Có một hobbit sống trong một cái hố trên mặt đất. Đấy không phải là một cái hố bẩn thỉu, dơ dáy, đẫy rẫy những loài sâu bọ bốc đầy mùi bùn đất, hay là một hố cát khô hạn, cằn cỗi, chẳng có gì để ngồi hoặc để ăn; đó là một cái hố hobbit, và điều đó có nghĩa là cái hố này đầy đủ tiện nghi.
Nó có một cái cửa tròn trông giống như một lỗ đặt nòng đại bác trên các chiến hạm, sơn màu xanh lá cây, với một cái tay nắm màu vàng sáng loáng bằng đồng thau đặt vào ngay giữa. Cánh cửa này dẩn đến một tiền sảnh có hình ống trông giống như một đường hầm: một đường hầm rất tiện lợi, chẳng có khói, với những bức tường trang trí pa-nô, và nền nhà được lát đá và trải thảm, đặt những chiếc ghế sáng bóng, rồi thì hằng hà sa số những chiếc móc đầy nón và áo khoác – hobbit rất thích có khách. Đường hầm này lượn vòng vòng, dễ đi nhưng chẳng thẳng lối lắm đến phía bên kia của ngọn đồi. – Ngọn Đồi – như tất cả mọi người dân sống nhiều dặm chung quanh đó gọi, và còn nhiều cánh cửa trọn nhỏ trổ ra khỏi nó, bắt đầu từ một phía và dẩn ra một phía khác. Với hobbit thì không có chuyện phải leo cầu thang: phòng ngủ, phòng tắm, hầm rượu, phòng thức ăn (ồ, nhiều lắm), tủ quần áo (nó dành cả một phòng cho vấn đề trang phục), nhà bếp, những phòng ăn, tất cả đều ở cùng một tầng, và thật sự đều nằm trên một lối đi. Căn phòng tốt nhất nằm ở phía bên trái (nếu đi vào), vì chỉ những căn phòng này mới có cửa sổ, những cánh cửa sổ vững chãi trông ra khu vườn và những đồng có bên dưới, đổ tràn ra sông.
Hobbit này là một hobbit rất là khá giả, và tên của ông là Baggins. Gia đình Baggins đã từng sống quanh Ngọn Đồi từ lâu lắm rồi, và mọi người rất kính trọng họ, không chỉ vì họ giàu, mà còn bởi vì họ không bao giờ phiêu lưu hay làm bất kỳ điều gì không được chờ đợi: bạn có thể nói tiếp bất kỳ những câu hỏi nào một Baggins đang nói mà chẳng cần phải hỏi lại nó. Đây là câu chuyện về một Baggins đã phiêu lưu như thế nào, đã tự mình làm và nói những việc nhìn chung là không được mong đợi. Ông có thể đã làm mất đi sự kính trọng của láng giềng, nhưng những gì nó thu về được cũng khá đáng kể, và bạn sẽ xem cuối cùng ông sẽ có được những gì.
Mẹ của hobbit đặc biệt của chúng ta…. hobbit là gì nhỉ. Tôi cho rằng vào thời đại này cần phải có một số mô tả về hobbit, do họ đã trở nên rất hiếm và rất nhút nhát đối với Con Người Lớn, như họ vẩn thường gọi chúng ta. Họ là (hoặc đã là) những con người nhỏ bé, cao bằng khoảng phân nửa chúng ta, và nhỏ hơn cả bọn Người Lùn râu dài. Hobbit chẳng cần thở. Họ chẳng có ma thuật gì lắm, ngoài trừ ngày thường họ có thể biến mất lặng lẽ và nhanh chóng nhờ vào việc những gã to đùng ngu ngốc như tôi và bạn ngớ ngẩn dạo qua lại, tạo ra những tiếng động ầm ĩ như những con voi khiến họ có thể nghe thấy từ cả dặm. Họ thường nghiêng về phía bụng, ăn vận những màu sặc sỡ (thường là xanh và vàng); không mang giày, bởi vì chân họ mọc sẵn những lớp lông giống như da, dày, ấm giống như những thứ mọc trên đầu họ (chúng quăn tít); họ có những ngón tay nâu khéo léo, những khuôn mặt phúc hậu, và những tiếng cười ngọt ngào sâu lắng (đặc biệt sau khi ăn tối, mà họ có thể ăn cả hai lần một ngày nếu được). Bây giờ thì bạn đã biết đủ về họ để tiếp tục rồi. Và như tôi đã nói, mẹ của hobbit này, mẹ của Bilbo Baggins, tức là Belladonna Took huyền thoại, một trong ba con gái của Già Took, người đứng đầu của các hobbit sống ngang Nước, một con sông nhỏ chảy dưới chân Ngọn Đồi. Người ta thường kể (trong các gia đình khác) rằng vào thời xa xưa những người Took tiền bối đã cưới phải một cô vợ tiên. Điều đó, tất nhiên là lố bịch, nhưng rõ ràng là họ có cái gì đó hoàn toàn không giống hobbit –đó là việc một số thành viên thuộc thị tộc Took đã lên đường đi phiêu lưu. Họ đã lặng lẽ biến mất, và gia đình cũng giữ im lặng; nhưng rõ ràng là dòng họ Took không được kính trọng như Baggins, dù họ chắc chắn là giàu hơn. Belladonna Took đã chẳng tham gia một chuyến phiêu lưu nào từ khi trở thành Bà Burgo Baggins. Bungo, cha của Bilbo, đã xây dựng nên cái hố –hobbit đầy tiện nghi này cho bà (và cũng phần nào nhờ vào tiền của bà) đã nổi tiếng khắp mạn trên hay mạn dưới của Ngọn Đồi hay cả quá miền Nước, và họ đã ở đấy đến tận cuối cuộc đời. Có thể là Bilbo, con trai duy nhất của họ vẩn ở đấy, mặc dù ông có dáng vẻ và hành vi chính xác như một bản sao thứ hai của người cha vững chãi và phong lưu của nó, trong bản chất nó vẫn có cái gì đó kỳ lạ được thừa hưởng từ dòng họ Took, một cái gì đó chỉ cần cơ hội là bộc lộ. Cơ hội đã chẳng buồn đến, cho đến khi Bilbo Baggins lớn lên, được khoảng năm mươi tuổi hay thế, và sống trong cái hố hobbit xinh đẹp được cha ông dựng xây mà tôi đã mô tả với bạn, đến khi nó thật sự cảm thấy hoàn toàn ổn định.
Cái cơ hội cho sự tò mò ấy đã đến vào một buổi sáng rất lâu, trong sự yên tĩnh của toàn thế giới, khi mà tiếng động ít đi và sức sống dâng tràn, còn thế giới hobbit vẫn náo nhiệt và sung túc như thường lệ, và Bilbo Baggins thì đứng tại ngưỡng cửa của ông, sau khi đã ăn sáng, hút thuốc trong một cái ống điếu bằng gỗ dài to đùng đến nỗi nó gần chạm đến đến những ngón chân có lông xoăn của ông (giống như một cái bàn chải) – thì Gandalf đến. Gandalf! Nếu như bạn chỉ nghe một phần tư của những gì tôi nghe về ông ta, và tôi chỉ nghe được một phần rất nhỏ của những gì tất cả mọi ai khác đều nghe, thì bạn cũng đã được chuẩn bị để nghe một loại truyện ly kỳ rồi đó. Đó là những câu chuyện và những cuộc phiêu lưu đến những vùng đất khắp nơi trên thế giới mà ông ta đã đến, trong những tình huống thật là phi thường. Ông ta đã không quay về con đường dưới Ngọn Đồi này qua biết bao năm tháng, từ khi người bạn Già Took của ông qua đời, thật ra thì những hobbit đã gần như quên mất trông ông ấy như thế nào nữa rồi. Ông đã rời xa Ngọn Đồi, băng qua Nước, dấn thân vào những câu chuyện của mình từ khi tất cả họ hãy còn là những cô cậu hobbit nhỏ tí.
Tất cả những gì mà Bilbo thấy vào buổi sáng hôm ấy mà chẳng chút nghi ngờ là một ông lão với một cây gậy chống. Ông ta đội một cái nón đỉnh nhọn màu lơ, một cái áo khoác xám dài, một cái khăn quàng cổ bạc với bộ râu trắng chạy dài đến tận thắt lưng, và một đôi giày lớn màu đen.
“Chào buổi sáng!”, Bilbo nói, và ông muốn nói như vậy. Mặt trời rực rỡ, và đồng cỏ thì xanh tươi. Nhưng Gandalff nhìn ông từ dưới đôi mày rậm nhô ra từ dưới vành chiếc nón tối tăm. “Anh muốn gì?” điều này có nghĩa là “Đừng có nói chào buổi sáng, hoặc là tôi chẳng muốn được chào buổi sáng chút nào; hoặc là sáng nay anh cảm thấy vui hoặc là buổi sáng thật là tốt, phải không?”
