Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đấu Trường Sinh Tử- Tập 3: Húng Nhại

Chương 21

Tác giả: Suzanne Collins

21.1

Như vậy thành ra trong vòng chưa đầy một tiếng đồng hồ đã có hai yêu cầu đòi lấy mạng Peeta.

“Đừng có dớ dẩn thế,” Jackson nói.

“Tôi đã giết một thành viên trong đội của chúng ta!” Peeta hét lên.

“Cậu chỉ đẩy anh ấy ra thôi. Làm sao cậu biết anh ấy lại kích hoạt tấm lưới ở đúng chỗ đó chứ,” Finnick lên tiếng, cố xoa dịu cậu.

“Thì sao? Đằng nào anh ấy cũng chết rồi.” Lệ bắt đầu lăn dài trên mặt Peeta. “Thế mà tôi không biết. Tôi chưa từng thấy bản thân mình như vậy bao giờ. Katniss nói đúng. Tôi là quái vật. Tôi là con mút. Tôi là kẻ mà Snow đã biến thành một thứ vũ khí.”

“Đó không phải lỗi của cậu, Peeta à,” Finnick nói.

“Mọi người không thể đưa tôi đi cùng được. Giờ việc của tôi giết người chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.” Peeta nhìn quanh những khuôn mặt đầy vẻ mâu thuẫn của chúng tôi. “Chắc mọi người cho rằng bỏ tôi lại đâu đó thì nhân đạo hơn. Phó mặc cho may rủi. Nhưng làm thế cũng giống như giao nộp tôi lại cho Capitol thôi. Mọi người có nghĩ là trả tôi lại cho Snow chính là giúp tôi không?”

Peeta. Rơi trở lại vào tay Snow. Bị tra tấn giày vò cho đến khi không một chút bản ngã trước đây nào có cơ khôi phục được nữa.

Không hiểu sao, khổ cuối cùng trong bài “Cây Treo cổ” bắt đầu dạo qua đầu tôi. Cái đoạn mà người đàn ông thà muốn tình nhân mình chết còn hơn là để cô đối mặt với tai họa rập rình trong thế giới thực.

“Em có, em có

Đến bên cây

Bầu bạn bên tôi, cổ tròng dây

Nơi đây đã xảy ra bao điều kỳ dị

Nào còn chi lạ lẫm

Nếu nửa đêm ta gặp nhau bên cây treo cổ.”

“Tôi sẽ giết cậu trước khi chuyện đó xảy ra,” Gale nói. “Tôi đảm bảo đấy.”

Peeta ngập ngừng, như thể cân nhắc độ tin cậy của đề nghị đó, rồi lắc đầu. “Chẳng ích gì đâu. Ngộ nhỡ anh không ở đó để ra tay thì sao? Tôi muốn có một viên thuốc độc như những người còn lại.”

Dâu độc. Còn một viên ở doanh trại, trong nếp gấp tay áo của bộ Húng nhại. Nhưng vẫn còn một viên nữa trong túi ngực áo đồng phục của tôi. Lạ ở chỗ là người ta không cho Peeta một viên. Có lẽ Coin sợ cậu sẽ dùng đến nó trước khi có cơ hội giết tôi. Không rõ liệu Peeta có ý tự kết liễu mình bây giờ, tha cho chúng tôi khỏi phải giết cậu, hay chỉ khi bị Capitol bắt giữ trở lại cậu mới làm vậy. Với tình trạng của cậu hiện giờ, tôi mong cậu ra tay sớm chừng nào thì tốt chừng ấy. Chắc chắn sẽ khiến những người còn lại đỡ khó xử hơn. Không phải bắn cậu. Chắc chắn sẽ đơn giản hóa vấn đề đối phó với những cơn sát khí của cậu.

21.2

Không biết do đống kén, hay nỗi sợ hãi, hay việc chứng kiến Boggs chết mà tôi cảm thấy quanh mình là trường đấu. Như thể tôi chưa từng rời khỏi đó, thực sự. Một lần nữa tôi lại chiến đấu không chỉ vì sự sống của chính bản thân mà còn vì của Peeta. Snow hẳn sẽ thấy thỏa mãn hể hả lắm khi bắt được tôi giết cậu. Khiến tôi phải day dứt vì cái chết của cậu trong suốt phần đời còn lại.

“Không liên quan đến cậu,” tôi nói. “Chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ. Và nhiệm vụ này cần cậu.” Tôi quay sang nhìn những người còn lại. “Nghĩ xem ta có thể tìm thấy ít đồ ăn ở đây không?”

