Họ đi thành một dãy. Lối vào con đường có dạng một đường cong dẫn vào một đường hầm tối được tạo ra bởi hai cái cây khổng lồ nghiêng vào nhau, chúng nhìn thật già cỗi và lạ lẫm, đầy dây tầm xuân và bám đầy địa y, còn nhiều hơn cả vài cái lá đen hiếm hoi. Con đường bản thân nó đã hẹp và nhấp nhô những thân cây. Ánh sáng ở lối vào đã nhanh chóng trở thành một lỗ sáng nhỏ ở tít đằng sau, và không gian im lặng tĩnh mịch đến nỗi tiếng bước chân của họ nghe như đang nện thật mạnh dọc theo đám lá cây rơi dày trước mặt. Khi những đôi mắt vụng trộm của họ đã bắt đầu quen với bóng tối thì họ có thể thấy một con đường nhỏ dẫn đến phía bên kia của một vùng xanh lục mờ hơn. Thỉnh thoảng lại có một luồng sáng mặt trời mờ mỏng manh dõi qua những kẽ hở đâu đó của những tán lá đằng xa mà không bị những cành cây chằng chịt bên dưới cản lại, chiếu sáng yếu ớt trước mặt họ. Nhưng những tia nắng này là rất hiếm hoi, và sự xuất hiện của chúng nhanh chóng biến mất.
Trong rừng có những con sóc đen. Khi đôi mắt tò mò lanh lợi của Bilbo bắt đầu quen với mọi vật, ông có thể thấy được bóng chúng đang nhanh nhẹn lao qua lối đi và vội vã lẩn sau những thân cây. Cũng có những tiếng đông kỳ lạ, tiếng gầm gừ, tiếng ẩu đả, và tiếng bước chân vội vã ngầm dưới đất và dọc giữa đám lá nằm thành một đống dày vô tận trên nền rừng; nhưng ông không thể thấy được cái gì tạo ra những tiếng động đó. Những thứ bẩn thỉu nhất mà họ thấy ở đây là những lưới nhện: những lưới nện đen đúa dày đặc với những đường chỉ to lớn dị thường, thường giăng từ cây này qua cây kia, hoặc đan vào nhau trên những cành cây thấp hai bên họ. Chúng không chăng ngang đường, có thể vì những phép thuật nào đó đã giữ cho đường quang đãng, hoặc vì lý do nào đó mà họ không biết.
Không cần quá lâu để họ trở nên căm ghét khu rừng mãnh liệt như họ đã căm ghét những đường ống của bọn yêu tinh, và có vẻ như nơi này chẳng khơi lên một hy vọng nào rằng nó sẽ có tận cùng. Nhưng họ cứ mải miết đi tới, một lúc lâu sau thì họ mệt mỏi trong việc tìm kiếm một dấu hiệu của mặt trời và bầu trời, và mong chờ có được cảm giác của một luồng gió phả mặt mình. Không có chuyển động diễn ra trong vùng không trung phía dưới trần của những cành cây, chúng vẫn tối tăm và ngột ngạt như bao giờ. Thậm chí cả những người lùn cũng cảm thấy như vậy, cho dù họ đã từng đào những đường ống, và sống một thời gian rất lâu dưới đó mà không có ánh sáng mặt trời; còn với ông hobbit, người thích những cái lỗ để làm làm nhà mà không để ánh sáng lọt vào, cảm thấy ông đang chết ngạt dần.
Đêm đến thì còn tệ hơn. Nơi đây trở nên tối đen như mực – không phải là cái bóng tối mà bạn quen gọi là tối đen như mực đâu – mà nó thật sự tối như hũ nút; tối đến nỗi bạn không thể nào thấy được cái gì hết. Bilbo thử vẫy tay trước mũi, nhưng ông không thể thấy gì cả. À, có thể việc nói rằng không thể thấy được gì là không đúng: họ có thể thấy những đôi mắt. Họ nằm ngủ lộn xộn sát bên nhau, và thay phiên nhau canh gác; và khi đến lượt Bilbo, ông có thể thấy những luồng sáng trong vùng bóng đêm quanh mình, và đôi khi những cặp mắt vàng hoặc đỏ hoặc lục nhìn chằm chằm vào ông từ đằng xa, rồi chúng chậm chạp mờ đi, biến mất và lại hiện ra ở một nơi khác. Và đôi khi chúng nhìn xuống từ những cành cây phía trên ông; và lúc này mới là kinh hãi nhất. Nhưng những cặp mắt mà ông không ưa nhất là là một đôi mắt hình củ hành đầy kinh hãi. “Mắt côn trùng,” ông nghĩ, “không phải là mắt thú vật, chỉ có điều là chúng bự quá.”
Mặc dù không đến nỗi lạnh lắm, họ vẫn cố đốt lửa lên trong đêm, nhưng họ nhanh chóng từ bỏ ý định này ngay. Có vẻ như có hàng trăm và hàng trăm đôi mắt đang vòng khắp quanh họ, cho dù những sinh vật này, bất kể chúng là gì, vẫn cẩn thận không thể độ thân hình ra vùng lửa sáng bập bùng. Tệ hơn nữa là ánh lửa lại mang đến hàng ngàn những con nhậy đen và xám đen. Họ không thể chịu nỗi chúng, hay những con dơi khổng lồ, đen thui lùi lùi; nên họ đành dập lửa và ngồi trong bóng tối, gà gật trong vùng tối huyền bí bao la.
Tất cả những việc này khiến cho ông hobbit cảm thấy trở nên già thêm hàng chục tuổi; và ông luôn cảm thấy đói, vì họ luôn dè xẻn đồ dự trữ của mình. Cho dù như thế, khi mà ngày tháng nối tiếp nhau mà khu rừng vẫn có vẻ chẳng hề thay đổi, thì họ trở nên lo lắng. Thức ăn không thể còn mãi được: thật ra thì chúng đã bắt đầu cạn dần. Họ cố gắng bắn những con sóc, nhưng họ đã phung phí những mũi tên trước khi họ có thể hạ được một con trên đường đi. Nhưng khi họ quay nó, thì vị của nó quá tệ, và họ không săn sóc nửa.
Họ cũng rất khát, vì họ không có nhiều nước, và họ không hề thấy dòng lạch hay con sông nào. Đó là tình cảnh của họ khi một ngày nọ họ thấy con đường của họ bị chặn lại bởi một dòng nước chảy. Nó chảy rất nhanh và mạnh nhưng quá rộng ở đoạn băng ngang đường, và nó đen ngòm, hoặc là nó nhìn như thế khi nhìn trong vùng tối lờ mờ. Cũng may là Beorn đã cảnh báo họ trước, nếu không họ đã uống thứ nước này, cho dù chúng màu gì đi nữa, và đã đổ đầy chúng vào những cái túi da đã cạn. Và khi sự thể đã vậy thì họ chỉ nghĩ đến việc làm sao băng qua được mà không làm cho mình bị ướt. Có một cái cầu bằng gỗ bắt qua nó <ặc - ai làm vậy?>, nhưng nó đã bị mục và đổ xuống, để lại một bên thành cầu gần bên dòng sông.
Bilbo quỳ xuống bên bờ sông, nhìn về phía trước và la lên: “Có một con thuyền phía bờ xa bên kia! Sao mà nó không ở bên phía bên này vào lúc này chứ!”
“Anh nghĩ là nó cách đây bao xa?” Thorin hỏi, vì lúc này họ đều biết là Bilbo tinh mắt nhất trong đám.
“Không đến nỗi quá xa đâu. Tôi không nghĩ rằng là nó trên mười hai yard.”
” Mười hai yard! Tôi nghĩ rằng nó ít nhất phải ba mươi, nhưng mắt tôi không được tinh lắm như cách đây một trăm năm trước. Mười hai yard thì cũng như một dặm thôi. Chúng ta không thể nhảy qua được, và chúng ta thì không dám lội hay bơi qua.”
“Có ai trong số các ông quăng dây thừng được không?”
“Điều đó thì làm được gì? Chắc chắn là con thuyền đã bị buộc lại rồi, thậm chí khi mà chúng ta có thể móc được dây vào nó, mà tôi thì rất nghi ngờ điều này.”
“Tôi không nghĩ là nó buộc lại đâu,” Bilbo nói, “cho dù tất nhiên là tôi không thể chắc chắn được điều này trong điều kiện ánh sáng như thế này; nhưng theo tôi thấy thì có vẻ như như nó chỉ dật dờ trên sông thôi, nằm ngay chỗ đường dẫn xuống nước từ bên đó.”
“Dori là người mạnh nhất, nhưng Fili là người trẻ nhất và có thị lực tốt nhất,” Thorin nói, “Đến đó đi Fili, và nhìn xem anh có thể thấy con thuyền mà ngài Baggins nói hay không.”
Fili nghĩ là ông có thể thấy, và thế là ông nhìn vào vùng trắng dài để có ý niệm về phương hướng, những người khác đưa dây cho ông. Họ mang theo khá nhiều dây, và ở cuối sợi dài nhất họ buộc những cái móc thép vốn dùng để móc những dải da để đeo đồ trên vai. Fili cầm nó trong tay, ước lượng một thoáng, rồi tung băng qua sông.
Nó rơi phịch xuống nước! “Không đủ xa!” Bilbo nói, ông đang nhìn về phía trước. “Chỉ cần thêm vài foot nữa là ông có thể ném được nó vào trong thuyền. Thử lại đi. Tôi không nghĩ là phép thuật của dòng nước đủ mạnh để tác động lên ông đâu, nếu như ông chỉ chạm vào một sợi thừng ướt.”
