn chỉ đạo hành động của các cá nhân nhằm đạt được các kết quả đã đề ra từ trước thì hành động của chính phủ phải được xây đựng trên cơ sở tất cả những tình tiết hiện hữu tại thời điểm đó và như vậy hành động của chính phủ là không thể dự đoán được. Đấy là lí do vì sao nhà nước càng “lập nhiều kế hoạch” thì kế hoạch hóa lại càng trở thành gánh nặng đối với cá nhân hơn.
Khía cạnh thứ hai của luận điểm là khía cạnh đạo đức hay chính trị, lĩnh vực còn liên quan trực tiếp hơn đến vấn đề đang được thảo luận. Nếu nhà nước biết trước được chính xác hậu quả của các hành động của mình thì điều này có nghĩa là nhà nước đã tước đoạt quyền lựa chọn của những người chịu ảnh hưởng bởi những hành động đó. Bất cứ khi nào nhà nước nhìn thấy trước tác động của những đường lối hành động khác nhau đối với những người cụ thể thì nghĩa là nhà nước tự đứng ra chọn lựa mục tiêu cho những người đó rồi. Nếu chúng ta muốn tạo ra những cơ hội mới, cơ hội mở rộng cho tất cả mọi người, nếu chúng ta muốn cung cấp cho người dân những cơ may và để họ tận dụng theo ý mình thì kết quả sẽ không thể dự đoán được. Các nguyên tắc chung tức là luật pháp đích thực, khác hẳn với các chỉ thị, phải được soạn thảo sao cho chúng có thể hoạt động trong những tình huống không thể biết trước được một cách chi tiết và vì vậy ảnh hưởng của chúng đối với những mục tiêu cụ thể hay những người cụ thể là không thể dự đoán được. Cũng có nghĩa là không thể biết trước được hậu quả của chúng. Nhà làm luật là người vô tư trong và chỉ trong ý nghĩa này mà thôi. Vô tư có nghĩa là không có đáp án cho những câu hỏi mà muốn trả lời thì phải tung đồng xu. Vì vậy mà trong cái thế giới khi mọi thứ đều đã được dự báo trước thì chính phủ khó mà có thể vô tư trong bất cứ việc gì.
Khi đã biết trước các tác động của một chính sách nào đó đối với những người cụ thể, khi nhà nước nhắm vào các tác động cụ thể như vậy thì dĩ nhiên nhà nước không muốn người dân biết trước hậu quả, nghĩa là nó không thể vô tư. Nó không thể không đứng về một phía nào đó và buộc tất cả các công dân phải chấp nhận cách đánh giá của mình và đáng lẽ phải giúp đỡ họ hoàn thành các mục tiêu cá nhân thì nó lại làm cái việc là lựa chọn mục tiêu cho người dân. Nếu người ta có thể biết trước các tác động của một bộ luật ngay từ khi thông qua thì bộ luật đó không thể trở thành công cụ của nhân dân, luật pháp lúc đó đã trở thành công cụ của kẻ làm luật nhằm tác động lên quần chúng phục vụ cho mục đích của mình. Lúc đó nhà nước cũng không còn là bộ máy công lợi, bộ máy có trách nhiệm giúp đỡ các cá nhân thể hiện tất cả các khả năng của mình mà đã trở thành một định chế “đạo lí” – nhưng “đạo lí” ở đây không mang nghĩa trái ngược với một điều gì đó vô đạo mà đơn giản là nó buộc các công dân phải chấp nhận các quan điểm của nó về các vấn đề đạo lí, bất kể đấy đúng là đạo lí hay hoàn toàn vô đạo. Theo ý nghĩa này thì chính phủ quốc xã và tất cả các chính phủ theo tư tưởng chủ nghĩa tập thể là các chính phủ “có đạo” còn các chính phủ theo trường phái tự do đều vô đạo cả.