“Tất cả đều có cả,” Bilbo nói. “Và với một buổi sáng tốt đẹp với ống điếu nhồi đầy thuốc bên ngoài cửa, thật là tuyệt. Nếu ông có chiếc ống điếu của mình, thì ngồi thủng thỉnh nào! Chẳng có gì phải vội cả, chúng ta còn có cả một ngày dài!” Và Bilbo ngồi xuống trên chiếc ghế cạnh cửa, gác chân, và phun ra những vòng khói màu xám xinh đẹp toả trong không khí mà không vỡ ra đoạn bay đi lan khắp Ngọn Đồi.
“Được đấy!” Gandalf nói. “Nhưng sáng nay tôi không có thời gian để thổi ra những vòng khói ấy. Tôi đang tìm một người để tham gia vào chuyến phiêu lưu mà tôi đang tổ chức, và tìm được một gã cũng khó đấy.”
“Tôi nghĩ như thế về chuyện này! Chúng ta rõ ràng là những con người lặng lẽ và chẳng hợp với chuyện phiêu lưu chút nào. Những chuyện khó chịu, nhiễu loạn và chẳng hợp thời! Nó sẽ làm ông trễ bữa chiều! Tôi nghĩ rằng chẳng có ai chú ý đến nó đâu,” ngài Baggins của chúng ta nói như thế, và đặt một tay sau dây quần, rồi thổi ra những vòng khói thậm chí còn to hơn cả lúc trước. Rồi ông lấy thư buổi sáng của mình ra, bắt đầu đọc, giả vờ như chẳng còn chú ý gì đến ông già kia. Ông cho rằng ông ta chẳng hợp với mình, và muốn ông ta đi cho. Nhưng ông già chẳng buồn nhúc nhích. Ông ta đứng dựa trên cây gậy của mình và nhìn chằm chằm vào tay hobbit mà chẳng nói gì, cho đến khi Bilbo bắt đầu khó chịu và thậm chí còn nổi cáu lên.
“Chào buổi sáng!” cuối cùng ông nói. “Chúng tôi chẳng muốn phiêu lưu gì ở đây sất, cám ơn! Ông có thể leo lên Ngọn Đồi hay băng qua Nước.” Bằng cách đó ông muốn chấm dứt cuộc đối thoại tại đây.
“Anh chào buổi sáng nhiều thế để làm gì!” Gandalf nói. “Bây giờ thì anh đang lộ ra là anh muốn dứt khỏi tôi, và anh sẽ không cảm thấy thoải mái chừng nào tôi chưa đi.”
“Không, hoàn toàn không, thưa ngài thân mến! Xem nào, tôi không nghĩ rằng tôi biết ngài tên gì?”
“Vâng, vâng, thưa ngài thân mến – và tôi thì biết tên ngài, ngài Bilbo Baggins. Và ngài thì biết tên tôi, dù ngài chẳng hề biết rằng tôi có cái tên đó. Tôi là Gandalf, và Gandalf tức là tôi đây! Ngài nghĩ rằng tôi đã đến chào buổi sáng với con trai của Belladonna Took như là một kẻ bán hàng rong sao!”
“Gandalf, Gandalf! Chúa từ bi! Không phải là thầy phù thuỷ lang thang đã cho Già Took một cặp kim cương ma thuật đã tự nối với nhau và chẳng bao giờ rời trừ phi có lệnh ấy sao? Không phải là nhân vật đã kể lại những câu chuyện ly kỳ tại các bàn tiệc, đã chống lại rồng, yêu tinh và người khổng lồ để cứu những nàng công chúa và những người con trai may mắn ngoài mong đợi của những quả phụ chứ? Không phải là con người đã đã từng làm nên những đợt pháo bông rực rỡ phi thường ấy chứ! Tôi nhớ hết những chuyện đó! Già Took đã từng có có trong đêm Giao Thừa Giữa Hè. Tuyệt thật! Chúng bắn lên như là những bông hoa loa kèn, hoa mõm chó và hoa kim tước khổng lồ lơ lửng vào chạng vạng mỗi buổi tối!” Bạn chú ý rằng ngài Baggins chẳng đến nỗi tẻ nhạt như chính ông vẫn thường tin, và ông cũng rất yêu thích các loài hoa. “Ôi ôi!” ông tiếp tục “Không là Gandalf người đã khiến nhiều chàng trai và thiếu nữ đã dấn thân và những cuộc phiêu lưu cuồng dại. Từ việc trèo lên cây để đến thăm Yêu tinh – hay việc giương buồm trên những chiếc tàu đi đến những bờ biển lạ! Ban phúc cho tôi, nhưng cuộc sống ấy đã bị phủ lấp rồi – tôi muốn nói ngài đã từng rầu rĩ rằng những chuyện như vậy đã trở nên rất xa xưa. Tôi muốn xin lỗi ngài, nhưng tôi không biết rằng ngài vẩn còn hoạt động.”
“Thế tôi làm gì nữa bây giờ?” thầy phù thuỷ trả lời. ” Dù sao thì tôi cũng rất mừng khi thấy anh nhớ ra mọi thứ về tôi. Anh có vẻ như nhớ những bông pháo hoa khá rõ, và dù thế nào thì mọi chuyện cũng không đến nỗi tuyệt vọng. Thật sự là vì quyền lợi của ông ngoại Took của anh và của cả Belladonna tội nghiệp, tôi sẽ cho anh điều anh muốn.”
“Xin lỗi ngài, tôi chẳng muốn gì!”
“Có, anh có đấy! Lúc này thì có hai. Xin lỗi. Tôi sẽ cho anh. Thật sự tôi sẽ đi rất xa khi mang đến cho anh chuyến phiêu lưu. Rất là sôi động đối với tôi, rất tốt cho anh và cũng rất có lợi nữa, rất là thú vị, nếu như anh tham gia.”
“Xin lỗi! Nhưng tôi chẳng muốn phiêu lưu chút nào, cám ơn. Cũng chẳng phải là bữa nay. Chào buổi sáng! Nhưng hãy đến uống trà bất kỳ lúc nào ông muốn! Vì sao chẳng phải là ngày mai nhỉ? Hãy đến vào ngày mai! Tạm biệt!”
Nói những điều đó, gã hobbit quay đi và hấp tấp chuồn vào trong chiếc cửa tròn màu xanh lá cây, và đóng sập nó với tất cả khả năng mà ông có để đừng tỏ ra thô lỗ. Thầy phù thuỷ thì dù sao vẫn là thầy phù thuỷ.
“Tôi mời ông ta uống trà làm gì trời!” ông tự nói với mình khi đi đến phòng thức ăn. Ông chỉ mới vừa ăn sáng xong, nhưng ông nghĩ rằng một hai miếng bánh và uống một chút gì sẽ khiến ông bình tĩnh lại sau sự sợ hãi vừa rồi. Gandalf lúc đó vẫn đứng ngoài cửa, cười dài trong lặng lẽ. Sau khi đứng một lúc, ông bước đi, rồi để lại một vết trầy đáng ngờ trên cánh cửa màu xanh xinh đẹp của ông hobbit bằng cây gậy chống của mình. Rồi ông bước đi, vào lúc mà Bilbo đã chén hết miếng bánh thứ hai của mình, và bắt đầu uống mừng rằng ông đã trốn thoát khỏi cuộc phiêu lưu một cách tuyệt hảo.
Vào ngày tiếp theo thì ông gần như quên bẵng Gandalf. Ông chẳng nhớ gì sất, ngoại trừ việc ông ghi vào tấm Thẻ Ước Hẹn giống như thế này: Gandalf ¥ Thứ tư. Vào hôm qua ông đã quá bối rối và chẳng làm được gì cả. Ngay trước giờ uống trà thì một tiếng chuông lớn khủng khiếp đã vang lên tại cánh cửa trước và làm cho ông nhớ lại mọi chuyện!Ông ào đến ấm nước, rót vội ra một cái tách, rồi với nước sốt và một vài miếng bánh gì đó, ông chạy ra cửa.
“Xin lỗi vì đã làm ngài đợi!” ông định nói vậy khi ông thấy rằng người mới đến hoàn toàn chẳng phải là Gandalf. Đó là một người lùn với bộ râu xanh được gấp nếp vào trong chiếc thắt lưng vàng, với đôi mắt sáng rực dưới cái mũ trùm đầu màu lục tối tăm. Ngay khi cửa vừa mở ra, ông ta liền đẩy cửa bước vào, như thể ông đang được chờ đón.
Ông ta treo chiếc áo khoác với mũ trùm lên cái móc treo đồ gần nhất, và “Dwalin đang đợi lệnh ngài!” ông ta nói, cúi mình thật thấp.