Fili nhặt cái móc lên khi ông thu nó lại, có vẻ nghi ngờ. Lần này thì ông ném mạnh hơn.
“Mạnh quá!” Bilbo nói, “lần này thì ông đã ném nó vào trong đám rừng ở phía bên kia. Kéo nó về nhẹ thôi.” Fili chậm chạp thu dây về, và sau một lúc thì Bilbo nói:
“Cẩn thận! Nó đang nằm ngay trên thuyền; hy vọng là cái móc móc được vào thuyền.”
Nó đã làm được như vậy. Sợi dây căng lên, và Fili không thể kéo nổi. Kili đến giúp, rồi Oin và Gloin. Họ kéo thật mạnh, rồi thình lình họ ngã ngửa ra. Tuy nhiên, Bilbo, vẫn đang quan sát, tóm lấy sợi dây thừng, và chiếc thuyền đen nhỏ lắc lư khi nó băng qua dòng nước.
“Giúp nào!” ông kêu lên, và Balin đến vừa kịp để chụp lấy con thuyền trước khi nó băng đi mất trên dòng nước.
“Thì ra nó cũng bị buộc lại,” ông nói, nhìn vào cái dây neo bị đứt vẫn còn treo sau thuyền. “Các bạn ạ, chúng ta đã kéo tốt đấy; và cũng hay là sợi thừng của chúng ta bền hơn.”
“Ai qua trước nào?” Bilbo hỏi.
“Tôi,” Thorin nói, “và anh sẽ đi với tôi, với Fili và Balin. Chiếc thuyền chỉ chở nỗi bao nhiêu đó người cùng lúc thôi. Sau đó là Kili và Oin và Gloin và Don , rồi Oni và Nori, Bifur và Bofur, cuối cùng là Dwalin và Bombur.”
“Lúc nào tôi cũng đi sau chót, và tôi không thích việc này,” Bomber nói. “Hôm nay thì đến phiên ai khác đi.”
“Anh không nên béo như vậy. Khi mà anh béo như vậy, thì anh phải đi sau cùng với những bạn thuyền nhẹ nhất. Đừng có bắt đầu càu nhàu với những người khác, nếu không thì sẽ có chuyện tồi tệ xảy ra với anh đấy.”
“Ở đây không còn một mái chèo nào cả. Làm sau mà ông có thể đẩy ngược thuyền lại từ bờ bên kia?” ông hobbit hỏi.
“Đưa cho tôi một sợi thừng và một cái móc khác,” Fili nói, và khi mọi thứ đã sẵn sàng, ông dùng hết sức ném chúng thật cao vào khoảng tối phía trước. Do nó không rơi xuống trở lại, họ thấy rằng nó hẳn đã mắc vào một cái cây phía bên kia. Một người phải giữ cái móc mà chúng ta đã dùng đầu tiên, và khi chúng ta qua bên kia an toàn, người đó có thể móc nó vào thuyền trở lại, và chúng ta có thể kéo thuyền trở lại.”
Bằng cách này tất cả bọn họ đều nhanh chóng qua được con sông ma một cách an toàn. Dwalin đã bò ra với sợi thừng được buộc chặt trên tay, và Bombur (vẫn còn gầm gừ), đã sẵn sàng để nối gót, thì một chuyện không hay đã xảy ra. Có tiếng móng guốc vẳng vọng ở con đường đằng trước. Rồi thình lình một con hươu bay chợt hiện ra. Nó húc vào đám người lùn và hất họ ngã ra, rồi lại nhảy lên. Nó nhảy vút qua dòng nước với một bước nhảy vĩ đại. Nhưng nó không qua được bờ bên kia an toàn. Thorin là người duy nhất vẫn còn đứng vững và tâm trí vẫn còn minh mẫn. Ngay khi mọi người vừa đến nơi thì ông đã giương cung và cầm sẵn tên để đề phòng những kẻ bảo vệ bí ẩn của con thuyền xuất hiện. Bây giờ thì ông nhanh nhẹn và quả quyết bắn thẳng vào con vật đang lao vụt đi. Khi nó phóng qua được bờ kia thì nó ngã xuống. Bóng tối trùm lên nó, nhưng họ nghe tiếng móng guốc nhanh chóng thưa dần và rồi yên tĩnh trở lại.
Tuy nhiên, trước khi họ có thể biểu lộ sự thán phục với phát tên, thì một tiếng thét khủng khiếp vang lên từ phía Bilbo đã khiến mọi ý nghĩ về thịt hươu biến mất khỏi tâm trí họ. “Bombur bị ngã rồi! Bombur chết đuối mất!” ông gào lên. Và điều này quá đúng. Bumbum chỉ mới đặt một chân lên đất khi con hươu đực lao về phía ông và nhảy qua ông. Ông trượt chân, đẩy mạnh con thuyền ra khỏi bờ và rơi tỏm xuống dòng nước đen, tay ông trượt lên những gốc cây nhầy nhụa trên bờ, trong khi con thuyền chậm chạp quay đi và biến mất.
Họ vẫn còn có thể thấy cái mũ trùm của ông nhấp nhô trên dòng nước khi họ chạy đến bên bờ. Họ nhanh chóng quăng dây thừng với một cái móc ở đầu về phía ông. Tay của ông bắt đầu được nó, và họ kéo ông về bên bờ. Tất nhiên là ông ướt như chuột lột từ đầu đến chân, nhưng đó không phải là điều tệ nhất. Khi họ đặt ông nằm trên bờ thì ông đã nhanh chóng ngủ thiếp đi, một tay vẫn còn bám sợi dây thừng chặt đến nỗi họ không thể giật nó ra khỏi bàn tay siết chặt của ông; và ông vẫn ngủ say sưa mặc tất cả những cố gắng của họ. Họ vẫn đứng quanh ông, nguyền rủa cái số phận tồi tệ của mình, và sự vụng về của Bombur, và than thở về việc mất con thuyền, khiến họ không thể quay trở lại và tìm con hươu được nữa. Rồi họ bắt đầu nhận ra hình dáng lờ mờ của những cái sừng trong rừng và tiếng những con chó sủa vang ở xa xa. Thế là cả bọn họ đều im lặng; và khi họ ngồi xuống thì họ có thể nghe thấy tiếng động của một sự săn đuổi lớn có vẻ đang diễn ra ở phía bắc con đường, cho dù họ không thấy dấu vết nào chuyện này. Họ ngồi đó một lúc lâu và không dám thực hiện một cử động nào. Bilbo ngủ say, một nụ cười nở ra trên khuôn mặt béo tốt của ông, như thể ông không còn quan tâm gì đến những rắc rối đang quấy rầy họ.
Thình lình những con hươu trắng xuất hiện trên con đường phía trước, một con hươu cái và nhiều hươu con trắng như tuyết. Chúng sáng lên trong bóng tối. Trước khi Thorin kịp kêu lên thì ba người lùn đã đứng dậy và buông cung. Không mũi tên nào có vẻ tìm đến được đích. Những con hươu quay lại và biến mất và rừng cây nhẹn nhàng như khi chúng xuất hiện, và những người lùn bắn đuổi chúng một cách vô vọng.
“Ngừng lại! Ngừng lại!” Thorin la lên; nhưng đã quá trễ rồi, những người lùn đã phung phí những mũi tên cuối cùng của họ, và bây giờ những cây cung mà Beorn cho họ đã trở thành vô dụng.
Thêm đó thật là ảm đạm, và sự ảm đạm còn tụ lại nặng nề hơn với họ trong những ngày tiếp theo. Họ đã băng qua con sông ma; nhưng con đường phía sau nó có vẻ như vẫn đầy trúc trắc như phần phía trước nó, và họ không thể thấy sự thay đổi nào trong rừng. Song nếu như họ biết nhiều hơn về nó và quan tâm đến ý nghĩa của cuộc săn và những con hươu trắng vừa xuất hiện trên đường của họ, thì họ có thể biết rằng cuối cùng họ cũng sang được phía sườn đông, và nếu họ giữ vững lòng dũng cảm và hy vọng của mình, thì họ sẽ sớm đến được những vùng cây mảnh hơn và những vùng đất mà ánh sáng mặt trời lại xuất hiện trở lại.
Nhưng họ không biết điều này, và họ còn phải mang theo cái thân xác nặng nề của Bombur, người mà họ phải cố hết sức khiêng đi với mình, họ đã thay phiên nhau cứ bốn người một gánh vác công việc nặng nề này trong khi những người khác mang hành lý của họ. Nếu như những cái gói hành lý này đã không trở nên quá nhẹ trong những ngày cuối, thì họ hẳn sẽ không bao giờ làm được điều này, nhưng cái lão Bombur ngủ say và cười toe kia là một sự thay đổi khốn khổ cho những gói hành lý đầy lương thực nhưng nặng nề trước kia. Vài ngày sau thì thật sự chẳng còn gì để ăn hay uống nữa. Họ không thấy được thứ gì lành mọc trong rừng, chỉ toàn là những cây nấm với các loài cỏ có lá nhợt nhạt và bốc một thứ mùi khó ngửi.
Sau khi qua khỏi con sông ma được bốn ngày thì họ đến được một vùng đất mà phần lớn các cây mọc ở đó là sồi. Thoạt tiên thì họ có phần vui mừng với sự thay đổi này, vì ở đây không có các bụi cây thấp và bóng tối không quá dày đặc. Chúng sáng lên một màu xanh nhạt, và ở đây thì họ có thể thấy được một khoảng xa từ cả hai phía của con đường. Song ánh sáng chỉ rọi cho họ thấy một hàng vô tận những thân cây xám mọc thẳng giống như những cây cột trong những căn tiền sảnh khổng lồ thời xa xưa. Có một tiếng thở trong không trung và tiếng gió lay động, nhưng đó là những âm điệu buồn thảm. Vài chiếc lá rụng nhắc họ rằng mùa thu đã đến ở bên ngoài. Bước chân họ làm xao động những đám lá chết từ biết bao mùa thu trước phủ đầy trên nền đất thành một lớp thảm dày đỏ rực phủ lên rừng.