Có lẽ có người sẽ nói rằng sẽ chẳng có gì nghiêm trọng bởi vì trong khi giải quyết những vấn đề như thế, nhà hoạch định kinh tế thực hiện việc lập kế hoạch sẽ không và không được dựa vào định kiến cá nhân của anh ta mà sẽ dựa vào những quan niệm chung về sự công bằng và hợp lí. Quan điểm này thường được những người đã có kinh nghiệm về lập kế hoạch trong những lĩnh vực cụ thể ủng hộ, họ nhận thấy rằng tìm ra các giải pháp đáp ứng được quyền lợi của các bên khác nhau không phải là việc quá khó. Nhưng kinh nghiệm đó chẳng chứng tỏ được điều gì vì việc lựa chọn các “nhóm quyền lợi” liên quan trong khi lập kế hoạch chỉ giới hạn trong những ngành cụ thể. Những người có quyền lợi trực tiếp chưa chắc đã là những người có thể đưa ra quyết định tốt nhất đối với những vấn đề liên quan đến quyền lợi của toàn xã hội nói chung. Chỉ cần xem xét một trường hợp điển hình: khi nhà tư sản và công nhân trong một lĩnh vực nào đó đàm phán về chính sách hạn chế thì chính họ đã ăn cướp người tiêu dùng, và không khó khăn gì cho họ trong việc phân chia phần “cướp được”, nghĩa là phần thu nhập phụ trội, theo tỉ lệ cũ hay theo nguyên tắc tương tự. Người ta thường bỏ qua hoặc xem xét một cách không thỏa đáng khoản tổn thất được đem chia cho hàng ngàn, thậm chí hàng triệu người. Nếu chúng ta coi nguyên tắc công bằng như là công cụ lập kế hoạch thì ta phải kiểm tra sự bền vững của nó bằng cách áp dụng cho những tình huống khi mà lợi và thiệt cùng xuất hiện một cách rõ rệt. Lúc đó ta sẽ thấy ngay rằng chẳng có nguyên lí chung nào, kể cả nguyên lí công bằng, có thể giải quyết được vấn đề. Trên thực tế, cần phải nâng lương cho nhân viên bệnh viện hay cần mở rộng dịch vụ phục vụ bệnh nhân? Cung cấp thêm sữa cho trẻ em hay cải thiện điều kiện sống cho nông dân? Tạo thêm việc làm cho người thất nghiệp hay nâng lương cho những người đã có việc làm? Muốn giải quyết những vấn đề như thế thì phải có một hệ thống giá trị hoàn hảo và bao trùm tất cả, trong đó mỗi nhu cầu của từng người hoặc từng nhóm người đều có vị trí xác định một cách rõ ràng.
Thực ra, kế hoạch hóa càng mở rộng thì người ta càng hay đưa những điều như “công bằng” và “hợp lí” vào các văn bản pháp quy, nghĩa là việc giải quyết sẽ càng ngày càng phụ thuộc vào ý kiến tuỳ tiện của quan tòa hoặc một cơ quan quyền lực nào đó. Đã đến lúc chấp bút viết về lịch sử suy tàn của tinh thần pháp trị và Rechtsstaat[3], thể hiện bằng việc đưa những công thức mơ hồ này vào các văn bản pháp quy và ngành tư pháp, sự gia tăng của những hành động độc đoán, sự bấp bênh của tòa án và cơ quan lập pháp, sự coi thường các cơ quan này vì trong hoàn cảnh đó các cơ quan này không thể không trở thành công cụ chính trị. Vì thế cần phải nhắc lại một lần nữa rằng quá trình suy thoái của tinh thần pháp trị đã diễn ra một cách liên tục trong một thời gian dài trước khi Hitler nắm được chính quyền và chính sách hướng đến kế hoạch hóa toàn trị đã tiến khá xa. Hitler chỉ hoàn thành nốt công việc đó mà thôi.