“Bilbo Baggins là của ngài!”ông hobbit trả lời, lúc đó ông quá ngạc nhiên và chẳng hỏi được câu nào. Khi sự im lặng đã chuyển thành khó chịu, ông thêm vào: “Tôi đây chỉ mới đang pha trà; xin hãy đến và dùng một chút với tôi.” Có thể là vẫn còn có vẻ xơ cứng, nhưng ông đang tỏ ra tử tế. Và liệu bạn sẽ làm gì được khi có một người lùn chợt đến vào xáo tung tiền sảnh nhà bạn lên mà chẳng một lời báo trước.
Họ chẳng ngồi bên bàn được bao lâu, thật ra thì họ chỉ mới thưởng thức đến miếng bánh thứ ba thì một tiếng chuông thậm chí còn lớn hơn lúc nãy vang lên.
“Xin lỗi!” ông hobbit nói, và tiến ra cửa.
“Cuối cùng thì ông cũng đã đến!” đó là cái mà ông định nói với Gandalf lần này. Nhưng lần này cũng chẳng phải Gandalf. Thay vào đó là một người lùn trông rất già đang bước vào, với một bộ râu trắng và chiếc nón trùm đỏ thẫm; ông ta gần như là bổ nhào vào phòng ngay khi cửa mở, như thể là chính ông ta được mời.
“Ta thấy là họ đã bắt đầu rồi,” ông ta nói ngay khi nhác thấy chiếc nón lục của Dwalin treo ở đó. Ông ta treo chiếc nón đỏ ngay kế bên, và “Balin đang đợi lệnh ngài!” ông lão nói, đặt tay lên ngực.
“Cám ơn!” Bilbo hổn hển nói. Đó không phải là một điều đáng ra phải nói, nhưng họ bắt đầu làm cho ông rất bối rối, và ông cho rằng nên tự mình hỏi họ. Ong kinh hoảng nghĩ rằng những miếng bánh có thể biến vèo đi, và lúc đó ông, chủ nhà: ông biết rõ bổn phận của mình và phải làm điều đó dù cảm thấy đau lòng- ông phải tránh điều đó.
“Hãy vào trong dùng chút trà!” ông cố gắng để nói lên điều này sau khi hít thở thật sâu.
“Một chút bia sẽ làm tôi cảm thấy khá hơn, nếu như điều này không làm phiền ngài, thưa ngài kính mến,” Balin nói trong bộ râu trắng. “Nhưng tôi chẳng phiền về những chiếc bánh đậu đâu, nếu như ngài có vài cái.”
“Nhiều lắm!” Bilbo thấy mình đang trả lời như thế, trong sự ngạc nhiên của chính ông; và rồi ông cũng lại thấy chính ông đang chạy bổ đến hầm rượu để rót đầy một vại bia, và rồi đến phòng thức ăn và đem về hai chiếc bánh đậu tròn mà ông vừa làm vào lúc trưa để chén vào miếng sau bữa khuya.
Khi ông trở lại thì Balin và Dwalin đang nói chuyện tại bàn như những người bạn cũ (thật ra thì họ là anh em). Bilbo ngã bổ chửng ra khiến bia và bánh văng ra trước ông, khi mà tiếng chuông lại vang vọng lần nữa, và rồi một tiếng khác.
“Chắc hẳn lần này là Gandalf đến,” ông khi đang vụt ra lối đi. Nhưng chẳng phải. Lại thêm hai người lùn nữa, với những chiếc mũ trùm lơ, thắt lưng bạc, và bộ râu vàng; mỗi người trong họ mang theo một túi dụng cụ và một cái xẻng. Khi họ lao vào ngay khi cánh cửa mở ra – Bilbo hoàn toàn quá ngạc nhiên.
“Tôi có thể làm gì cho các ngài đây, thưa các vị người lùn?” ông nói. “Kili đang đợi lệnh ngài!” một người nói. “Và Fili!” người kia thêm vào; và họ cùng nhấc những chiếc mũ trùm màu lơ ra và cúi đầu.
“An lành cho ngài và cho gia đình ngài!” Bilbo trả lời, lần này ông nhớ được về cách nói cần thiết.
“Dwalin và Balin đã có ở đây, theo như tôi thấy,” Kili nói. “Nào, chúng ta nhập băng thôi!”
“Băng!” ngài Baggins nghĩ. “Tôi không thích cái từ này chút nào. Thật sự tôi phải ngồi xuống một phút và tập trung thần trí, và uống một chút gì đó. “Ông chỉ vừa ngồi nhắp vào góc bàn, trong khi cả bốn người lùn đã ngồi quanh bàn, và đang nói về việc đào vàng, những rắc rối khi đụng phải yêu tinh, và về sự phá phách của lũ rồng, hàng tá chuyện khác mà ông chẳng hiểu gì cả, và chẳng muốn hiểu chút nào, vì chuyện họ nói có vẻ phiêu lưu mạo hiểm quá, và rồi ding – dong – a – ling’ – dang chuông nhà ông lại reo vang, như thể những rắc rối mà ông hobbit nhỏ này đang cố đẩy đi lại ập đến. “Có ai đó ngoài cửa!” ông nói, chớp mắt. “Khoảng bốn người, theo như âm thanh, ” Fili nói. “Ngoài ra, chúng tôi thấy họ đằng sau chúng tôi một khoảng.”
Ông hobbit tội nghiệp ngồi phịch xuống trong tiền sảnh và đưa hai tay lên đầu, tự nhủ rằng chuyện gì đang xảy ra, và cái gì sẽ xảy đến, và cả cái đám này có định ở lại chén bữa khuya hay không. Rồi tiếng chuông lại reo vang lần nữa, và ông phải chạy ra cửa. Thật ra thì không phải là bốn, mà là NĂM. Một người lùn nữa đã đến nhập bọn khi ông còn đang tự hỏi mình trong tiền sảnh. Ong chậm chạp quay quả đấm cửa, đứng nhìn họ. Cả bọn đi vào, từng người một cúi chào và nói “đợi lệnh ngài.” Dori,Nori, Ori, Oin và Gloin là tên họ, với hai cái mũ trùm tím, một cái mũ trùm xám, một cái mũ trùm nâu, một cái mũ trùm trắng được treo lên móc rất nhanh, và họ bước sầm sập vào trong, những bàn tay to rộng của họ móc vào những chiếc thắt lưng làm bằng vàng và bạc, để nhập bọn với những người khác. Như vậy gần như đã hình thành một băng. Có vài người gọi bia, một số gọi bia đen, và một gọi cà phê, và tất cả bọn họ đều đòi bánh, khiến cho ông hobbit bận túi bụi trong một thoáng.
Một cái bình lớn đựng đầy cà phê tồi được đặt trong lò sưỡi, những chiếc bánh đậu được chén hết, và những người lùn bắt đầu lấn sang những chiếc bánh nướng phết bơ, và rồi – một tiếng gõ lớn vang lên. Không phải là tiếng chuông, mà là những tiếng rat-tat vang lên bên chiếc cửa lục xinh đẹp của ông hobbit. Có ai đó đang gõ nó bằng gậy.
Bilbo chạy ào ra lối đi, cực kỳ tức giận, và cùng với ông còn là sự bối rối và hoang mang – cuối cùng ông cũng nhớ ra rằng đây chính là ngày thứ Tư đầy rắc rối. Ông mở cửa bằng một cái giật mạnh, và cả đám ngã đổ nhào, người này đè lên người kia. Lại thêm những người lùn, bốn gã nữa! Còn Gandalf đứng đằng sau, tựa vào cây gậy của ông, và nhân tiện ông vẩy cái dấu hiệu bí mật mà ông đã tạo lúc sáng đi.
“Cẩn thận! Cẩn thận!” ông nói. “Chẳng giống anh chút nào, Bilbo, khi anh để cho bạn đợi trên thảm chùi chân, và mở cửa như là một phát súng hơi! Để tôi giới thiệu nhé Bifur, Bofur, Bombur và đặc biệt là Thorin!”
“Đợi lệnh ngài!” Bifur,Bofur và Bombur đứng thành hàng và cất tiếng. Rồi họ nhấc hai cái nón trùm vàng cùng một cái xanh nhạt; và cùng với nó là một cái màu xanh da trời với tua dài bằng bạc. Cái cuối cùng là của Thorin, một người lùn cực quan trọng, thật sự không ai khác hơn chính là Thorin Oakenshield vĩ đại, người hoàn toàn chẳng hài lòng gì khi nằm bổ chửng trên tấm thảm chùi chân của Bilbo với Bifur, Bofur và Bombur trên đầu. Chỉ vì Bombur rất béo và nặng. Thật ra thì Thorin cũng rất kiêu căng, và chẳng nói gì về việc đợi lệnh cả; nhưng ngài Baggins tội nghiệp nhà mình đã nói xin lỗi rất nhiều lần, và cuối cùng ông cũng càu nhàu “xin đừng để ý đến nó,” và không tỏ ra khó chịu nữa.