Bombur vẫn ngủ và họ đã rất mệt. Đôi khi họ nghe thấy những tiếng cười rộn lên. Thỉnh thoảng lại có những tiếng hát vang lên xa xa. Người cười cười với một giọng trong trẻo, không phải giọng yêu tình, và những tiếng hát thì thật là thánh thót, nhưng nó có vẻ kỳ quái và lạ lùng, và họ không cảm thấy thoải mái, họ vội vã vượt qua những vùng đất này với tất cả những sức lực mà họ còn lại.
Hai ngày sau thì họ thấy con đường đã có vẻ dốc xuống và rồi họ đã ở trong một thung lũng gần như mọc đầy những cây sồi lớn.
“Chẳng lẽ cái khu rừng đáng nguyền rủa này không có tận cùng sao?” Thorin nói. “Phải có ai đó leo lên cây và thử xem có thể nhô đầu qua trần và nhìn qua không. Cách duy nhất để làm điều này là chọn cái cây cao nhất nhô lên đường.”
Tất nhiên “ai đó” nghĩa là Bilbo. Họ chọn ông bởi vì người leo cây phải nhô đầu ra khỏi những tán lá cao nhất, và người đó tất nhiên phải đủ nhẹ để có thể leo trên những cành cao và mảnh nhất. Ngài Baggins tội nghiệp chưa hề tập leo cây bao giờ, nhưng họ đã nhấc ông lên những cành thấp nhất của một cây thông khổng lồ mọc ngay trên đường, và ông dùng hết khả năng của mình để leo lên. Ông băng qua những cánh tàn cây đan vào nhau với nhiều cú va vào mặt; lớp vỏ cây của những cành cây phía trên làm ông trở nên xanh lè và đầy bụi bẩn; nhiều lần ông bị trượt và chỉ kịp bám lại vừa kịp lúc; rồi cuối cùng, sau một lúc loay hoay đầy vất vả ở một vị trí khó khăn, nơi mà hầu như chẳng có những cái cành nào vừa tầm cả, ông cũng leo được gần đến đỉnh. Lúc nào ông cũng tự hỏi là trên cây có nhện không, và làm cách nào mà ông có thể leo xuống được (tất nhiên là trừ việc té xuống). Cuối cùng ông cũng nhô đầu ra khỏi những tán lá, và rồi ông thấy những con nhện. Nhưng chúng không phải là những con nhện nhỏ với kích cỡ bình thường, và chúng đang đuổi bắt bướm. Mắt Bilbo gần như bị loá với ánh sáng. Ông có thể nghe thấy tiếng những người lùn đang gọi với lên ông từ xa phía dưới, nhưng ông không thể trả lời, mà chỉ bám chặt và nhắm mắt lại. Mặt trời đang chiếu sáng chói chang, và mãi một lúc lâu ông mới quen được. Khi có thể được, ông nhìn quanh mình và thấy cả một biển xanh đậm, gợn lên đây đó với những tiếng rì rầm; và có hàng trăm con bướm đang rộn ràng khắpp nơi. Tôi cho rằng họ là một loại của “hoàng đế tím,” một loại bướm thích sống trên đỉnh của rừng sồi, nhưng hoàn toàn chẳng có màu tím, chúng đen thủi đen thùi mà không có dấu hiệu nào để nhìn ngắm cả.
Ông nhìn quanh các “hoàng đế đen” một lúc lâu, và tận hưởng cái cảm giác không khí trong lành thổi quanh tóc và phả vào mặt mình; nhưng những tiếng la hét của những người lùn lại vang lên, họ đang giậm chân thình thịch vì sốt ruột ở bên dưới, nhắc ông nhớ lại việc của mình. Tình thế không tốt tí nào. Ông nhìn thật kỹ, mà không thể thấy được tận cùng của rừng cây và lá ở bất kỳ phương nào. Tim ông, vừa được soi sáng với ánh sáng của mặt trời và những làn gió mát, bây giờ lại thụt xuống tận ngón chân của ông: chẳng có thức ăn gì ở dưới để tuột xuống trở lại.
Thật ra, nhưng tôi đã nói với bạn, họ còn không cách xa lề rừng bao nhiêu; và nếu Bilbo không đủ minh mẫn để thấy nó, thì do cái cây mà ông đang leo lên, cho dù rất cao, thì nó cũng đang mọc ở gần đáy của một cái thung lũng rộng, do đó những cái cây trên đỉnh nó vòng quanh như một cái chén khổng lồ, và ông không thể thấy được cánh rừng còn lại bao xa. Do ông vẫn không thể thấy được điều này, ông leo xuống trở lại mà trĩu nặng nỗi buồn. Cuối cùng ông cũng leo xuống đáy trở lại, trầy trụa, nóng nực và tuyệt vọng, và ông không thể thấy gì trong cái khoảng tối bên dưới mà ông vừa xuống. Bản báo cáo của ông làm những người khác tuyệt vọng như ông.
“Khu rừng vươn ra tít tắp từ mọi hướng! Chúng ta sẽ làm gì bây giờ? Việc đưa một hobbit đi thì có tác dụng gì!” họ la lên, như thể đó là lỗi của ông. Họ không quan tâm chút gì đến những con bướm, và chỉ càng giận dữ hơn khi ông nói với họ về những làn gió trong lành, vì họ nặng quá, không thể leo lên và tận hưởng chúng được.
Đêm hôm ấy họ ăn đến từng mẩu vụn thức ăn cuối cùng; và đến sáng hôm sau khi họ thức dậy thì điều đầu tiên họ nhận ra là họ vẫn còn đang đói ngấu, và điều kế tiếp là trời đang mưa và nước đang nhỏ giọt tí tách khắp nơi trên nền lá. Điều này làm họ sực nhớ ra là họ cũng khát khô cả người, nhưng nó chẳng hề làm cho họ khuây khoả đi chút nào: bạn không thể dập tắt cơn khát khủng khiếp bằng cách đứng dưới những cây sồi khổng lồ mà chờ đợi cơ hội có những giọt nước rơi vào lưỡi của bạn . Điều duy nhất khiến họ phần nào cảm thấy dễ chịu lại được mang đến một cách bất ngờ từ Bombur.
Ông thình lình tỉnh dậy và và ngồi gãi đầu. Ông không thể nhận ra mình đang ở đâu, hay vì sao mà ông lại đói ngấu như thế, vì ông đã quên sạch mọi thứ xảy ra từ khi họ bắt đầu cuộc hành trình vào một buổi sáng tháng Năm xa xôi. Điều cuối cùng mà ông nhớ được là bữa tiệc ở căn nhà của ông hobbit, và họ phải vất vả lắm mới làm cho ông tin được hàng loạt những câu chuyện phiêu lưu mà họ đã trải qua từ đó đến giờ.
Khi nghe thấy rằng không còn gì để ăn, ông ngồi xuống và khóc rống lên <ặc>, vì ông cảm thấy rất yếu ớt và chân lảo đảo, “Vì sao mà tôi lại thức dậy chứ!” ông gào lên. “Tôi đã có những giấc mơ tuyệt vời biết bao. Tôi mơ thấy mình đang đi trong một khu rừng trông giống như cánh rừng này, chỉ có điều nó được chiếu sáng từ những ngọn đuốc trên cây và những ngọn đèn lắc lư trên những cành cây và những ngọn lửa được đốt lên trên nền đất; và có một bữa tiệc ê hề đang tiếp diễn vô tận. Một vị vua của khu rừng đang ngồi tại đó với một cái mũ miện làm bằng lá, và có nhiều tiếng hát vui vẻ cất lên, và tôi không thể đếm hay mô tả nỗi những thứ có thể ăn hay uống được.”
“Anh không cần thử làm thế đâu,” Thorin in nói. “Thật ra nếu ông không thể nói về những thứ gì khác, thì tốt hơn anh im giùm cho. Chúng tôi đã có khá đủ rắc rối với anh rồi. Nếu anh không tỉnh dậy, thì chắc là bọn tôi đã để cho anh ở lại với những giấc mơ ngu xuẩn của anh trong khu rừng này luôn; việc khiêng anh đi suốt hàng tuần trong điều kiện thiếu thốn thức ăn như vậy đâu phải là chuyện chơi.”
Lúc này chẳng còn gì dể mà làm ngoài việc siết lại thắt lưng quanh những cái bụng lép kẹp, rối nhấc những cái bao và túi trống rỗng lên, rồi lại lê bước theo lối mòn mà chẳng còn bất kỳ sự hy vọng mạnh mẽ nào rằng họ sẽ đến được cuối con đường trước khi họ gục ngã và chết vì đói . Họ làm điều này suốt cả ngày, tiến bước chậm chạp và yếu ớt, trong khi Bombur cứ than vãn về việc đôi chân của ông không mang nổi thân ông, và ông muốn được nằm xuống và ngủ .
“Không, không được!” Họ trả lời. “Để cho đôi chân của anh làm công việc của chúng đi, bọn tôi khiêng anh đi đủ xa rồi.”