Không nghi ngờ gì rằng kế hoạch hóa nhất định sẽ kéo theo việc phân biệt đối xử có chủ ý đối với những nhu cầu khác nhau của những người khác nhau, mặt khác, nó cho người này nhưng lại cấm người khác làm một việc gì đó. Nó ghi hẳn vào luật người nào thì được làm gì, được có những gì hay sung túc đến mức nào. Trên thực tế đấy chính là sự quay trở lại với quy định về địa vị, nghĩa là bánh xe lịch sử bị quay giật lùi, khỏi “xu hướng tiến bộ” như Sir Henry Maine đã nói: “Cho đến nay sự phát triển của các xã hội tiên tiến vẫn luôn đi theo hướng chuyển từ ưu thế của địa vị sang ưu thế của hợp đồng”. Hơn cả hợp đồng, tinh thần pháp trị có thể được coi là đối trọng của quy định về địa vị. Pháp trị, theo nghĩa quy tắc luật hình thức, là nhà cầm quyền không được tạo ra đặc quyền đặc lợi cho một số người nào đó, là bảo đảm quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật, là đối trọng của một chính phủ độc tài.
* * *
Từ những điều đã trình bày, ta có thể rút ra một kết luận tất yếu, mới nghe thì có vẻ nghịch lí như sau: quyền bình đẳng mang tính hình thức trước pháp luật mâu thuẫn và không thể dung hợp với bất kì hành động nào của chính phủ nhằm bảo đảm sự bình đẳng về mặt vật chất cho những người khác nhau và bất kì chính sách nào dựa trên lý tưởng về công bằng trong phân phối cũng nhất định sẽ dẫn đến việc phá hủy tinh thần pháp trị. Muốn tạo ra kết quả giống nhau cho những người khác nhau thì phải đối xử với họ khác nhau. Còn khi tất cả các công dân đều có các điều kiện khách quan như nhau thì không có nghĩa là cơ hội chủ quan của họ cũng như nhau. Không ai phủ nhận rằng pháp trị tạo ra bất bình đẳng về kinh tế, nhưng đấy không phải là một âm mưu hay ý đồ cố ý đưa đẩy một số người cụ thể nào đó vào hoàn cảnh cụ thể nào đó. Điều đặc biệt là những người xã hội chủ nghĩa (và quốc xã) luôn luôn chống lại pháp lí “chỉ” mang tính hình thức và chống lại các đạo luật không ghi rõ người nào thì được phong lưu đến mức nào[4], họ luôn luôn kêu gọi “xã hội hóa luật lệ” và thường xuyên tấn công nguyên tắc độc lập của các quan tòa đồng thời ủng hộ các trường phái luật học như kiểu Freirechtsschule[5] làm xói mòn nền tảng của tinh thần pháp trị.
Có thể khẳng định rằng muốn cho tinh thần Pháp trị có hiệu lực thì việc không để cho bất kì quy tắc nào có ngoại lệ khi áp dụng còn quan trọng hơn nội dung của chính các quy tắc đó. Xin xem thí dụ mà ai cũng biết: chúng ta có thể đi theo bên phải hoặc bên trái đường, vấn đề đó không quan trọng, quan trọng là tất cả chúng ta phải đi cùng một bên. Quy tắc này cho phép ta dự đoán được hành vi của những người khác, và ta chỉ có thể dự đoán được nếu quy tắc này được áp dụng cho tất cả mọi người ngay cả khi nó khiến ta cảm thấy bất công trong một số trường hợp cụ thể.
Sự xung đột giữa một bên là nguyên tắc pháp lí hình thức và bình đẳng mang tính hình thức trước pháp luật và bên kia là những cố gắng nhằm thực thi các lí tưởng công bằng và giải quyết theo “bản chất vụ việc” thường dẫn đến sự hiểu lầm khái niệm “đặc quyền đặc lợi” và sự lạm dụng khái niệm này. Chỉ xin dẫn ra một thí dụ nổi bật nhất của sự lạm dụng thuật ngữ “đặc quyền” đối với sở hữu. Trong quá khứ sở hữu từng là đặc quyền đặc lợi, đấy là khi, thí dụ như chỉ có quý tộc mới được quyền sở hữu ruộng đất. Ngay cả trong thời đại chúng ta nó cũng là đặc quyền đặc lợi, khi chính phủ cho phép chỉ cho một số người nào đó quyền sản xuất hoặc bán một loại hàng hóa nhất định nào đó. Nhưng gọi sở hữu tư nhân, theo đúng nghĩa của nó là ai cũng có quyền sở hữu bất kể một số người sở hữu nhiều hơn một số người khác, là đặc quyền đặc lợi là đã xuyên tạc ý nghĩa của khái niệm “đặc quyền đặc lợi” rồi.