“Nào bây giờ thì tất cả chúng ta đã ở đây!” Gandalf nói, nhìn vào hàng mười ba cái nón trùm, một băng nón tuyệt vời có thể có, và treo cái của ông lên móc áo. “Thật là một cuộc thu hoạch vui vẻ!
Tôi hy vọng ở đây sẽ còn lại cái gì đó để những người đến trễ ăn và uống! Cái gì thế này! Trà! Không, cám ơn! Một chút rượu vang đỏ, tôi nghĩ thế, dành cho tôi.” “Và cho tôi,” Thorin nói. “Mứt mâm xôi và bánh nhân táo,” Bifur nói. “Và thịt băm viên với phó mát,” Bofur nói. “Và thịt lợn băm với xà lách,” Bombur nói. ” Và nhiều bánh với rượu bia – và cà phê, nếu ngài không phiền,” những người lùn khác gọi váng cả cửa.
“Thêm vào một chút trứng nữa, đây làmột anh chàng tốt bụng!” Gandalf gọi sau hết, khi mà ông hobbit bổ chửng vào phòng thức ăn. “Hãy mang ra đây một con gà lạnh với nước giầm!”
“Có vẻ như mình đã biết khá nhiều về phía trong của vận hội mà tự mình đã có được!” ngài Baggins nghĩ, ông bắt đầu cảm thấy lúng túng, và bắt đầu tự hỏi phải chăng là cuộc phiêu lưu tồi tệ nhất đã bắt đầu lao vào ngay chính nhà ông. Trong lúc đó ông đang mang ra tất cả những chai lọ, những đĩa, rồi dao nĩa, ly tách, thìa cà phê và hàng đống thứ trên một cái khay to, ông đã trở nên rất nóng nảy, mặt đỏ bừng, và giận dữ.
“Những người lùn lộn xộn và quấy rối kia!” ông nói lớn. ” vì sao họ chẳng đến giúp một tay nhỉ?” Hãy nhìn kìa! Balin và Dwalin đứng ngay cửa bếp, còn Fili và Kili đứng ngay phía sau họ, và trước khi ông có thể thể nói gì họ đã lướt qua cái khay, và những chiếc bàn nhỏ trong phòng khách đã được sắp đầy mọi thứ.
Gandalf ngồi phía đầu bàn với mười ba người lùn vây quanh; còn Bilbo ngồi trên chiếc ghế đẩu bên đống lửa, gặm rỉa một miếng bánh quy (sự ngon miệng của ông đã biến đi đằng nào mất), và thử nhìn như thể mọi việc đã được sắp xếp tuyệt vời và không phải là một cuộc phiêu lưu tồi tệ nhất. Bọn người lùn ăn và ăn, rồi nói và nói, và thời gian trôi qua. Cuối cùng họ đẩy ghế ra sau, và Bilbo đứng dậy để thu dọn ly đĩa.
“Tôi nghĩ rằng tất cả các ngài sẽ ở lại dùng bữa khuya chứ?” ông với với chất giọng lịch sự nhất của mình. “Tất nhiên!” Thorin nói. “Và sau đó, chúng ta sẽ chẳng vào việc trước khi khuya, và chúng ta sẽ có âm nhạc trước tiên. Nào, dọn đi!”
Thế là, mười hai người lùn – không có Thorin, ông ta thật quan trọng, nên ông đứng lại để nói chuyện với Gandalf – nhảy vội đến và thu dọn mọi thứ thành từng chồng cao nghệu. Khi họ đi, chẳng cần phải có khay khiếc gì, với những cột dĩa được giữ thăng bằng, mỗi chồng dĩa còn có một cái chai trên đầu, và họ giữ ông bằng một tay, thì ông hobbit chạy đằng sau họ, gần như rít lên trong sợ cuống “xin cẩn thận cho!” và “xin, đừng phiền! Tôi có thể lo được.” Nhưng những người lùn bắt đầu hát váng lên:
Đĩa tan ly vỡ đi cùngDao cùn nĩa gãy chẳng dùng được đâuBinbo ghét đến phát rầuBể chai vỡ lọ gây sầu với loQuần áo thì rách đi choMỡ đầy lối nhỏ chẳng ai hài lòngSữa đổ vương vãi khắp phòngXương nằm với thảm lòng thòng gớm thayRượu vung đầy cửa thày layĐồ sành vỡ vụn tung bay khắp nhàĐập chúng cho vỡ vụn raNhững gì còn lại thì ta đem vềĐem ra tiền sảnh thật ghêGom thành một đống ma chê quỷ hờnBilbo ghét chẳng gì hơnNên hãy cẩn thận đừng rơi đĩa nào
Tất nhiên à họ chẳng hề làm những điều ghê rợn trên, và mọi thứ trở nên sạch sẽ và về đúng chỗ một cách an toàn, nhanh chóng và sáng sủa, trong khi ông hobbit quay mòng mòng giữa bếp để thử xem xem họ đang làm gì. Đoạn rồi họ quay lại, và thấy Thorin đang đứng trên đệm chắn, hút thuốc phì phèo bằng cái tẩu. Ông đang thả ra những vòng khói cực lớn, và khi nào ông bảo chúng đi, thì chúng vội chuồn đến bên ống khói, hoặc đứng đằng sau cái đồng hồ chỗ mặt lò sưỡi, hoặc lẩn xuống dưới bàn, hoặc bay vòng vòng trên trần nhà; nhưng mà dù có lẩn đi đâu cũng không đủ nhanh để thoát khỏi tay Gandalf. Pop! Ông thổi ra một cái vòng khói nhỏ hơn từ cái ống điếu nhỏ thẳng màu xám của mình xuyên qua mỗi cái vòng của Thorin. Những vòng khói của Gandalf sau đó chuyển thành màu xanh và quay về bay lượn trên đầu của thầy phù thuỷ. Lúc này ông đã kịp tạo ra một đám mây trên đầu mình, và trong cái thứ ánh sáng lờ mờ đó ông trông rất lạ lùng và huyền bí. Bilbo đứng sững và ngẩn trông – ông rất yêu những vòng khói – và ông đỏ mặt vì thẹn khi nghĩ đến những vòng khói mà sáng hôm qua ông đã gửi vào những làn gió thổi trên Ngọn Đồi.
“Nào, giờ thì một chút âm nhạc!” Thorin nói. “Mang nhạc cụ đến đây!”
Kili và Fili chạy ào đến những cái túi của họ và mang về vài cây violin; Dori, Nori và Ori mang ra những cây sáo được họ giắt đâu đó trong áo choàng; Bombur thì đặt một cái trống giữa tiền sảnh; Bifur và Bofur cũng đi ra, và trở về với những cây clarinet mà họ đã đặt sẳn ở giữa đường vào. Dwanlin và Balin nói: “Xin lỗi, tôi bỏ đồ của tôi ở chỗ cổng vòm rồi!” “Mang của tôi vào luôn thể,” Thorin nói. Và họ trở lại với những cây đàn violin to bằng cả người họ, và mang vào cây đàn hạc của Thorin nằm trong một cái bao màu lục. Đó là một cây đàn hạc bằng vàng tuyệt đẹp, và khi Thorin khẩy nó, âm nhạc bắt đầu ngay tức thì, và như thể Bilbo đã quên đi một cái gì đó bất chợt mênh mang, khiến cho tiếng nhạc vươn ra khỏi vùng đất tối tăm dưới ánh trăng lạ lẫm, vượt qua trên Nước và lan xa đến mọi hố hobbit đang có trên Ngọn Đồi.
Bóng đêm tràn vào bóng từ khung cửa sổ nhỏ vẩn đang mở phía bên Ngọn Đồi, với ánh lửa bập bùng – hiện đang là tháng Tư – và họ vẩn biểu diễn say sưa, trong khi cái bóng của bộ râu Gandalf ve vẩy trên tường.
Bóng đêm đã tràn ngập phòng, lửa tàn dần, và những cái bóng biến mất, trong khi họ vẩn còn chơi. Rồi thình lình một người và đến người khác cất tiếng ca trong khi họ vẩn chơi đàn, những tiếng hát nằm sâu từ trong họng của những người lùn bắt nguồn từ những những vùng đất quê hương sâu thẳm cổ xưa của họ; và như thể những nơi ấy của tạo thành bài hát của họ, cứ như thể những bài hát của họ vang lên chẳng cần tiếng nhạc.