Rồi ông ta chợt từ chối không chịu đi nữa mà nằm lăn quay ra đất. “Đi tiếp đi, nếu các anh cần phải làm như vậy,” ông nói, “tôi chỉ việc nằm đây mà ngủ, rồi mơ đến thức ăn, nếu như tôi không thể có cách nào khác để có được nó. Tôi hy vọng là tôi sẽ không bao giờ thức lại nữa.”
Ngay chính vào lúc đó Balin, đã đi lên trước một chút, gọi lớn lên: “Cái gì thế nhỉ? Tôi nghĩ là tôi vừa thấy một tia sáng lấp lánh trong rừng.”
Mọi người đều nhìn lên, và cách đó một quảng xa xa, họ thấy một tia sáng đỏ trong bóng đêm; rồi những tia sáng khác loé lên bên ngoài nó. Thậm chí cả Bombur cũng đứng dậy, rồi họ mau chóng lao đến, thậm chí không quan tâm đến việc nó có phải là quỷ khổng lồ hay yêu tinh hay không. Ánh sáng loé lên trước mặt họ và ở bên trái con đường, và khi cuối cùng họ cũng đã lên ngang với nó, thì họ thấy có vẻ như có một vùng đồng bằng với những ngọn đuốc và những ánh lửa được đốt dưới những thân cây, nhưng nơi này lại cách xa khỏi con đường của họ.
“Có vẻ như những giấc mơ của tôi đã thành sự thật rồi,” Bombur hổn hển đằng sau họ. Ông muốn lao thẳng đến phần rừng sau vùng sáng. Nhưng những người khác còn nhớ khá rõ những lời cảnh cáo của thầy phù thuỷ và của Beorn. “Một buổi tiệc thì không hay chút nào, nếu chúng ta không còn sống mà trở về sau khi dự nó,” Thorin nói.
“Nhưng không có một bữa tiệc thì chúng ta cũng không thể sống lâu hơn được bao nhiêu,” Bombur nói, và Bilbo nhiệt thành đồng ý với ông. Họ tranh cải qua lại một lúc lâu, và cuối cùng họ đồng ý là cử hai người trinh sát bò sát đến gần vùng sáng này và tìm hiểu thêm về chúng. Nhưng họ không thoả thuận được là ai sẽ được cử đi: không có ai có vẻ háo hức có được cơ hội bị lạc và không bao giờ tìm lại bạn bè được nữa. Cuối cùng, bất chấp những lời cảnh cáo, cái đói đã phân xử cho họ, bởi vì Bombur cứ liên tục mô tả những món ăn ngon lành trong bữa tiệc ở vùng cây kia, dựa trên những giấc mơ của ông ta, thế là cả bọn đều rời khỏi con đường và cùng nhau dấn bước vào rừng.
Sau khi trườn bò một lúc lâu thì họ tụ tập quanh những thân cây và nhìn vào khoảng trống, nơi có một số cây đã bị hạ xuống và đất được dọn bằng. Có nhiều người đang ngồi đó, nhìn có vẻ giống như người elf, tất cả đều mặc đồ xanh và nâu, ngồi trên những khoanh cây lớn được cưa ra thành một vòng lớn. Giữa họ là một ngọn lửa và những ngọn đuốc được buộc chặt vào những thân cây quanh đó; nhưng cái thứ đập nhất vào mắt họ vẫn là việc những người này đang ăn uống và cười nói vui vẻ. Mùi thịt nướng cuốn hút đến nỗi, không cần phải hỏi ý kiến ai, cả bọn họ đều đứng dậy và chen vào vòng người với một ý nghĩ duy nhất là xin thức ăn. Ngay khi bước chân của người đầu tiên vừa đặt vào khoảng trống thì tất cả ánh sáng đều đột ngột biến đi như có ma thuật. Có ai đó đá vào đống lửa, khiến nó văng lên thành những luồng sáng và biến mất. Họ bị lạc trong một vùng tối đen hoàn toàn chẳng có chút ánh sáng nào, và sau một lúc lâu họ không thể tìm thấy được một ai trong số bạn mình. Sau một lúc mò mẫm trong vùng tối, vấp ngã vào những khúc gỗ, va vào những thân cây, la hét và gọi cho đến khi họ làm tất cả mọi thứ trong hàng dặm quanh đó trong rừng thức cả dậy, cuối cùng họ cũng tập hợp được lại thành một nhóm và đếm chính mình bằng cách sờ soạng. Tất nhiên là đến lúc đó họ đã quên tuốt mọi phương hướng về con đường, và tất cả chẳng còn chút hy vọng nào, ít nhất là cho đến khi trời sáng.
Họ không còn gì để làm ngoài việc ngồi yên ở chỗ của mình suốt đêm; họ thậm chí không dám tìm trên đất xem có còn mẩu thức ăn nào không vì sợ sẽ lại bị chia cách ra trở lại. Nhưng họ không nằm đó lâu, và Bilbo chỉ vừa mới lơ mơ gà gật, thì Dori, người canh gác phiên đầu tiên, thì thầm thật lớn: “Ánh sáng lại hiện ra ở đằng kia, và lại càng nhiều hơn bao giờ hết.”
Họ bật cả dậy. Rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, có những luồng sáng loé lên ở cách đó không xa, rồi họ nghe thấy những tiếng động và những tiếng cười thật rõ. Họ chậm chạp trườn về phía những người kia, mỗi người sờ vào lưng của người đứng trước. Khi họ đi đến gần thì Thorin nói: “Lần này không lao thẳng vào đó nữa! Không ai làm rộn lên từ chỗ nấp của mình cho đến khi tôi ra lệnh. Tôi sẽ cử ngài Baggins đi tới đó đầu tiên để nói chuyện với họ. Họ sẽ không sợ ông ta – (“Thế nếu tôi sợ họ thì sao?” Bilbo nghĩ) – và dù sao thì tôi hy vọng họ sẽ không làm điều gì thô lỗ với ông ta.”
Khi họ đến bên lề vòng sáng họ đột ngột đẩy mạnh sau lưng Bilbo. Trước khi ông có thời gian đeo nhẫn vào, thì ông đã vấp vào một vùng đầy ánh lửa và đuốc. Điều này không hay chút nào. Tất cả những ánh sáng lại biến đi và bóng tối hoàn toàn lại phủ xuống. Nếu như lần trước họ đã rất vất vả mới có thể tập hợp lại được, thì lần này lại càng tệ hơn. Và họ không thể tìm lại được ông hobbit. Khi họ đếm lại chính mình thì chỉ dừng lại ở con số mười ba. Họ gọi và thét vang: “Bilbo Baggins! Hobbit! Lão hobbit phải gió! Hi! Hobbit, quỷ tha ma bắt anh, anh ở đâu chứ?” và gọi theo những cách khác nữa, nhưng không có sự trả lời.
Họ đã tuyệt vọng, thì Dori chợt vấp phải ông, hoàn toàn bởi may mắn. Dori ngã vào một thứ mà ông nghĩ là một khúc củi trong bóng tối, và ông phát hiện ra ông hobbit đang nằm cuộn tròn và ngủ say. Họ phải lay lắc dữ dội mới làm ông tỉnh dậy được, và khi ông tỉnh dậy thì ông hoàn toàn không hài lòng chút nào.
“Tôi đã có một giấc mơ tuyệt vời,” ông càu nhàu, “trong đó có một bữa tiệc thịnh soạn nhất.”
“Thiên địa ơi! Anh ta nói y như Bombur,” họ nói, “Đừng nói với chúng tôi về những giấc mơ nữa! Những bữa tiệc trong những giấc mơ không có gì hay cả, chúng tôi không thể chia xẻ chúng được.”
“Đó là thứ tôi thích nhất ở cái nơi khốn kiếp này,” ông lầm bầm, khi ông nằm xuống bên cạnh các người lùn và cố trở lại giấc ngủ để tìm lại giấc mơ của mình. Nhưng đó không phải là những luồng sáng cuối cùng trong rừng. Một lúc sau, khi mà đêm đã khá khuya, Kili, người đang canh gác, lại đến và lay họ dậy trở lại, khẽ nói:
“Ánh lửa lại bắt đầu sáng lên cách đây không xa – có đến hàng trăm ngọn đuốc và nhiều ngọn lửa vừa được thắp lên đột ngột, hẳn là bằng phép thuật. Tôi nghe thấy tiếng hát và tiếng đàn hạc!”
Sau khi nằm nghe một lúc, họ thấy mình không thể cưỡng lại ước muốn được tiến tới gần hơn và tìm kiếm sự giúp đỡ thêm một lần nữa. Họ lại đứng dậy, và lần này kết quả thật là thảm hại. Bữa tiệc họ thấy lúc này còn lớn hơn và thịnh soạn hơn trước đây, và ở đầu của dãy người ăn tiệc là một vị vua rừng với một cái vương miện bằng lá đặt trên mái tóc vàng, rất giống như Bombur đã mô tả trong giấc mơ của ông. Những người elves đang chuyền những cái chén trên tay nhau qua ngọn lửa, một số đang gãy đàn và nhiều người khác đang hát. Mái tóc sẫm của họ cài hoa; những viên ngọc lục và trắng sáng lên trên cổ áo và thắt lưng của họ; những khuôn mặt và bài hát của họ tràn ngập niềm vui. Những bài hát này vang lên thật lớn, thật rõ và thật say đắm, rồi Thorin bước ra tiến vào giữa họ. Sự im lặng lập tức đột ngột phủ chụp xuống ngay. Tất cả ánh sáng biến đi. Những ngọn lửa biến thành những làn khói mỏng. Tro than bắn vào mắt những người lùn, và khu rừng lại tràn ngập tiếng la hét và gào khóc của họ. Bilbo thấy mình đang chạy lòng vòng (như ông nghĩ thế) và gọi đi gọi lại. : “Dori, Nori, Ori, Oin, Gloin, Fili, Kili, Bombur, Bifur, Bofur, Dwalin, Balin, Thorin Oakenshield,” trong khi những người mà ông không thể thấy hay cảm được cũng đang làm y như thế vòng quanh cong (thỉnh thoảng lại có thêm tiếng “Bilbo!”). Nhưng tiếng gào thét của những người khác vang lên xa và nhỏ dần, và cho dù một lúc sau thì có vẻ như là họ đã chuyển đi kêu thét yêu cầu giúp đỡ ở những nơi xa hơn, tất cả những tiếng động tột ngột tắt hẳn, và ông còn lại một mình đơn độc trong một vùng hoàn toàn im lặng và tối đen.