Điểm đặc biệt của luật mang tính hình thức của hệ thống tự do – tính không thể tiên đoán các kết quả cụ thể – có thể giúp giải tỏa một sự lầm lẫn nữa về bản chất của hệ thống này, đấy là quan niệm cho rằng nhà nước tự do là nhà nước không hoạt động. Câu hỏi nhà nước có phải “hành động” hay “can thiệp” hay không là vô nghĩa, còn thuật ngữ laissez-faire lại làm người ta lầm lẫn vì tạo ra quan niệm mơ hồ và sai lầm về các nguyên tắc của trường phái tự do. Dĩ nhiên là mọi nhà nước đều hành động và mọi hành động đều là can thiệp vào một việc nào đó. Nhưng đây không phải là điểm chính, vấn đề quan trọng là liệu cá nhân có thể dự đoán được hành động của nhà nước hay không và anh ta có thể dựa vào kiến thức đó để xây dựng kế hoạch của mình hay không, kết quả là nhà nước không thể kiểm soát cách thức sử dụng cụ thể bộ máy do nó tạo ra, nhưng một cá nhân cụ thể thì lại biết rõ giới hạn mà anh ta được bảo vệ khỏi sự can thiệp từ bên ngoài và liệu nhà nước có can thiệp vào kế hoạch của anh ta hay không. Khi nhà nước kiểm soát việc tuân thủ các tiêu chuẩn đo lường và cân đong (hoặc ngăn chặn những cách lừa đảo khác) thì dĩ nhiên là nó đã hành động rồi. Nhưng khi nhà nước để xảy ra những hành vi bạo lực, thí dụ từ phía những người bãi công, thì nhà nước đã không hành động. Trường hợp thứ nhất, nhà nước đã tuân thủ các nguyên tắc tự do, còn trường hợp thứ hai thì không. Tương tự như thế đối với phần lớn các quy định chung và có hiệu lực lâu dài đối với quá trình sản xuất, thí dụ như tiêu chuẩn xây dựng hay luật về nhà máy: các quy định này có thể là sáng suốt hoặc đáng ngờ, nhưng vì chúng có hiệu lực lâu dài và không thiên vị bất cứ người nào cho nên không trái với các nguyên tắc tự do. Tất nhiên là các bộ luật như thế, ngoài những hậu quả dài hạn không thể dự đoán, còn có những hậu quả trực tiếp gây ra đối với những người cụ thể nhưng có thể dự đoán được. Nhưng những kết quả trực tiếp này nói chung không phải (ít nhất là không được là) mục đích chính yếu để xây dựng các bộ luật. Còn khi những hậu quả trực tiếp và dự đoán được trở nên quan trọng hơn các ảnh hưởng dài hạn thì chúng ta tiến đến đường ranh giới nơi sự phân biệt, tuy rất rõ ràng trên nguyên tắc, nhưng lại bị xóa nhòa trong thực tế.
* * *
Khái niệm pháp trị mới hình thành và phát triển một cách có ý thức trong thời đại tự do và trở thành một trong những thành tựu vĩ đại nhất của nó, đấy không chỉ là cơ chế bảo vệ mà còn là cơ chế pháp lí hữu hiệu để thực hiện quyền tự do. Immanuel Kant từng nói (trước đó Voltaire cũng đã nói như thế): “Theo luật chứ không theo người, đấy chính là tự do”. Ý tưởng đó đã từng xuất hiện từ thời La Mã cổ đại, và tồn tại trong mấy thế kỉ gần đây, nhưng chưa bao giờ lại bị đe dọa như bây giờ. Quan điểm cho rằng quyền lực của nhà làm luật là vô giới hạn, ở mức độ nào đó là kết quả của chính quyền nhân dân và chính thể dân chủ. Quan điểm này còn được củng cố vì người ta tin rằng pháp trị sẽ không bị đe dọa chừng nào các hành động của chính phủ còn tuân theo pháp luật. Nhưng hiểu pháp trị như thế là hoàn toàn sai. Vấn đề không phải là về mặt pháp lí thì hành động của chính phủ có hợp pháp hay không. Hành động của chính phủ có thể hợp pháp nhưng vẫn trái với nguyên tắc pháp trị. Việc một ai đó được luật pháp trao toàn quyền để hành động theo cách thức mà anh ta thích không có nghĩa là pháp luật đã cho anh ta quyền hành độc đoán hay đã quy định rõ cách thức hành động của anh ta. Hitler đã nhận được quyền lực không hạn chế bằng các biện pháp hợp hiến, nghĩa là tất cả hành động của ông ta đều hợp pháp. Nhưng ai dám nói rằng ở Đức vẫn có pháp trị?