Trên những ngọn núi giá lạnh giữa sương mùTrong hầm tối âm u giữa những hang động cổ xưaChúng ta phải từ bỏ ngày ngày ánh sáng dài lâuĐể kiếm tìm ánh vàng theo số phận đẩy đưaNhững người lùn xưa cổ với những phép thuật phi thườngVới những nhát búa rung lên như những tiếng chuông ngânNơi sâu thẳm, nơi bóng tối ngủ say trong tâm tưởngNơi những hố sâu, giữa tiếng thác rền vangHỡi những hoàng đế cổ xưa cùng những yêu tinh lãnh chúaĐã tích trữ biết bao bạc vàng giữa bóng hoàng hôn nhạt nhoàRồi biết bao miệt mài và rèn dũaĐem ánh sáng giấu vào ngọc thần trên bao gươm quý giáHọ đã nạm bạc biết bao chuỗi hạtGắn những vì sao vào những vương miện đế vươngHọ dùng lửa của rồng để cùng nhau siết chặtDùng ánh trăng sao dệt lên chiếc lưới phi thườngNhững ngọn núi giá lạnh mù sương nay ở đâuNhững hang động sâu thẳm chốn ngút ngànChúng ta phải từ bỏ ngày ngày ánh sáng dài lâuĐể tìm lại những vàng bạc xưa kia đã thành quên lãngNhững chiếc cốc chạm trổ tinh khôiVà chiếc đàn hạc vàng; chẳng ai tìm thấy đượcChúng vẫn nằm lại đâu, dù biết bao lời hát buông lơiNgười và elves vẫn hát, dầu chẳng ai nghe đượcNhững cây thông vẩn reo vang trên khoảng không lớn rộngGió vẩn thổi dài qua đêm tối mênh mangLửa đỏ hồng, vẫn chiếu sáng mênh môngSoi rừng cây lung linh như đuốc sángTiếng chuông vẫn ngân vang theo ngày thángNgười ngẩn nhìn với khuôn mặt xanh xaoRồng thiêng bổng nỗi lửa hung tànXô đổ tháp chuông, rung cửa nhà lảo đảoNúi cao mờ ảo dưới ánh trăng chênh chếchNhững người lùn nghe thấy tiếng bước chân từ địa ngụcHọ vội tụ về dưới ngọn thác mỏi mệtSâu dưới chân người, dưói ánh trăng vàng rựcNhững ngọn núi mịt mờ nơi chốn hoang vuNhững hang động sâu thẳm le lói âm uChúng ta phải từ bỏ ngày ngày ánh sáng dài lâuĐể giành lấy những cây đàn hạc vàng vĩnh cửu
Khi họ hát, ông hobbit cảm thấy được tình yêu toả ra từ những đồ vật tuyệt diệu đã được họ làm ra bằng tay, bằng sự xảo trá hay bằng ma thuật huyền diệu đang thấm dẫn qua ông, ông cảm thấy được tình yêu ghen tương và hung hãn, thấy được ước muốn sâu thẳm trong tâm can của những người lùn. Có cái gì đó trong tính cách của dòng họ Took đang thức dậy trong ông, và ông ước sao được ra đi để nhìn thấy những ngọn núi vĩ đại, được nghe tiếng thông reo và tiếng thác đổ, được khám phá những hang động, được đeo những thanh gươm thay cho những cây gậy chống. Ông nghĩ đến những châu báu mà những người lùn đã làm sáng bừng cả hang động. Rồi thình lình trong khu rừng đằng sau Nước, một ngọn lửa bùng lên – có thể là ai đó đã đã đốt một đống củi – và ông nghĩ đến những con rồng hung hãn đang đậu trên Ngọn Đồi êm ả và đốt nó thành lửa đỏ. Ông rùng mình; và ông nhẹ nhàng trở lại thành ngài Baggins của Bag End, Dưới Ngọn Đồi.
Ông rùng mình. Một nửa tâm trí ông lưỡng lự và nửa kia ham muốn để chạy trốn dưới những thùng bia trong hầm rượu, và sẽ không trở ra chừng nào những người lùn kia chưa bỏ đi. Thình lình ông thấy âm nhạc và tiếng hát chợt tắt hẳn, và tất cả mọi người đang đứng nhìn ông với những đôi mắt sáng rực trong bóng đêm.
“Anh đi đâu?” Thorin nói, với một giọng nói như thể ông biết rõ cả hai phần trong tâm trí ông hobbit.
“Cần thêm một chút ánh sáng chứ?” Bilbo nói với vẻ hối lỗi.
“Chúng tôi thích bóng đêm,” những người lùn nói. “Bóng đêm dành cho những chuyện trong đêm tối! Còn nhiều giờ nữa mới tới bình minh.”
“Tất nhiên!” Bilbo nói, và hấp tấp ngồi xuống. Ông trượt khỏi ghế đẩu và ngồi xuống trên tấm đệm chắn, làm cái que cời và cái xẻng va đập loảng xoảng.
“Hush!” Gandalf nói. “Để Thorin nói!” Và Thorin nhún mình bắt đầu.
“Gandalf, những người lùn và ngài Baggins! Chúng ta đang cùng có mặt trong nhà người bạn và người thông thái của chúng ta, người hobbit táo bạo và tuyệt vời nhất – mong cho lông giữa các ngón chân của ngài chẳng bao giờ rơi rụng! Mọi người đều khen ngợi bia và rượu của ngài!” Ông ngừng lại một chút để thở và phác một dấu hiệu lịch sự về phía ông hobbit, nhưng những lời khen tặng có vẻ chẳng có tác dụng gì với Bilbo Baggins tội nghiệp, người đang mấp máy môi để chống lại việc được gọi là người táo bạo và nhất là một con người thông thái, dù vậy chẳng có âm thanh nào phát ra, vì ông đang lúng ta lúng túng. Và Thorin tiếp tục:
“Chúng ta gặp nhau thảo luận về những kế hoạch của mình, những cách thức, phương tiện, chính sách và thiết bị. Chúng ta bắt đầu chuyến viễn du dài của mình rất sớm trước khi ngày mới bắt đầu, một cuộc hành trình mà có thể một số trong chúng ta, hoặc có thể là tất cả chúng ta (ngoại trừ người bạn và người cố vấn của chúng ta, thầy phù thuỷ khéo léo Gandalf) có thể chẳng bao giờ trở về. Đây là một thời khắc trọng thể. Mục đích của chúng ta, tôi cho rằng, đã rất rõ ràng. Với ngài Baggins đáng kính, và có thể với một hoặc hai người lùn trẻ tuổi (tôi nghĩ là tôi nên nêu tên Kili và Fili làm ví dụ), thời điểm này là lúc chính xác để có một sự giải thích ngắn -“
Đó là phong cách của Thorin. Ông là một người lùn quan trọng. Nếu có thể, ông có thể nói miết cho đến khi hết hơi, mà chẳng buồn nói với bất kỳ ai những gì mà họ chưa biết. Nhưng ông đã bị cắt ngang thô bạo. Bilbo tội nghiệp chẳng thể chịu đựng được thêm nữa. Với viễn cảnh chẳng bao giờ trở về, ông đã nghe thấy những tiếng kêu thét bên trong mình, và nó nhanh chóng bùng lên thành một cái giống như tiếng rít của một động cơ vang vọng khắp đường hầm. Và tất cả những người lùn nhảy bổ chửng ra bàn. Gandalf vẩy lên một tia sáng sáng nơi cuối cây gậy thần của ông, và trong những ánh lửa của nó, ông hobbit nhỏ bé tội nghiệp khuỵu xuống trên tấm thảm, run rẩy như thịt nấu đông đang tan chảy. Rồi ông nằm sóng xoài ra sàn nhà, rồi gọi to lên “sét đánh, sét đánh!” hết lần này đến lần khác; và đó là những thứ mà mọi người có thể nghe từ ông trong một lúc lâu. Rồi họ đỡ ông lên và đặt nằm trên chiếc ghế sofa ở phòng khác, đặt đồ uống vào tay ông, rồi trở về với những công việc trong bóng đêm của mình.
“Cậu bé nhỏ dễ bị kích động thật,” Gandalf nói, khi họ ngồi trở lại. “Cơn ngất trong buồn cười ngớ ngẩn đấy, nhưng cậu ta là giỏi nhất, giỏi nhất trong những người giỏi nhất, với sự cuồng nhiệt như một con rồng trong khoảnh khắc sinh tử.”
Nếu bạn đã từng trông thấy một con rồng vào lúc hiểm nghèo, bạn sẽ nhận thấy rằng những lời trên là những lời phóng đại thi vị cho bất kỳ hobbit nào, thậm chí với cả Già Took vĩ đại – người khổng lồ Bullroarer, người to lớn đến nỗi
(so với hobbit) có thể cưỡi được cả ngựa. Ông đã đột kích vào hàng ngũ của những yêu tinh trên Núi Gram trong Trận đánh trên Đồng cỏ, và đánh bay đầu vua Gol-firnbul của chúng bằng cây dùi gỗ. Nó đã bay đi hàng trăm dặm trong không trung và rơi vào một cái hố hobbit, và cùng với việc dành chiến thắng trong trận đánh này, môn golf đã được đồng thời phát minh.