Đó là một trong những khoảnh khắc tuyệt vọng nhất của ông. Nhưng ông nhanh chóng trấn tỉnh và nhận thấy rằng không nên cố làm một cái gì nữa cho đến khi có được một chút ánh sáng ban ngày, và việc cứ đi vòng vòng một cách vô dụng như vậy thì rất ngớ ngẩn, ông sẽ làm tự mình làm mệt chính mình trong khi chẳng hề có hy vọng gì về một bữa sáng để phục hồi. Nên ông ngồi xuống, dựa lưng vào một cái cây, và không phải là lần cuối cùng ông lại nghĩ về cái lỗ hobbit đã xa của mình với những phòng chứa thức ăn tuyệt vời của nó. Ông đang chìm sâu trong những suy nghĩ về trứng và thịt muối, bánh mì khô và bơ thì chợt cảm thấy có cái gì chạm vào mình. Có cái gì đó giống như một sợi chỉ buộc chắc vào tay trái của ông, và khi ông cố cử động thì ông thấy hai chân của mình đã bị buộc bởi những thứ như thế, nên khi ông đứng lên thì ông lại té nhào.
Rồi một con nhện khổng lồ, đang bận trói ông trong khi ông ngủ gà ngủ gật, bước ra từ phía sau ông và tiến lại ông. Ông chỉ có thể thấy mắt của con vật, nhưng ông có thể cảm thấy những cái chân lông lá của nó khi nó quấn những sợi tơ ghê tởm của nó vòng quanh ông. May mắn là ông đã tỉnh lại kịp lúc. Nếu không thì ông đã nhanh chóng không thể cử động gì được nữa. Và khi nhận ra mọi chuyện, ông đã chiến đấu một cách tuyệt vọng trước khi được tự do. Ông đánh văng con vật ra bằng tay mình – nó định tẩm độc ông để giữ cho ông yên, như những con nhện nhỏ đã làm với ruồi – cho đến khi ông nhớ ra thanh gươm của mình và rút nó ra. Rồi con nhện nhảy lên, và ông có thời gian để cắt những sợi tơ trói chân. Sau đó là đến phiên ông tấn công. Rõ ràng nhện không phải là một loài vật có những cái vòi độc ở bên hông, và nó vội vã bỏ đi. Bilbo bắt kịp nó trước khi nó biến mất và đâm thanh gươm của mình đúng ngay vào mắt nó. Thế là nó nổi điên lên, nhảy dựng lên, múa may và vung vẫy những cái chân của mình theo những bước nhảy kinh dị, cho đến khi ông giết được nó bằng một cú đâm khác; rồi ông ngồi xuống và không còn nhớ được gì nữa trong một lúc lâu.
Rồi những ánh sáng lờ mờ thường lệ của một ngày rừng bắt đầu chiếu quanh ông khi ông bắt đầu trấn tỉnh lại. Con nhện chết nằm ngay cạnh ông, và thanh gươm của ông đã đốm đen. Việc giết được một con nhện khổng lồ, hoàn toàn bằng chính bản thân mình trong bóng tối mà không có sự giúp đỡ của thầy phù thuỷ hay các người lùn hay bất kỳ ai khác, đã làm cho ngài Baggins cảm thấy hoàn toàn khác hẳn. Ông cảm thấy mình đã trở thành một người khác, trở nên dữ dội và cứng rắn hơn cho dù cái dạ dày vẫn lép kẹp, khi ông chùi thanh gươm của mình lên cỏ và nhét nó vào vỏ trở lại.
“Ta sẽ đặt cho mi cái tên,” ông nói với thanh gươm, “và ta sẽ gọi mi là Chích.”
Và ông bắt đầu tìm hiểu chung quanh. Khu rừng mờ xám và lặng lẽ, nhưng rõ ràng là đầu tiên ông phải tìm các bạn mình, những người hẳn là không ở xa đây lắm, trừ phi họ đã bị những người elves (hoặc những thứ khác tệ hơn) bắt làm tù binh.
Bilbo cảm thấy việc gọi to lên là không an toàn lắm, và ông đứng đó một lúc lâu, tự hỏi mình con đường nằm ở hướng nào, ông nên đi vào hướng nào trước để tìm các người lùn. “O! vì sao mà chúng ta không nhớ đến những lời khuyên của Beorn, và Gandalf!” ông than van. “Bây giờ thì chúng ta hoàn toàn lạc lối rồi! Chúng ta! Tôi chỉ ước gì đó là chúng ta: nếu phải cô độc thì khiếp quá.”
Cuối cùng ông đoán là ông có thể đi về hướng mà những tiếng la hét cầu cứu đã vang đến trong đêm – và nếu may mắn (ông đã luôn gặp may từ lúc sinh ra) có thể đoán được hướng đúng không ít thì nhiều, như các bạn sẽ thấy. Khi đã trấn tỉnh, ông rón rén đi càng khôn khéo càng tốt. Người hobbit vốn rất khôn khéo trong im lặng, đặc biệt là khi ở trong rừng, như tôi đã nói với các bạn; và Bilbo cũng đã đeo chiếc nhẫn vào trước khi ông bắt đầu đi. Đó là lý do mà bọn nhện không thể thấy hay nghe được tiếng ông đi đến.
Ông bí mật đi như thế một lúc xa, rồi ông nhận thấy một vùng đen lớn phía trước hơn, chúng tối đen thậm chí so với khu rừng này, giống như một vết của đêm đen chưa hề được rửa đi. Khi ông đến gần hơn, ông thấy rằng cái vệt đen đó được tạo ra bởi những cái lưới nhện, cái này nằm sau và quấn rối vào cái kia. Thình lình ông cũng chợt thấy những con nhện khổng lồ và kinh dị đang bám trên những cành cây phía trên ông, và dù có nhẫn hay không ông cũng run lên vì sợ chúng có thể phát hiện ra ông. Ông đứng sau một cái cây và quan sát đám nhện một lúc, và rồi trong sự lặng lẽ và âm thầm của rừng thẳm, ông nhận ra những con vật đáng ghê tởm này đang nói chuyện với nhau. Giọng của chúng cọt kẹt và xì xào, nhưng ông có thể nghe thấy nhiều từ mà chúng nói ra. Chúng đang nói về những người lùn!
“Cũng trầy vi tróc vẩy đấy, nhưng nó đáng giá,” một con nói, “Bọn chúng hẳn là có một mớ da dày, và tao đánh cuộc là bên trong đó có một thứ nước ép tuyệt hảo.”
“Đúng vật, cứ treo chúng như vậy một lúc thì ăn chúng sẽ rất ngon,” một con khác nói.
“Đừng có treo tụi nó lâu quá,” con thứ ba nói, “Chúng không quá béo như ta tưởng đâu. Tao đoán là gần đây tụi nó không ăn gì.”
“Giết chúng đi, tao cho là thế,” con thứ tư nói “Giết phắt chúng đi và treo đầu chúng lên một thời gian.”
“Bây giờ tụi nó đã chết ngắc rồi, tao đảm bảo thế,” con đầu nói.
“Không đâu. Tao vừa mới thấy một thằng cử động. Nó vừa cử động lại, tao nghĩ rằng, sau một giấc ngủ ngon. Tao sẽ chỉ cho bọn mày thấy.”
Một con nhện béo vừa nói những lời này bò dọc theo một sợi dây thừng, cho đến khi nó đến được một tá những cái bọc được treo thành dãy trên một cành cây cao. Bilbo kinh hãi, bây giờ thì ông đã nhận ra họ đang bị treo trong bóng tối, và ông thấy một cái chân của người lùn đang thò ra từ dưới những cái bọc, hoặc là những đầu mũi, hoặc một chòm râu hay một cái mũ thò ra.
Con nhện bò đến cái bó lớn nhất – “Đó chính là ông Bombur già tội nghiệp, tôi cá là thế,” Bilbo nghĩ – và cắn mạnh vào cái mũi đang thò ra. Có một tiếng kêu nghèn nghẹt vẳng lên từ bên trong, rồi một mũi giày cất lên đá thật mạnh và chính xác vào con nhện. Bombur vẫn còn sống. Có một tiếng động giống như tiếng một quả banh mềm èo bị đá, và con nhện té luôn khỏi cành, giận điên lên, và nó chỉ kịp bám lại vào chính sợi tơ của mình.
Những con khác cười phá lên. “Mày nói đúng,” chúng nói, “món ăn đó còn sống và biết đá!”
“Tao sẽ nhanh chóng kết liễu nó,” con nhện rít lên giận dữ và leo ngược lên cành.