Vì vậy khi chúng ta nói rằng pháp trị không thể tồn tại trong xã hội kế hoạch hóa thì không có nghĩa là ở đó không có luật pháp hay hành động của chính phủ là phi pháp. Điều đó chỉ có nghĩa là hành động của bộ máy đàn áp nằm trong tay chính phủ không hề bị giới hạn bởi các quy định đã được xác định từ trước. Luật pháp có thể, và để cho việc quản lí tập trung nền kinh tế hoạt động được, hợp thức hóa các hành động độc đoán. Nếu luật pháp khẳng định rằng một cơ quan hay nhà chức trách nào đó có thể làm bất kì cái gì họ muốn thì cơ quan ấy hoặc nhà chức trách ấy làm bất kì cái gì cũng đều là hợp pháp cả, nhưng đấy không phải là pháp trị. Khi đã trao cho chính phủ quyền lực vô giới hạn thì ngay các quy định độc đoán nhất cũng có thể được luật pháp hóa; và bằng cách đó nền dân chủ có thể thiết lập được chế độ độc tài cứng rắn nhất có thể[6].
Nếu luật pháp có trách nhiệm tạo điều kiện cho chính phủ quản lí nền kinh tế thì nó phải trao cho chính phủ toàn quyền thông qua và thực thi các giải pháp trong những hoàn cảnh không thể lường trước được và trên những nguyên tắc không thể phát biểu dưới dạng khái quát được. Kết quả là cùng với việc mở rộng kế hoạch hóa thì quyền làm luật càng được trao cho các bộ và các cơ quan khác của chính quyền hành pháp. Ngay trước chiến tranh, nhân một vụ mà Lord Hewart, nay đã quá cố, quan tâm, thẩm phán Darling đã tuyên bố rằng: “Theo nghi định của quốc hội thông qua vào năm ngoái thì Bộ Nông nghiệp được tự do hành động và không còn phải giải trình trước ai, ít nhất cũng như chính các nghị sĩ quốc hội vậy”; lúc đó lời tuyên bố như thế nghe có vẻ kì quặc. Nhưng hiện nay những chuyện như thế xảy ra như cơm bữa. Các cơ quan mới liên tục xuất hiện và được trao quyền lực cực kì rộng mà lại không bị giới hạn bởi bất kì quy tắc rõ ràng nào, trên thực tế các cơ quan này có quyền can thiệp một cách vô giới hạn vào hoạt động của người dân.
Như vậy là pháp trị đặt ra các giới hạn cho chính việc ban hành luật pháp: nó chỉ chấp nhận các quy tắc chung, được gọi là luật hình thức và không chấp nhận các bộ luật hướng trực tiếp vào những nhóm người cụ thể hay cho phép một người nào đó sử dụng bộ máy nhà nước để làm việc phân biệt đối xử như thế. Như vậy nghĩa là, không phải mọi việc đều bị điều tiết bởi luật pháp, mà ngược lại, sức mạnh cưỡng chế của nhà nước chỉ có thể được sử dụng trong những trường hợp đã được luật pháp xác định trước và theo cách có thể dự đoán được. Vì thế có thể có những văn bản pháp quy vi phạm nguyên tắc pháp trị. Ai phủ nhận điều này thì ắt phải công nhận rằng khả năng có được pháp trị ở Đức, Ý hay Nga hiện nay hoàn toàn phụ thuộc vào việc liệu các nhà độc tài có chiếm được quyền lực tuyệt đối một cách hợp hiến hay không[7]”.