Tuy nhiên, trong lúc đó người hậu duệ lịch lãm của Bullroarer đã hồi tỉnh trong phòng khác. Sau khi ngồi một lúc và uống một ly, ông đã hồi hộp rón rén đi đến bên cửa phòng khách. Ở đây ông nghe thấy Gloin nói: “Humsph!” (hoặc một cái tiếng gì giống giống như tiếng ngáy). “Cậu ấy có chịu làm không, anh nghĩ sao? Gandalf đã nói rất hay về tính cuồng nhiệt trong con người cậu hobbit này, nhưng mà một kẻ trong một lúc kích động mà hét toáng lên sẽ khiến rồng và họ hàng của nó được đánh thức, và cả bọn chúng ta sẽ bị giết. Tôi nghĩ cái tiếng kêu ấy giống như sợ hãi hơn là kích động! Thật ra, nếu như không phải có cái dấu hiệu trên cửa, tôi nghĩa rằng mình đã vào lầm nhà. Ngay khi tôi thấy cậu nhỏ đó lăn lông lốc trên thảm, tôi bắt đầu nghi ngờ. Cậu ta trông giống một tay bán tạp phẩm hơn là một tên trộm đêm!”
Đoạn ngài Baggins quay tay nắm cửa và đi vào. Dòng máu của Took đã giành chiến thắng. Ông thình lình cảm thấy ông sẽ ra đi mà chẳng cần lên giường rồi ăn sáng, dù điều đó thật là cuồng nhiệt. Và đối với một cậu nhỏ vừa ngã lăn quay trên thảm thì điều đó càng thật là cuồng nhiệt . Sau này nhiều lần con người Baggins trong cậu đã hối tiếc về việc ông đã làm lúc này, và ông tự nói với mình: “Bilbo, cậu thật ngốc; cậu đã đi đúng đường rồi mà.”
“Xin lỗi,” ông nói, “nếu như tôi có nghe lén những gì quý vị nói. Tôi không giả vờ để hiểu rằng quý vị đang nói về chuyện gì, hoặc là các vị đang ám chỉ đến những tên trộm đêm, nhưng tôi hiểu rằng tôi tin rằng” (đó là cái mà ông gọi là chân giá trị của mình) “các vị không đánh giá cao tôi. Tôi sẽ cho các vị thấy. Tôi không có dấu hiệu nào trên cửa tôi cả – nó đã được sơn từ tuần trước -, và tôi chắc rằng các vị đã vào nhầm nhà. Ngay khi tôi thấy các khuôn mặt buồn cười của các vị ở ngưỡng cửa, tôi đã bắt đầu nghi ngờ. Nhưng đã cư xử như một người đứng đắn. Hãy cho tôi biết các vị muốn làm gì, và tôi sẽ thử nó, dù cho có phải đi tít sang phương Đông để chiến đấu chống lại những con Ma Sâu hoang dại trong Sa Mạc Tận Cùng. Tôi đã được đặt giá một lần bởi người ông thật thật thật vĩ đại của tôi, Bullroarer Took, và -“
“Vâng, vâng, nhưng điều đó đã diễn ra lâu lắm rồi, “Gloin nói. “Tôi đã nói với ngài. Và tôi bảo đảm rằng có một dấu hiệu trên cánh cửa này, một dấu hiệu thường thấy trong thương mại, và đã từng có nói. Tay ăn đêm có một nghề nghiệp thú vị, thật nhiều Kích thích và những Phần thưởng đáng giá, đó là những điều thường được đọc thấy. Ngài nên gọi là Chuyên Gia Săn tìm Kho báu hơn là Trộm Đêm nếu như ngài thích. Một số bọn họ đã làm. Bọn tôi cũng vậy. Gandalf nói với chúng tôi rằng có một người như vậy đang tìm Việc vào lúc này, và ông ấy đã hẹn gặp bọn tôi ở đây vào giờ uống trà ngày Thứ Tư.”
“Tất nhiên là đã có dấu hiệu, ” Gandalf nói. “Chính tôi đã đặt nó. Vì những lý do tốt đẹp. Anh đã yêu cầu tôi chọn mười bốn người cho chuyến viễn hành, và tôi chọn ngài Baggins. Nếu như có ai đó nói tôi đã chọn sai người và sai nhà, thì các người hãy dừng lại với mười ba các người, lên đường với tất cả sự xui xẻo mà các người thích, hoặc trở về mà đào than đi.”
Ông giận dữ quắc mắc với Gloin khiến tay người lùn này bối rối lui lại ghế của ông ta, và khi Bilbo mở miệng để hỏi một câu hỏi, thì ông quay sang ông hobbit và cau rồi nhướng đôi mày rậm của ông, khiến cho cái mở miệng của Bilbo trở thành một cái ngáp.
“Thế là đúng đấy,” Gandalf nói. “Đừng có mà tranh cãi nữa. Tôi đã chọn ngài Baggins và điều đó là đúng. Bọn anh ăn như vậy là đủ rồi. Nếu tôi nói anh ta là một tay Trộm Đêm, thì anh ta là một tay Trộm Đêm, hoặc sẽ trở thành như vậy vào lúc thích hợp. Anh ta cừ hơn là các người tưởng nhiều, và thực hiện công việc tốt hơn anh ta đánh giá mình rất nhiều. Các anh (có thể) đều có thể sẽ cám ơn tôi về điều này. Nào, Bilbo, cậu bé của ta, vặn đèn, và cho một chút ánh sáng về cái này!”.
Trên bàn, trong ánh sáng của ngọn đèn lớn toả ra cái bóng đỏ, ông ta đưa ra một cái giống một giấy da hơn là cái bản đồ.
“Cái này được Thror, ông ngoại của anh đấy, Thorin, làm ra, ông ta nói rằng nó là câu trả lời cho những câu hỏi vốn kích thích những người lùn. “Nó là bản đồ của Núi.”
“Tôi thấy nó chẳng giúp chúng ta bao nhiêu.” Thorin nói, thất vọng trong thoáng chốc. “Tôi nhớ rõ về Núi và vùng đất ấy. Và tôi biết Rừng U Ám ở đâu, và cả về Bãi Héo nơi con rồng vĩ đại trồi lên.”
“Có một dấu máu rồng trên Núi,” Balin nói , “nhưng nếu chẳng có nó thì cũng dễ dàng tìm ra nó thôi, nếu như chúng ta đến được đấy.”
“Có một điểm các anh không chú ý,” thầy phù thuỷ nói, “và đó là một lối đi bí mật. Các anh có thấy một con dấu bí ẩn ở phía Tây, và hướng của nó chỉ sang một con dấu bí mật khác không?” Nó sẽ tạo ra một lối đi bí ẩn dẩn đến Tiền Sảnh Ngầm.
“Có thể có lối đi ấy,” Thorin nói, “nhưng làm sao chúng ta biết là nó còn là bí mật nữa không? Lão Smaug đã sống ở đấy đã quá lâu và hẳn đã biết hết mọi điều có thể biết về những hang động ấy.”
“Ông ta có thể biết, nhưng ông ta đã chẳng dùng đến nó trong hằng bao nhiêu năm rồi.”Vì sao?”
“Bởi vì nó quá nhỏ. ‘Cánh cửa cao năm foot và ba người có thể cùng đi vào’ con dấu nói như thế, nhưng Smaug thì không thể trườn vào cái lỗ cỡ này, thậm chí khi nó còn là rồng con, huống chi sau khi lão đã chén biết bao người lùn và con người ở Dale.”
“Nó có thể là một cái lỗ cực lớn cho tôi,” Bilbo rúc rích nói (ông chẳng có chút khái niệm gì về những con rồng và chỉ biết đến những cái lỗ hobbit) Ông cảm thấy kích thích và hấp dẫn trở lại, và ông quên béng đi việc giữ mồm giữ miệngÔng yêu thích những cái bản đồ, và trong tiền sảnh của nó treo một cái Vòng Quanh Đất Nước lớn mà tất cả những bức tường yêu thích của ông đều được viền đỏ. “Vì sao mà một cánh cửa lớn như thế lại có thể được giữ bí mật với mọi người bên ngoài, không kể con rồng?” Ông hỏi. Bạn nên nhớ rằng ông chỉ là một ông hobbit nhỏ thôi.
“Vì nhiều lẽ,” Gandalf nói. “Nhưng có một điều rằng chúng ta sẽ không biết một điều được che giấu nếu không nhìn thấy nó. Từ những gì thể hiện trên cái bản đồ này tôi đoán rằng có một cánh cửa khép kín được làm giống chính xác với sườn Núi. Đó là cách thường làm của những người lùn – tôi nghĩ thế, đúng không? “Có lẽ thế,” Thorin nói.
“Ngoài ra,” Gandalf tiếp tục, “tôi quên nói rằng với cái bản đồ này còn có một cái chìa khoá, một cái chìa khoá nhỏ và bí ẩn. Nó đây!” ông ta nói, và đưa cho Thorin một cái chìa khoá có nòng dài và những mấu răng phức tạp làm bằng bạc. “Giữ nó cho kỹ!”