Bilbo cảm thấy đã đến lúc mình phải làm cái gì đó. ông không thể leo được lên chỗ bầy thú vật này và ông không có gì để bắn cả; nhưng khi nhìn quanh thì ông nhìn thấy ở đây có nhiều hòn đá đang nằm ở một chỗ giống như một hòn suối cạn khô nước. Bilbo có thể ném đá khá tốt, và ông không mất nhiều thời gian để tìm một hòn đá có dạng một quả trứng trơn láng vừa tầm tay của mình. Khi còn bé ông đã từng tập ném đá vào các con vật, cho đến khi thỏ và sóc, và thậm chí cả chim chóc biến ngay như tia chớp khi chúng thấy ông cong người xuống, và thậm chí khi đã lớn ông cũng vẫn dùng nhiều thời gian để tập ném vòng, phóng phi tiêu, ném về những cái cái gây, chén, ném ky và những trò chơi lặng lẽ khác thuộc dạng nhắm và ném – thật sự ông có thể làm được nhiều chuyện, ngoài việc thả ra những vòng khói, đố các câu đố và nấu ăn, và tôi không có thời gian để kể cho các bạn nghe về những chuyện này. Lúc này cũng không có thời gian. Trong khi ông nhặt đá, con nhện đã lướt đến chỗ Bombur, và ông sắp chết tới nơi. Ngay khi đó Bilbo ném. Tảng đá giáng trúng đầu con nhện, và nó rơi ra khỏi cây mà không còn cảm giác gì, rơi bịch xuống đất, tất cả chân cong cả lại.
Hòn đá tiếp theo bắn vèo qua cái mạng lưới lớn, cắt đứt những đường tơ của nó, và hạ luôn con nhện đang nằm giữa đám lưới này rơi mạnh xuống, chết tươi. Sau đó thì đám nhện rung lên dữ dội, và chúng quên khuấy đi những người lùn, tôi có thể nói như vậy. Chúng không thể thấy Bilbo, nhưng chúng có thể đoán được những hòn đá được ném đến từ hướng nào. Chúng chạy đến nhanh như chớp và lao về hướng, phóng những sợi tơ dài ra khắp mọi hướng, cho đến khi không trung tuồng như đầy những cái bẫy nhện vung vẫy. Tuy nhiên, Bilbo đã nhanh chóng lẩn sang một nơi khác. Ý tưởng của ông là dẫn dắt bầy nhện giận dữ đi xa khỏi những người lùn, nếu như ông có thể làm được; khiến cho chúng cùng lúc cảm thấy tò mò, khích động và giận dữ. Khi mà khoảng năm mươi con nhện đã lao đến chỗ mà ông đứng trước đây, ông lại ném vài hòn đá vào chúng, và ném vào những con khác dừng lại đằng sau; rồi ông nhảy múa giữa những cái cây và bắt đầu hát một bài hát để làm chúng tức điên lên và để dẫn chúng đuổi theo ông, và cũng để cho các người lùn nghe thấy tiếng ông.
Đây là bài hát mà ông hát.
Con nhện béo già quay tròn trên câyCon nhện béo già chẳng hề thấy aiAttercop! Attercop!Mi cứ quay mòng mòngQuay mòng mòng mà dõi tìm ta điTomnoddy già, to lớn ngu siTomnoddy già chẳng thể thấy chi!Attercop! Attercop!Rớt xuống đâyMi chẳng thể bắt được ta trên cây
Có thể là bài hát này không được hay lắm, nhưng bạn phải nhớ là ông đã tự mình sáng tác ra nó, trong một thời điểm rất ngặt ngèo. Và dù sao thì nó cũng đã làm được điều mà ông muốn. Khi hát ông cũng đồng thời ném vài hòn đá và dậm chân thình thịch. Dĩ nhiên là lũ nhện ở trong vùng lập tức đuổi theo ông: một số thì buông mình xuống đất, một số thì bò theo những cành cây, số khác thì phóng từ cây này sang cây kia. Chúng lần theo tiếng động của ông nhanh hơn ông tưởng nhiều. Chúng đã giận điên lên. Ngoài việc bị ném đá thì chẳng có con nhện nào thích được gọi là Attercop cả, và việc gọi là Tomnoddy hẳn nhiên là một sự xỉ nhục với bất kỳ ai.
Bilbo vội vã đi ra một vùng đất mới, nhưng lúc này thì nhiều con nhện đã chạy ra những nơi khác với những trảng đất quen thuộc mà chúng sinh sống, và chúng đang bận giăng lưới quanh những vùng đất giữa các thân cây. Ông hobbit nhanh chóng nhanh chóng bị vây giữa một hàng rào của các mạng lưới chung quanh mình – ít nhất thì bọn nhện cũng nghĩ thế. Lúc này, đứng giữ vòng vây săn đuổi của bọn côn trùng, Bilbo thu hết can đảm và bắt đầu hát một bài hát mới:
Lob chây lười và Cob khùng điênĐang giăng lưới chung quanh taTa là một món mồi ngọt ngào hơn hếtNhưng chúng vẫn không thể tìm thấy ta!Ta đây, một con ruồi bé bướng bỉnhBọn bây thì béo ú và lười chảy thâyBọn bây không thể bẫy được ta dù đã cố hết sức mìnhBằng những cái lưới điên khùng của bọn bây.
Vừa hát như thế ông vừa quay đi và thấy rằng khoảng trống cuối cùng giữa hai cái cây cao đang bị đóng lại bởi một cái lưới nhện – nhưng may thay không phải là một cái lưới nhện hoàn chỉnh, mà chỉ là những sợi tơ nhện lớn đang hối hả quấn quanh từ thân cây này sang cây kia. Ông rút thanh gươm nhỏ của mình ra. Ông chém những sợi tơ và ngừng hát. Bọn nhện nhìn thấy thanh gươm, cho dù tôi không cho rằng chúng biết đó là cái gì, và ngay lập tức cả đám chúng đều hùng hục đuổi theo ông hobbit dọc trên nền đất và các cành cây, những cái chân lông lá vung vẩy, răng và các cơ quan nhả tơ kèn kẹt, sùi ra đầy bọt mép giận dữ. Chúng đuổi theo ông vào trong rừng cho đến khi đã chạy xa hết mức mà ông dám.
Rồi ông lẻn trở lại nhẹ nhàng như một con chuột. Ông chỉ có rất ít thời gian, ông biết vậy, trước khi bọn nhện phát điên lên và quay về với những cái cây mà những người lùn đang bị treo. Ông phải cứu họ trước lúc đó. Phần tồi tệ nhất của công việc là leo lên cái cành cây dài nơi treo những cái bọc. Tôi không nghĩ là ông có thể làm được việc này, nếu như không có sự may mắn là bọn nhện đã vô tình thả xuống một sợi tơ; với sự giúp đỡ của sợi tơ này, cho dù nó mắc dính vào ông và làm ông đau, ông đã leo lên được, chỉ để bắt gặp một con nhện già lão xảo nguyệt béo ú đã ở lại để canh chừng các tù nhân, và nó đang bận cắn họ để xem bên ai có thứ nước ép tốt nhất. Nó vừa nghĩ đến việc bắt đầu bữa tiệc trong khi những con khác đang ở xa, nhưng ngài Baggins đã quá nhanh, và trước khi con nhện biết được chuyện gì xảy ra thì đã được nếm cái chích của ông và té lăn ra khỏi cành chết tươi. Công việc tiếp theo của Bilbo là thả những người lùn xuống. Ông làm điều đó bằng cách nào? Nếu ông cắt sợi tơ đang treo họ, thì những người lùn bất hạnh sẽ rơi bịch xuống nền đất bên dưới. Ông bò dọc theo cành cây (làm cho những người lùn khốn khổ lúc la lúc lắc như những trái cây chín rục) đến cái bọc đầu tiên. “Fili hay Kili ta,” ông nghĩ vậy vì thấy đỉnh của cái mũ trùm xanh nhô ra khỏi đỉnh bọc. “Chắc là Fili,” ông nghĩ vậy nhờ thấy cái đầu mũi dài đang nhô ra khỏi những sợi tơ uốn lượn. Ông cố trườn xuống để cắt phần lớn những sợi tơ đang quấn chặt quanh người lùn, và y như rằng, với một cái đá và ông Fili hung hăng trồi ra. Tôi e là Bilbo đã thật sự cười phá lên khi thấy ông vung vẩy những cái tay chân cứng đơ của mình như thể ông đang khiêu vũ trên đám tơ nhện giữa nách ông, như một món đồ chơi tức cười được điều khiển bằng dây (giống Bye Bye Bye của N’Sync ).
Fili cuối cùng cũng xoay xở để leo thoát khỏi cành cây, và ông cố hết sức để giúp ông hobbit, mắc dù ông cảm thấy rất mệt và yếu bởi nọc độc của bọn nhện, và còn bị treo suốt đêm và ngày tiếp theo mà chỉ thò được cái mũi ra để thở. Ông phải mất mộc lúc lâu để lấy những thứ lầy nhầy ra khỏi mắt và lông mày, còn với râu của mình thì ông cắt béng nó đi . Và họ bắt đầu cùng nhau kéo từng người lùn lên và cắt đứt những sợi tơ để trả tự do cho họ. Không có ai trong số họ khá hơn Fili, và một số còn tệ hơn , và một số còn bị trúng độc nặng hơn.