* * *
Tại một số nước các nguyên tắc cơ bản của pháp trị được ghi trong Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) hay Hiến pháp. Trong một số nước khác các nguyên tắc này có hiệu lực đơn giản là vì đấy là truyền thống. Thành văn hay theo truyền thống không phải là điều quan trọng. Quan trọng là các nguyên tắc này, dù được thể hiện dưới hình thức nào, phải xác định các giới hạn cho quyền lập pháp, nghĩa là hàm ý công nhận các quyền không thể bị tước đoạt của cá nhân, công nhận những quyền không thể xâm phạm của con người.
Những lời phát biểu bảo vệ quyền con người đầy nhiệt huyết của H. G. Wells, một trong những ủng hộ viên hàng đầu của kế hoạch hóa tập trung, làm chúng ta xúc động nhưng đồng thời cũng chứng tỏ một cách rõ ràng rằng niềm tin vào những lí tưởng xung khắc nhau đã làm cho các nhà trí thức của chúng ta rối trí đến mức nào. Quyền cá nhân mà ông Wells kêu gọi bảo vệ nhất định sẽ xung đột với kế hoạch hóa mà ông nhiệt tình ủng hộ. Ở một mức độ nào đó có lẽ ông đã nhận thức được vấn nạn này cho nên các điều khoản trong “Tuyên ngôn Nhân quyền” của ông mới đầy những lời rào trước đón sau làm mất hết ý nghĩa của chúng đi như thế. Thí dụ, khi tuyên bố quyền của mỗi người “được mua và bán mà không bị bất cứ hạn chế nào tất cả những gì mà pháp luật không cấm mua bán” thì ông ta lập tức làm cho tuyên bố tuyệt vời này thành vô dụng bằng cách nói thêm rằng nó chỉ liên quan đến việc mua và bán “với số lượng và theo những điều kiện phù hợp với phúc lợi chung”. Nếu biết rằng tất cả các hạn chế từng được áp dụng cho việc mua bán đều được người ta lấy lí do vì “phúc lợi chung” thì rõ ràng là điều khoản này không ngăn chặn được bất kì hành động độc đoán nào của chính quyền và như vậy cũng có nghĩa là không bảo vệ được bất kì quyền cá nhân nào.
Hay xét một điều khoản khác trong “Tuyên ngôn”, trong đó nói rằng mỗi người đều “có thể lựa chọn bất kì nghề nghiệp nào mà luật pháp không cấm” và “có quyền được trả lương và quyền tự do lựa chọn bất kì cơ hội làm việc nào mở ra trước anh ta”. Ở đây không thấy nói ai quyết định là cơ hội được mở ra cho một người cụ thể nào đó hay không, nhưng ngay lập tức ta gặp lời giải thích “anh ta có thể đề nghị làm ứng viên cho một công việc nhất định và đơn của anh ta phải được xem xét một cách công khai, được chấp nhận hay bác bỏ công khai”, chứng tỏ rằng ông Wells nghĩ rằng một cơ quan có thẩm quyền nào đó sẽ quyết định người này có quyền nhận chức vụ đó hay không và như thế dĩ nhiên không thể gọi là tự do lựa chọn việc làm được. Trong thế giới kế hoạch hóa, khi mà không chỉ phương tiện đi lại và việc đổi tiền mà cả việc bố trí các nhà máy cũng bị kiểm soát chặt chẽ thì làm sao có thể bảo đảm được quyền “tự do đi lại”? Hay làm sao có thể bảo đảm được quyền tự do báo chí khi mà không chỉ việc cung cấp giấy mà cả các kênh phân phối sản phẩm in ấn đều nằm dưới quyền các cơ quan lập kế hoạch? Ông Wells cũng như những người ủng hộ kế hoạch hóa không trả lời các câu hỏi này.