“Tin ở tôi,” Thorin nói, và ông vội vàng buộc nó với một sợi xích xinh đẹp trước cổ, dưới áo vet. “Nào, bâu giờ thì mọi thứ hấp dẫn hơn rồi. Những thông tin mới này đã làm cho chúng trở nên tốt hơn nhiều. Chúng ta đã biết rõ cần phải làm gì rồi. Chúng ta nghĩ đến việc đi về phía Đông, thật là lặng lẽ và cẩn thận, cho đến khi tới được Hồ Dài. Sau đó thì những rắc rối sẽ bắt đầu.”
“Chúng ta sẽ phải đi lâu mới tới được đó, nếu như tôi đã được biết mọi điều về cái phương Đông phức tạp ấy,” Gandalf ngắt lời.
“Chúng ta có thể từ đây đi ngược lên Sông Chảy,” Thorin nói tiếp mà chẳng chú ý gì, “và tiếp đó đi đến những tàn tích của Dale, một thành phố cổ trong thung lũng ở đấy, dưới bóng của Núi. Nhưng chẳng ai trong chúng ta thích thú gì với Cổng Trước cả. Con sông sẽ chảy ra khỏi nó rồi đổ xuống một vách đá khổng lồ tại phía Nam của Núi, và tránh khỏi con rồng càng xa càng tốt, trừ khi nó không muốn thế.”
“Như thế chẳng tốt đâu,” thầy phù thuỷ nói, “không tốt đối với một Chiến Binh vĩ đại, thậm chí với cả Anh Hùng. Tôi đã thử tìm một người, nhưng các chiến binh mãi bận bịu giao tranh với nhau trên những vùng đất xa, và các anh hùng chung quanh đây thì quá ít ỏi, hoặc đơn giản là chẳng có để màchọn. Những thanh gươm ở đấy phần lớn đều cùn cả rồi, những lưỡi rìu thì chẳng dùng làm gì cả, còn những tấm khiên thì được dùng làm khung hoặc đồ đậy dĩa; và những con rồng thì trở nên quá xa vời (và đó là truyền thuyết). Đó là lý do vì sao tôi quyết định tiến hành mọi việc với các tay chuyên gia trộm đêm khi tôi nhớ về sự tồn tại của của cửa Sườn núi. Và đây là Bilbo Baggins nhỏ bé của chúng ta, tay trộm đêm, tay trộm đêm được tuyển và được chọn. Nào bây giờ hãy tiếp tục thảo luận kế hoạch.”
“Tốt lắm,” Thorin nói, ” tôi cho rằng chuyên gia trộm đêm này sẽ cho chúng ta một số ý kiến và đề nghị nào đó.” Ông ta quay sang Bilbo với một vẻ lịch sự nhạo báng.
“Đây là lần đầu tiên tôi được biết về những chuyện như thế này,” ông nói, cảm thấy có gì đó rối loạn và run rẩy trong lòng, nhưng đến lúc này vẩn khăng khăng quyết tâm theo đến cùng vụ này. “Tôi nói về vấn đề vàng và rồng ấy, và tất cả mọi thứ, và việc nó xảy đến như thế nào, nó thuộc về ai, vân vân và vân vân.”
“Ban phúc cho tôi!” Thorin nói, “anh chẳng có một cái bản đồ đấy ư? và anh đã chẳng nghe bài hát của chúng tôi sao? và chẳng lẽ chúng tôi đã nói về tất cả những chuyện này hằng giờ rồi sao?”
“Cũng vậy, tôi muốn mọi chuyện trở nên rõ ràng và dễ hiểu, ” ông bướng bĩnh nói, lấy một vẻ nghiêm trang (ông thường tỏ ra điều này với những ai đến mượn tiền ông), và cố hết sức để tỏ ra khôn ngoan, thận trọng và chuyên nghiệp khi để cho Gandalf có ý kiến. “Tôi cũng muốn biết về những rủi ro, về những cái giá phải trả, và yêu cầu thời gian và những gì được đền đáp, và đại loại thế” – với cái cách như thế ông muốn nói: “Tôi sẽ ra đi vì chuyện gì? và tôi có còn sống trở về hay không?”
“Ồ, tốt lắm,” Thorin nói, ” Trước đây khá lâu ông Thror của tôi đã dẫn gia đình chúng tôi hướng về phương Bắc xa xôi, và trở về với gia sản và những công cụ của họ trên ngọn Núi trên tấm bản đồ này. Ong được khám phá bởi một tổ tiên xa xôi của tôi, Thrain Già Lão, nhưng bây giờ thì họ khai phá lên, rồi họ đào hầm và xây dựng nên một tiền sảnh to hơn và một cái xưởng lớn hơn – và thêm vào đó tôi tin rằng họ đã tìm thấy khá nhiều vàng và châu báu. Dù sao thì họ cũng đã trở nên cực giàu và nổi tiếng, và ông của tôi là Vua dưới ngọn Núi trở lại và được những con người thường sống ở phía Nam vô cùng tôn kính, và họ dần dần tràn ra Sông Chảy đến tận thung lũng được ngọn Núi phủ bóng. Họ xây nên một thị trấn náo nhiệt mang tên Dale trong những ngày ấy. Những vị vua từng đến đặt họ rèn, và những phần thưởng khiến cho một kẻ tay nghề kém nhất cũng trở nên giàu có. Những vị cha cũng van nài chúng tôi cho những người con trai của họ đến học việc, và trả công chúng tôi hậu hĩ, đặc biệt là qua việc cung cấp thức ăn, khiến chúng tôi chẳng bao giờ phải quan tâm đến việc trồng trọt hay kiếm thức ăn cho chính mình. Những ngày đó thật là tốt đẹp đối với chúng tôi, những kẻ nghèo nhất trong bọn tôi cũng có tiền để tiêu xài và cho mượn, và vào những lúc rỗi rãi thì làm ra những vật dụng xinh xắn để mua vui, tôi chưa nói đến những món đồ chơi tinh xảo và ma thuật, những thứ đó chẳng thể tìm được trên thế giới này vào lúc này. Vì vậy những tiền sảnh của ông tôi trở nên đầy rẫy những áo giáp, châu báu, đồ điêu khắc và cốc chén, và cái chợ đồ chơi ở Dale trở thành kỳ quan trên mạn Bắc.
“Thình lình có một con rồng ở đâu đến. Anh biết đấy, rồng ăn trộm vàng và châu báu của con người, yêu tinh và người lùn, ở bất kỳ nơi nào mà chúng tìm thấy; và chúng bảo vệ đồ ăn trộm của chúng suốt đời (và điều đó có nghĩa là vĩnh viễn, trừ khi chúng bị giết), và chẳng bao giờ nghĩ đến việc thanh toán. Thật ra thì chúng khó lòng mà biết được giá trị của những công việc đó, dù chúng luôn có ý niệm tốt về những món hàng có giá trị lưu hành trong chợ; và chúng chẳng thể tự mình làm ra nó, dù chỉ là vá lại một mẩu vẩy nhỏ bị rơi ra trên áo giáp của chúng. Có nhiều con rồng ở mạn Bắc vào lúc đó, và vàng thì có thể chẳng có nhiều lắm ở trên đó, còn những người lùn dạt về phương Nam hoặc bị giết, và tất cả nói chung thì trở nên hoang phế và đổ nát khi những con rồng khiến cho mọi việc càng lúc càng tệ. Có một con đặc biệt tham lam, khoẻ mạnh và độc ác mang tên là Smaug. Một ngày nọ nó cất cánh và bay về phía nam. Đầu tiên chúng tôi nghe thấy một tiếng động lớn giống như một cơn bão ập đến từ phương Bắc, những cây thông trên Núi kêu răng rắc trong gió lốc. Một số người lùn đang đi ra ngoài (tôi là một kẻ may mắn đã đi mạo hiểm trong những ngày đó, tôi luôn lang thang, và nó làm cho tôi còn sống đến ngày nay) – và chúng tôi bắt đầu thấy rõ con rồng đậu xuống ngọn núi của chúng tôi và bắt đầu phun lửa. Đoạn nó bay xuống dốc và khi nó bay đến rừng thì tất cả đã bốc cháy. Vào lúc này tất cả tiếng chuông đã vang khắp Dale và tất cả các chiến binh đã vũ trang. Những người lùn chạy ào đến cánh cổng lớn của họ, nhưng con rồng đã đợi họ sẵn. Không ai trốn thoát được cả. Con sông bốc lên hơi nước và làm sương mù phủ đầy Dale, rồi trong sương mù con rồng tiến đến bên họ và tiêu diệt phần lớn các chiến binh, một câu chuyện buồn thảm thường gặp, nó chỉ trở nên bình thường vào những ngày ấy. Rồi nó quay lại, trườn qua Cổng Lớn và phá sạch tất cả tiền sảnh, đường hẻm, đường hầm, lối đi, hầm rượu, lâu đài và đường đi. Sau hết thì chẳng còn người lùn nào sống sót trong đó, và nó chiếm hết tất cả gia tài của chúng tôi. Có thể rằng, với cách của một con rồng, nó dồn chúng thành một đống tướng bên trong và ngủ trên đó như một cái giường. Sau đó thì nó bò lê qua khỏi cánh cổng lớn và đến Dale vào ban đêm, và lại tàn sát mọi người, đặc biệt là thiếu nữ, để đánh chén, đến khi Dale bị phá huỷ, và mọi người thì chết hoặc tháo chạy. Bây giờ nơi đó như thế nào thì tôi không biết rõ, nhưng tôi tin rằng chẳng có ai sống gần ngọn Núi hơn là sườn phía xa của Hồ Dài trong những ngày này.