Bằng cách đó họ cứu Kili, Bifur, Bofur, Don và Nori. Bombur già cả tội nghiệp thì quá kiệt sức – ông là người béo nhất và thường xuyên bị cắn và chích đến nỗi ông lăn ra khỏi cành và té bịch xuống đất, may mắn là rơi trúng đám lá, và ông nằm vật ra đấy. Nhưng vẫn còn năm người lùn khác vẫn còn bị treo ở cuối cành thì bọn nhện đã bắt đầu quay lại, tràn ngập giận dữ hơn bao giờ hết. Bilbo ngay lập tức chạy đến cuối cái cành cây gần nhất trên thân cây để làm cho cho chúng quay lại. Ông đã tháo cái nhẫn của mình ra khi ông cứu Fili và quên mất việc đeo nó trở lại, nên bây giờ cả bọn chúng đều thổi phì phì và rít lên:
“Bây giờ thì bọn tao đã thấy mày, cái con vật nhỏ bé dơ dáy kia! Chúng tao sẽ ăn thịt mày và treo xương với da của mày lên cây. Ục! Nó có vòi à? À, thì cũng vậy thôi, bọn mình sẽ tóm lấy nó, và sẽ treo đầu nó lên một vài ngày.”
Trong lúc đó, những người lùn khác cứu những người bị bắt còn lại, cắt những sợi tơ bằng dao của họ. Tất cả nhanh chóng được giải thoát, cho dù mọi chuyện diễn ra tiếp theo vẫn chưa rõ ràng. Trong đêm trước bọn nhện đã bắt được họ khá dễ dàng, nhưng họ không nhận thức được mọi chuyện trong bóng đêm. Lần này hẳn sẽ có một trận chiến kinh hồn.
Thình lình Bilbo nhận thấy rằng có một số con nhện đang bò đến quanh ông Bombur già trên nền đất, đã trói ông trở lại và lôi ông đi. Ông la lên và chém vào bọn nhện trước mặt mình. Chúng vội tản ra, ông vượt lên và té xuống khỏi cây rơi vào giữa một đám nhện khác trên nền đất. Thanh gươm nhỏ của ông là một loài vòi rất mới mẻ đối với chúng. Nó lướt tới và thu về thật kỳ lạ! Nó sáng lên vì vui mừng khi ông băm bọn chúng. Nửa tá nhện bị giết chết tươi trong khi bọn còn lại lùi lại, để Bombur lại cho Bilbo.
“Xuống đây! Xuống đây!” ông la lên với những người lùn trên cành cây. “Đừng đứng đó và để bị sa lưới!” Ông kêu lên thế vì ông nhìn thấy những con nhện đang di chuyển lên những cây chung quanh và bò dọc theo những cành cây trên đầu những người lùn.
Những người lùn bò hoặc nhảy hoặc rơi xuống, mười một người rơi thành một đống, phần lớn bọn họ còn rất yếu và vẫn còn rất khó khăn khi dùng đến chân cuối mình. Cuối cùng thì họ cũng đã xuống đấy, mười hai người kể cả ông Bombur già cả tội nghiệp, người đang được người anh em họ Bifur đỡ lên từ một bên với người anh em Bofur của ông ta; còn Bilbo thì lại lượn quanh và vung vẫy cây Chích; và hàng trăm con nhện giận dữ quan sát chung quanh và phía trên họ. Có vẻ như không còn hy vọng gì nữa.
Rồi trận chiến bắt đầu . Một số người lùn có dao, một số khác có gậy, và tất cả đều có thể nhặt đá; còn Bilbo có con dao găm của người elves của mình. Hết con nhện này đến con nhện khác bị đánh gục, và nhiều con bị giết. Nhưng không thể tiếp tục như vậy mãi được. Bilbo đã gần như mệt lả; chỉ còn bốn người lùn là có thể đứng vững, nhưng họ sẽ sớm bị chế ngự như những con ruồi yếu ớt, Bọn nhện đã bắt đầu giăng lưới quanh họ từ cây này sang cây kia. Cuối cùng thì Bilbo không thể nghĩ ra một kế hoạch nào ngoài việc để cho những người lùn biết bí mật và chiếc nhẫn của ông. Ông không muốn làm việc này chút nào, nhưng không còn cách nào khác hơn.
“Tôi sẽ biến mất,” ông nói. “tôi sẽ dẫn dụ bọn nhện đi, nếu như tôi có thể, còn các ông phải luôn sát cánh bên nhau và tiến về hướng đối diện. Hình như rẽ trái từ đây sẽ là con đường dẫn về nơi mà chúng ta đã thấy những ngọn lửa của người elves lần cuối.”
Khó mà làm cho họ hiểu được, khi mà đầu họ đã kêu ong ong, giữa những tiếng la hét, những tiếng gậy vung và đá ném, nhưng cuối cùng thì Bilbo cảm thấy ông không thể trì hoãn hơn nữa – bọn nhện đang thu hẹp dần những vòng lưới. Ông đột ngột đeo nhẫn vào, và trước sự ngạc nhiên tột độ của những người lùn, ông biến mất.
Rồi những tiếng “Lob chây lười,” và “Attercop” vang lên dọc theo những thân cây bên phải. Điều này làm bọn nhện nổi điên lên. Chúng không tiến lên nữa và bắt đầu chuyển về hướng có tiếng động. Chữ “Attercop” làm chúng giận đến mất khôn. Rồi Balin, người nắm được kế hoạch của Bilbo tốt hơn những người còn lại, dẫn đầu một cuộc tấn công. Những người lùn lộn xộn tiến lên cùng nhau thành một khối, và ném đá tưới hột sen để đẩy dạt bọn nhện về phía bên trái, và băng qua vòng vây. Đằng sau họ lúc này những tiếng la hét và ca hát chợt biến mất.
Hy vọng trong tuyệt vọng rằng Bilbo không bị bắt, những người lùn tiếp tục dấn bước. Dù vậy họ vẫn đi không đủ nhanh. Họ đã quá mệt và yếu, và họ và không thể làm gì hơn là tập tà tập tễnh đi, cho dù đã có nhiều con nhện đã ở sát ngay phía sau. Cứ chốc chốc họ lại phải quay lại và chiến đấu với những con vật đang tấn công họ và một số con nhện đã ở ngay những ngọn cây phía trên họ và thả xuống những sợi tơ dài.
Mọi việc có vẻ như trở lại tồi tệ, thì Bilbo lại thình lình hiện ra và đột ngột đâm bổ vào đám nhện đang ngạc nhiên từ bên hông chúng.
“Đi tiếp nào! Đi tiếp nào!” ông la lên, “tôi sẽ tiếp tục chích chúng!” Và ông làm như thế. Ông lượn tới lui, chém phăng những sợi tơ nhện, chém vào chân chúng, đâm thọc vào những tấm thân béo mầm của chúng khi chúng tiến gần. Bọn nhện điên lên trong giận dữ, chúng lại thổi phì phì và sùi bọt, rít lên những câu nguyền rủa khủng khiếp; nhưng chúng đã bắt đầu khiếp sợ cây Chích, và không dám tiến lại gần khi mà nó lại xuất hiện trở lại. Đầy kinh hãi, những con mồi của chúng dần đần rời đi chậm chạp nhưng đầy chắc chắn. Đó là một công việc khủng khiếp nhất, và nó có vẻ như diễn ra hàng giờ liền. Nhưng cuối cùng thì, vào lúc mà Bilbo cảm thấy không nhấc nổi tay mình để đâm thêm một cú nào nữa, thì bầy nhện lại đột ngột bỏ cuộc, và không đuổi theo họ nữa, mà lui lại và biến mất vào vùng lãnh thổ đen tối của chúng.
Những người lùn nhận ra rằng họ đã đi đến bên lề của một vùng đất mà những ngọn lửa của người elves được đốt lên. Đó có phải là một trong những vùng đất mà họ đã thấy hôm qua không, họ không thể nói được. Nhưng có vẻ như là bọn nhện không thích những nơi có những dấu vết của pháp thuật như nơi này. Dù sao thì ở nơi này ánh sáng xanh nơi, những cành cây thì không đến nỗi quá dày và đầy vẻ đe doạ.
Họ nằm nghỉ ở đó một lúc, thở hổn hà hổn hển, nhưng rồi họ lại nhanh chóng đặt ra những câu hỏi. Họ phải được giải thích rõ ràng về sự biến mất và việc tìm thấy cái nhẫn làm họ thích thú đến mức họ quên đi những rắc rối của mình trong một thoáng. Balin đặc biệt cứ đòi kể đi kể lại câu chuyện về Gollum, về các câu đố, với cái nhẫn ở nơi thích hợp của nó. Nhưng sau một lúc thì ánh sáng bắt đầu tắt đi, và những câu hỏi khác được đặt ra. Họ đang ở đâu, và đâu là con đường của họ, ở đâu có được chút nào thức ăn, và tiếp theo họ sẽ đi đâu? Những câu hỏi này được lặp đi lặp lại và họ có vẻ như đang chờ đợi có được những câu trả lời từ Bilbo. Việc này cho thấy họ đã thay đổi quan điểm về ngài Baggins rất nhiều, và bắt đầu đặc biệt kính nể ông (như Gandalf đã nói là họ nên làm thế). Thật ra họ rất mong đợi ông nghĩ ra được những kế hoạch tuyệt hảo để giúp họ, chứ không chỉ đơn giản là ậm ừ thế kia. Họ chỉ biết là họ đã sớm chết, nếu như không có ông hobbit; và họ cám ơn ông rất nhiều lần. Một số người trong bọn thậm chí còn đứng dậy và cúi chào ông sát đất, cho dù họ đã ngã bổ chửng vì cố làm điều này, và không thể dùng đến đôi chân trở lại suốt một lúc. Việc biết rõ sự thật về việc biến mất cũng không hề làm giảm đi quan điểm của họ về Bilbo; vì họ nhận ra ông rất khôn ngoan, cũng như rất may mắn và ông có một cái nhẫn ma thuật – và ba thứ này thì vô cùng hữu dụng. Thật sự họ đã đề cao ông đến mức mà Bilbo bắt đầu cảm thấy trong mình thật sự có tầm vóc của một người phiêu lưu gan dạ, cho dù ông cảm thấy mình sẽ còn gan dạ hơn nhiều, nếu như họ có cái gì để ăn ở đây.