Về khía cạnh này thì đa số các nhà cải cách lại tỏ ra nhất quán hơn, những người mà ngay từ khởi thủy phong trào xã hội chủ nghĩa, đã phê phán tư tưởng quyền con người “siêu hình” và khẳng định rằng trong thế giới được tổ chức một cách hữu lí con người sẽ chẳng còn quyền gì, chỉ còn nghĩa vụ mà thôi. Ý tưởng này đã chi phối tâm trí của tất cả những người gọi là “tiến bộ” và cách tốt nhất để được liệt vào hàng ngũ phản động là nói rằng các biện pháp đó vi phạm quyền cá nhân. Ngay cả tờ Economist, một tờ tạp chí theo xu hướng tự do, cách đây vài năm cũng đã từng đưa người Pháp ra như một thí dụ về việc người ta đã hiểu rằng “chính phủ dân chủ cũng phải luôn luôn có (síc!) khả năng sử dụng quyền lực tuyệt đối giống như chế độ độc tài, nhưng vẫn phải giữ được tính chất dân chủ và tính chất đại diện của mình. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào thì trong các vấn đề hành chính mà chính phủ giải quyết cũng không thể tồn tại những giới hạn bảo vệ quyền cá nhân mà chính phủ không thể vượt qua. Một chính phủ được dân bầu và bị phe đối lập công khai chỉ trích không chấp nhận bất cứ giới hạn quyền lực nào”.
Có thể chấp nhận những chuyện như thế trong thời chiến, lúc đó dĩ nhiên là ngay cả việc phê phán công khai và tự do cũng phải bị giới hạn. Nhưng trong câu vừa dẫn đã nói một cách rõ ràng: “luôn luôn”. Từ đó có thể rút ra kết luận rằng tờ Economist không coi đấy là nhu cầu đáng buồn của thời chiến. Đưa quan điểm như thế vào các định chế xã hội chắc chắn là không phù hợp với tinh thần pháp trị và sẽ dẫn thẳng tới nhà nước toàn trị. Nhưng đấy chính là cái đích mà những người cho rằng chính phủ phải quản lí đời sống kinh tế đang nhắm đến.
Kinh nghiệm của các nước ở Trung Âu khác nhau cho chúng ta thấy rằng khi nhà nước đã kiểm soát toàn bộ đời sống kinh tế thì việc công nhận về mặt hình thức các quyền cá nhân và quyền các dân tộc thiểu số đã mất hết ý nghĩa. Hóa ra có thể thực thi chính sách phân biệt đối xử tàn nhẫn, tức là sử dụng các biện pháp kinh tế, đối với các sắc dân thiểu số mà vẫn không vi phạm lời văn của các quy định pháp lí bảo vệ quyền lợi của họ. Các biện pháp kinh tế, trong trường hợp này còn dễ dàng được sử dụng vì một số lĩnh vực gần như nằm hoàn toàn trong tay các sắc dân thiểu số, cho nên có nhiều biện pháp của chính phủ, mới nhìn thì có vẻ như nhằm chống lại một lĩnh vực hay một giai cấp nào đó, trên thực tế lại nhằm đàn áp các sắc dân thiểu số. Sử dụng nguyên tắc mới nhìn tưởng như vô hại là “chính phủ kiểm soát sự phát triển công nghiệp” lại cho thấy những khả năng áp bức và phân biệt đối xử vô cùng to lớn. Nhưng đây chính là bài học tốt cho tất cả những ai muốn biết rõ những hậu quả chính trị trên thực tế của chính sách kế hoạch hóa.
Chú thích:
[1] Theo định nghĩa kinh điển của A. V. Dicey trong The Law of the Constitution (Luật của hiến pháp) (8th ed. trang 198 thì Pháp trị “trước hết là uy quyền tối cao và uy thế tuyệt đối của pháp luật hiện hành, chống lại những quyết định tùy tiện của chính quyền và không chấp nhận không chỉ sự độc đoán của chính phủ mà cả khả năng tùy nghi hành động trong những hoàn cảnh nào đó”. Ở Anh thuật ngữ này hiện (phần lớn là nhờ trước tác của A. V. Dicey) đã mang ý nghĩa hẹp và chuyên biệt mà chúng ta sẽ không đi sâu ở đây. Ý nghĩa rộng rãi và mang tính truyền thống hơn của khái niệm Pháp trị đã xuất hiện vào đầu thế kỉ XIX ở Đức, khi người ta thảo luận về bản chất của nhà nước pháp quyền.