Vài người trong bọn tôi đã thoát được ra ngoài và khóc lóc trong lúc lẩn trốn, rồi chúng tôi nguyền rủa Smaug; và chúng tôi chẳng còn mong đợi gì về việc có thể gặp lại cha tôi và ông tôi với những bộ râu biết hát nữa. Ho trông rất buồn thảm nhưng vẩn nói chuyện với nhau. Khi tôi hỏi họ xem họ đã trốn đi như thế nào, họ nói với tôi hãy giữ lấy cái lưỡi của mình, và bảo rằng một ngày nào đó vào lúc thích hợp tôi sẽ biết. Sau đó chúng tôi ra đi, và chúng tôi phải kiếm sống bằng tất cả khả năng của mình, rong ruổi trong các miền đất, thường thì chìm ngập trong các công việc ở xưởng rèn hay thậm chí đi đào than. Nhưng chúng tôi chẳng bao giờ quên đến những châu báu bị mất cắp của mình. Và thậm chí vào lúc này, khi chúng tôi đã có được những công việc tốt và tình hình chẳng đến nỗi quá bi đát” – nói đến đây Thorin mân mê sợi dây chuỗi vàng vòng quanh cổ ông – “chúng tôi vẫn muốn lấy lại nó và trút những lời nguyền rủa lên đầu Smaug – nếu như chúng tôi có thể.
“Tôi thường băn khoăn không biết cha và ông tôi có trốn thoát được hay không. Bây giờ thì tôi thấy rằng hẳn là phải có những cánh sửa Sườn núi riêng mà chỉ có họ biết mà thôi. Nhưng hình như là họ có một bản đồ, và tôi nên biết vì sao Gandalf giữ nó, và vì sao nó không đến được với tôi, người thừa kế hợp pháp.”
“Tôi chẳng giữ n ó, nó được đưa cho tôi,” thầy phù thuỷ nói.
“Ông Thor của anh đã bị giết, anh hãy nhớ, trong hầm than của Moria, vởi Yêu tinh Azog – “
“Cái tên khốn khiếp, đúng vậy,” Thorin nói.
“Và Thrain cha anh đã ra đi vào ngày hai mươi mốt tháng Tư, ngày thứ Ba cuối cùng của một trăm năm trước, và chẳng bao giờ thấy lại anh từ dạo đó -“
“Đúng, đúng” Thorin nói.
“Thế đấy, cha tôi đã đưa cho tôi vật này để đưa nó cho anh; và nếu như tôi có chọn lựa thời gian và phương cách để làm điều đó, anh không nên kết án tôi, mà hãy biết đến những khó khăn mà tôi đã trải qua để tìm thấy anh. Cha anh đã chẳng nhớ nổi tên của chính mình khi ông ấy đưa tờ giấy này cho tôi, ông ta cũng chẳng nói với tôi tên anh; và với tất cả những điều đó tôi nên được khen ngợi và cám ơn. Nó đây,” ông nói và đưa bản đồ cho Thorin.
“Tôi không hiểu,” Thorin nói, và Bilbo cảm thấy rằng ông cũng muốn một điều y hệt. Sự giải thích vừa rồi hình như chẳng giải thích được gì.
“Ông của anh,” thầy phù thuỷ chậm rãi và buồn rầu nói, “đã đưa bản đồ cho con trai của mình để cho an toàn trước khi ông đi vào hầm than của Moria. Cha của anh đã đi thử vận may của mình với tấm bản đồ sau khi ông của anh bị giết; và ông ta đã có nhiều cuộc mạo hiểm với những tình tiết khó chịu nhất, nhưng ông ấy chẳng bao giờ đến gần được ngọn Núi. Ông ta đã đến đấy như thế nào thì tôi không biết, nhưng tôi tìm thấy ông ta như là một tù nhân trong hầm ngục của Necromancer.”
“Ông làm gì ở đấy?” Thorin hỏi với một cái rùng mình, và tất cả người lùn đều run rẩy.
“Anh chẳng cần bận tâm. Tôi tìm một số thứ, nhưng thường lệ; và đó là những công chuyện kinh doanh nguy hiểm bẩn thỉu. Thậm chí tôi, Gandalf, chỉ vừa mới trốn thoát. Tôi đã cố cứu cha anh, nhưng đã quá trễ. Ông ta đã trở nên ngớ ngẩn và u mê, và đã quên hết mọi thứ chỉ trừ chìa khoá và tấm bản đồ.” “Chúng ta phải trả mối thù lâu đời cho những con yêu tinh ở Moria,” Thorin nói; “chúng ta phải suy nghĩ về Necromancer.”
“Đừng ngu xuẩn! Nó là một kẻ thù mạnh hơn tất cả sức mạnh hợp lực của tất cả những người lùn, nếu như họ có thể tụ tập lại từ bốn phương trời. Điều mà cha anh mong muốn là con trai ông ấy hãy đọc bản đồ và dùng lại chìa khoá. Con rồng và ngọn Núi là đủ đối với anh rồi.”
“Nghe đây!” Bilbo nói, và buột miệng nói lớn lên, “Nghe cái gì?” tất cả đều nói và đột ngột quay sang ông, ông bối rối và trả lời “Nghe điều tôi phải nói!””Nói cái gì?” Họ hỏi.
“À, tôi nói rằng các ông nên đến phương Đông và thăm thú. Sau tất cả những gì diễn ra ở cửa Sườn núi, thì những con rồng phải ngủ một lúc, tôi nghĩ vậy. Nếu các vị ngồi ở ngưỡng cửa đủ lâu, tôi dám nói các vị sẽ nghĩ ra một điều gì đó. Và nữa là, các vị biết không, tôi nghĩ các vị đã nói đủ lâu cho một đêm, các vị biết điều tôi muốn nói chứ. Về cái giường, về một cuộc khởi hành sớm, và tất cả những thứ đó? Tôi sẽ cho các vị một bữa ăn sáng ngon trước khi các vị đi.”
“Trước khi chúng tôi đi, tôi cho rằng anh muốn nói là,” Thorin nói. “Anh chẳng phải là một tay trộm đêm? Và nghề của anh không phải là ngồi ở ngưỡng cửa, chứ đừng có nói đến việc đột nhập vào sau cửa? Nhưng tôi đồng ý về cái giường và bữa sáng. Tôi thích trứng và thịt kẹp khi bắt đầu một cuộc hành trình; chín chứ không phải chỉ luộc qua, và đừng làm nát nó.”
Và sau đó tất cả hội người lùn đều đưa ra thực đơn bữa sáng với thật là nhiều món (làm cho Bilbo bực bội không ít), rồi tất cả đứng dậy. Ong hobbit phải tìm phòng cho cả bọn, họ nằm đầy những phòng khách của ông, lấy ghế và sofa làm giường, trước khi ông kịp sắp xếp bọn họ lại, rồi ông đi về chiếc giường nhỏ của mình, rất mệt mỏi và chẳng cảm thấy hạnh phúc gì. Một điều còn vướng bận trong tâm trí ông là việc đừng quan tâm đến việc phải dậy thật sớm và nấu nướng mọi thứ khác nhau cho cái bữa sáng khủng khiếp kia. Dòng máu Took đã lẩn đi mất, và ông còn chưa dám chắc là ông có tham gia vào bất kỳ cuộc hành trình nào vào sáng mai hay không. Và khi nằm vào giường, ông còn có thể nghe Thorin vẫn còn kêu rền với chính mình trên chiếc giường tốt nhất ngay kế bên ông:
Những ngọn núi giá lạnh mù sương nay ở đâuNhững hang động sâu thẳm chốn ngút ngànChúng ta phải từ bỏ ngày ngày ánh sáng dài lâuĐể tìm lại những vàng bạc xưa kia đã thành quên lãng
Bilbo đi vào giấc ngủ với những thứ như vậy vo ve bên tai, và làm cho ông có những giấc mơ khó chịu. Ngày mới đã qua khá lâu khi ông chợt tỉnh giấc.