Nhưng ở đây chẳng có gì, hoàn toàn chẳng có gì; và chẳng còn ai trong số họ đủ sức để đi và tìm xem có gì ăn không, hay để tìm kiếm con đường mà họ đã đi lạc. Bị lạc đường! Không còn ý nghĩ nào khác trong cái đầu mệt mỏi của Bilbo. Ông chỉ ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào hàng cây vô tận trước mặt; và sau một lúc thì tất cả họ đều im lặng trở lại. Tất cả ngoại trừ Balin. Một lúc lâu sau khi tất cả những người khác đã ngừng nói và nhắm mắt lại, ông vẫn cứ lầm bầm và cười rúc rích với chính mình.
“Gollum! Tôi được ban phúc rồi! Thế đó là cách hắn lẻn qua tôi ấy à? Bây giờ thì tôi đã biết rồi! Chỉ việc bò thật yên lặng, phải thế không thưa ngài Baggins? Tất cả mọi nút áo văng trên ngưỡng cửa? Thật tuyệt vời thay ông già Bilbo – Bilbo-bo-bo-bo-” Và rồi ông ngủ thiếp đi, và một sự im lặng tuyệt đối tồn tại suốt một lúc lâu.
Rồi thình lình Dwalin mở bừng mắt, và nhìn quanh. “Thorin đâu rồi?” ông hỏi. Đó là một cú sốc khủng khiếp. Tất nhiên là lúc này họ chỉ có mười ba người, gồm mười hai người lùn và một ông hobbit. Thorin thực sự đang ở đây? Họ đồ rằng ông đã gặp phải một số phận bi thảm, bởi phép thuật hay bởi những con quái vật hắc ám; và rùng mình khi họ đang nằm lạc trong rừng. Rồi từng người trong số họ thiếp vào một giấc ngủ chậm chờn đầy những mộng mị kinh dị, khi mà buổi chiều chuyển thành màn đêm đen ngòm; và chúng ta phải để họ nằm lại đó vào lúc này, quá mệt mỏi và yếu ớt nên không thể sắp đặt những phiên canh gác được. Thorin bị bắt nhanh hơn họ nghĩ nhiều. Bạn còn nhớ đến việc Bilbo ngã lăn ra ngủ như một khúc gỗ, khi ông bước vào vòng sáng? Tiếp theo là đến lượt Thorin bước vào, và khi ánh sáng tắt đi thì ông cảm thấy như mình như bị hoá đá. Tất cả những tiếng động của những người lùn mất đi trong đêm, họ kêu thét khi bị những con nhện bắt trói, và tất cả những âm thanh của trận chiến đấu vào ngày tiếp theo, đã trôi qua tai ông mà ông chẳng nghe thấy gì. Rồi những người elves Rừng đã đến chỗ ông, trói ông lại và khiêng ông đi. Những người ăn tiệc là những người elves Rừng, tất nhiên thế. Cho dù phép thuật của họ rất mạnh, thì thậm chí trong những ngày đó họ đã rất cảnh giác. Họ khác với những người Elves cao ở phía Tây, nguy hiểm hơn và không khôn ngoan bằng. Phần lớn bọn họ (cùng với những chủng tộc của họ sống rải rác ở các đồi núi) đều là hậu duệ của những tộc người cổ chưa bao giờ đến được Thiên Thai ở phía Tây. Những người elf Ánh Sáng, những người elf Sâu Thẳm và những người elf Biển Cả đã đến đó và sống rất lâu, họ trở nên công bình hơn, thông minh hưon và học được nhiều hơn, họ đã phát minh ra phép thuật và những ngành nghề khéo tay, đã tạo nên những thứ đẹp và kỳ diệu, trước khi một số người trở lại với Thế Giới Rộng Lớn. Những người elves Rừng nán lại ở Thế Giới Rộng Lớn trong sự chạng vạng của Mặt Trời và Mặt Trăng của chúng ta, nhưng họ yêu nhất là những vì sao; và họ đã lang thang trong những khu rừng bao la đang phát triển rộng khắp ở những vùng đất mà ngày nay đã chìm vào quên lãng. Họ thường sống bên bìa rừng, thỉnh thoảng họ lại rời khỏi đó đển đi săn bắn, hoặc để dời đi và chuyển theo những vùng đất rộng mởi bởi ánh trăng sao; và sau khi Con Người đến họ lại đi sâu vào những nơi tối tăm. Một số elves vẫn ở lại, và họ là những Con Người Tốt.
Vào lúc này vị vua vĩ đại nhất của họ sống trong một cái hang động khổng lồ sâu hàng dặm trong biên giới của Mirkwood trên sườn đông. Trước cánh cửa khổng lồ bằng đá của ông là một con sông chạy ra khỏi tầm cao của những khu rừng và đổ xuống vào những đầm lấy nằm dưới chân những vùng đấy cao đầy cây phủ. Cái hang động khổng lồ này, có vô số những lối đi dẫn vào những động khác nhỏ hơn từ khắp mọi hướng, lượn ngầm đi rất xa và có nhiều lối đi và những căn phòng lớn, nhưng nó sáng sủa và trong lanh hơn bất kỳ những nơi ở nào của bọn yêu tinh, và chẳng có cái nào quá sâu hay quá nguy hiểm. Thật ra thì vị vua này thường xuyên sống và săn bắn trong những khu rừng trải rộng, và ông có những ngôi nhà hoặc những căn lều trên mặt đất và trên các nhánh cây. Những cây sồi là thứ cây mà họ ưa thích nhất. Cái động của nhà vua là lâu đài của ông, và nơi ông cất giữ châu báu, và là pháo đài để người của ông chống lại kẻ thù.
Và đó cũng là nơi ông giam giữ tù nhân. Thế là họ lôi Thorin xềnh xệch vào động, vì họ chẳng ưa gì những người lùn, cho dù ông không phải là kẻ thù của họ. Trong những ngày cổ xưa họ đã có một số cuộc chiến với những người lùn, và họ cho rằng những người lùn đến đây để ăn trộm châu báu của họ. Công bằng mà nói thì những người lùn không phải đã làm những việc như vậy, và họ chỉ lấy những gì đáng là của họ, vì vua elf đã ngã giá với họ để họ chế tạo đồ vật từ những khối vàng và bạc thô của ông, rồi sau đó từ chối không trả công cho họ. Nếu như vua elf có một điểm yếu, thì đó chính là châu báu của ông ta, đặc biệt là bạc và những gì phát ra ánh sáng trắng và cho dù kho tích trữ của ông rất ê hề, ông vẫn còn thèm khát có được thêm, vì ông vẫn chưa có được một kho báu vĩ đại như những lãnh chúa elf cổ xưa. Người của ông không khai thác hay chế tạo kim loại hoặc châu báy, vì họ mãi buôn bán hay cày bừa trên mặt đất. Và mọi người lùn đều biết rõ điều đó, cho dù gia đình Thorin không dính dáng gì đến cuộc tranh cãi xưa mà tôi vừa mới kể. Tiếp theo là Thorin rất tức giận với cách họ đối xử với ông, và khi họ giải lời nguyền cho ông và ông lấy lại thần trí, thì ông xác quyết là sẽ không buông ra một lời nào về bạc hay châu báu.
Vị vua nhìn Thorin một cách cứng rắn, khi người lùn được lôi đến trước mặt ông ta, và ông hỏi nhiều câu hỏi. Nhưng Thorin chỉ nói là ông đang đói.
“Vì sao mà ngươi và người của ngươi tấn công thần dân của ta ba lần liền khi họ đang dự cuộc vui?” vị vua hỏi.
“Chúng tôi không tấn công họ,” Thorin nói, “chúng tôi đến để xin ăn, vì chúng tôi đang đói.”
“Lúc này các bạn của ngươi đâu, và họ đang làm gì?”
“Tôi không biết, nhưng tôi nghĩ rằng họ đang đói lả trong rừng.”
“Các ngươi làm gì trong rừng?”
“Tìm đồ ăn thức uống, vì chúng tôi đang đói.”
“Nhưng cái gì đã khiến các ngươi vào rừng chứ?” vị vua giận dữ hỏi.
Đến lúc này thì Thorin im miệng và không nói gì nữa.
“Được lắm!” vị vua nói. “Mang hắn đi và giữ hắn an toàn, cho đến khi hắn cảm thấy sẵn lòng nói sự thật, thậm chí nếu hắn phải đợi một trăm năm nữa,”
Thế là những người elves tròng dây da lên ông, và tống ông trong một những cái động sau nhất, với những cánh cửa gỗ, và để ông ở đấy. Họ cho ông rất nhiều thức ăn, rất nhiều, nếu không muốn nói là quá tử tế; bởi vì những người elves Rừng không phải là yêu tinh, và họ vẫn đối xử tử tế khi cần với những kẻ thù tồi tệ nhất của mình mà họ bắt được. Những con nhện khổng lồ là những vật sống duy nhất mà họ chẳng hề có chút nhân từ nào.
Thorin tội nghiệp nằm trong nhà ngục của vị vua; và sau một lúc thì ông quên phắt đi lòng biết ơn về bánh mì, thịt và nước, ông bắt đầu tự hỏi điều gì đã xảy với những người bạn bất hạnh của ông. Ông sẽ nhanh chóng khám phá ra, nhưng điều đó xảy ra ở chương tiếp theo, và một cuộc phiêu lưu khác sẽ bắt đầu mà ông hobbit lại một lần nữa chứng tỏ sự hữu dụng của mình.