[2] Độc đoán – ND.
[3] Nhà nước pháp quyền – Tiếng Đức – ND.
[4] Vì vậy không thể nói rằng Karl Schmitt, lí thuyết gia về luật pháp của chủ nghĩa quốc xã, là hoàn toàn vô lí khi ông ta đem lí tưởng về “nhà nước công bằng” quốc xã đối lập với nhà nước pháp quyền tự do. Chỉ có điều công bằng mà đối lập với pháp lí hình thức thì nhất định sẽ dẫn tới phân biệt đối xử.
[5] Trường luật tự do – Tiếng Đức – ND.
[6] Như vậy, hoàn toàn không phải là tự do và luật pháp xung đột với nhau, như trong thế kỉ XIX người ta đã nghĩ. Như John Locke đã chỉ rõ, không có luật pháp thì không thể có tự do. Xung đột ở đây là mâu thuẫn giữa hai loại luật pháp, khác nhau đến nỗi đáng lẽ ra không nên dùng cùng một thuật ngữ. Loại thứ nhất, phù hợp với nguyên tắc pháp trị là các bộ luật chung, là các “luật chơi” đã được xác định, cho phép cá nhân dự đoán được hành động của các cơ quan của chính phủ và biết chắc rằng anh ta cũng như những người khác được làm gì và không được làm gì trong những hoàn cảnh nhất định. Loại thứ hai là luật cho nhà cầm quyền được toàn quyền hành động theo ý mình. Vì vậy trong điều kiện của nền dân chủ, nếu người ta không sử dụng các quy tắc đã được xác định từ trước để giải quyết các xung đột quyền lợi mà giải quyết “theo bản chất của vụ việc” thì pháp trị sẽ dễ dàng bị loại bỏ.
[7] Một thí dụ nữa chứng tỏ các nhà làm luật đã vi phạm nguyên tắc pháp trị, đấy là việc quốc hội tuyên bố đặt một người nào đó ra ngoài vòng pháp luật vì đã phạm những tội ác nghiêm trọng, rất thịnh hành trong lịch sử Anh. Trong hình luật, nguyên tắc Pháp trị được thể hiện bằng câu Latin sau đây: nulla poena sine lege, không thể trừng phạt khi chưa có luật quy định hình phạt đó. Bản chất của nó là điều luật phải hiện diện dưới dạng quy tắc chung, được thông qua trước khi xảy ra trường hợp vi phạm mà luật này áp dụng. Không còn ai dám khẳng định rằng Richard Rose, một đầu bếp của Giám mục xứ Rochester, bị “luộc cho đến chết mà không được rửa tội” theo nghị định của quốc hội dưới thời Henry VIII, là vụ tử hình được thực thi theo đúng tinh thần pháp trị nữa. Nhưng hiện nay trong tất cả các nước theo chủ nghĩa tự do, pháp trị đã trở thành cơ sở cho việc xét xử các tội hình sự. Song tại các nước toàn trị câu Latin đã dẫn bên trên, theo cách nói chính xác của ngài E. B. Ashton, đã trở thành: nullum crimen sine poena, nghĩa là không được bỏ qua bất kì tội lỗi nào, dù luật đã quy định hay chưa. “Quyền của nhà nước không chỉ giới hạn ở việc trừng phạt những kẻ vi phạm pháp luật. Nhà nước được phép thực hiện tất cả mọi việc để bảo vệ quyền lợi của xã hội và tuân thủ pháp luật chỉ là một trong những yêu cầu đối với nó mà thôi”. (Ashton E. B, The Fascist, His State and Mind (Người phát xít, nhà nước và tâm địa của hắn ta), 1937. p. 119). Còn “quyền lợi của xã hội” là gì thì dĩ nhiên là do nhà cầm quyền quyết định.