Ngoài bộ sơ cứu và máy quay, chúng tôi chỉ có mỗi đồng phục và vũ khí.

Nửa số người ở lại trông chừng Peeta hoặc canh bài phát biểu của Snow, trong khi những người khác lục tìm cái ăn. Messalla chứng tỏ mình hữu dụng nhất vì anh từng sống ở một nơi gần giống căn hộ này nên biết người ta hay trữ đồ ăn ở đâu. Chẳng hạn như một cái kho chứa được che đậy bằng tấm gương trong phòng ngủ thế nào, hay dễ dàng bung màn thông gió ở hành lang ra sao. Thành thử dù tủ bếp trống rỗng, chúng tôi vẫn tìm thấy ba mươi món đồ hộp và mấy hộp bánh quy.

Việc tích trữ này khiến cho những chiến binh lớn lên ở Quận 13 thấy phản cảm. “Không phải làm thế là bất hợp pháp sao?” Leeg 1 nói.

“Ngược lại, ở Capitol thì có dở người mới không làm thế,” Messalla bác lại. “Kể cả trước Huyết trường Tứ phân, người ta đã bắt đầu tích trữ đồ khan hiếm rồi.”

“Trong khi những người khác thì không có gì,” Leeg 1 nói.

“Phải,” Messalla đáp. “Ở đây thì như vậy đấy.”

“May thật, nếu không chúng ta chẳng có gì bỏ bụng rồi,” Gale nói. “Mỗi người lấy một hộp đi.”

Vài người có vẻ ngần ngại, nhưng cách này quả thực hữu hiệu không kém bất kỳ cách nào. Tôi thật chẳng có lòng dạ nào mà chia mọi thứ thành mười một phần bằng nhau, tính đến tuổi tác, cân nặng, năng lương tiêu hao. Tôi lục lọi một chồng, định lấy xúp cá tuyết cho xong thì Peeta chìa một lon cho tôi. “Này.”

Tôi nhận lấy, không biết phải trông đợi điều gì. Nhãn lon ghi THỊT CỪU HẦM.

Tôi mím môi nhớ lại những giọt mưa rỉ qua kẽ đá, nỗ lực tán tỉnh đầy vụng về của mình, và mùi món ăn Capitol yêu thích thoảng trong bầu không khí lạnh ngắt. Hẳn là chuyện đó cũng đọng lại phần nào trong đầu cậu. Chúng tôi đã hạnh phúc làm sao, đói ngấu thế nào, gần gũi biết bao khi cái giỏ picnic đó hạ xuống hang. “Cảm ơn”. Tôi bật mở nắp lon. “Nó còn có cả mận khô nữa này.” Tôi bẻ nắp dùng tạm thay muỗng, húp một ngụm nhỏ. Giờ thì nơi này cũng có vị như trường đấu rồi.

21.3

Chúng tôi đang chuyền nhau một hộp bánh quy kem ngon ngọt thì tiếng bíp lại vang lên. Dấu hiệu Panem sáng lên trên màn hình và cứ sáng mãi trong suốt bài quốc ca. Và rồi chúng bắt đầu trưng ảnh của những người chết lên, hệt như chúng từng làm với các vật tế nơi trường đấu. Đầu tiên là bốn gương mặt của đoàn quay phim, tiếp theo là Boggs, Gale, Finnick, Peeta và tôi. Ngoài Boggs ra, chúng không quan tâm đến những chiến binh Quận 13 khác, bởi chúng chẳng biết họ là ai hoặc vì chúng biết họ chả có ý nghĩa gì với khán giả. Rồi ông ta đích thân xuất hiện, ngự trên ghế, cờ rủ sau lưng, bông hồng trắng tươi nguyên rõ ràng trên ve áo. Tôi nghĩ chắc hẳn gần đây ông ta mông má nhiều hơn, vì môi ông ta phồng hơn thường lệ. Đội chuẩn bị đáng ra nên đánh má hồng cho ông ta nhẹ nhàng hơn mới phải.

Snow chúc mừng bọn Trị an viên vì đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ, tuyên dương chúng vì đã lèo lái đất nước thoát khỏi mối hiểm họa mang tên Húng nhại. Với cái chết của tôi, ông ta tiên đoán rằng chiến tranh sẽ đổi chiều, vì đám phiến quân thoái chí chằng còn ai mà theo. Mà thật ra thì tôi là cái giống gì? Một con bé nghèo khổ, tâm tính bất ổn, có tí tài năng bắn cung. Không phải nhà tư tưởng lỗi lạc, cũng chẳng phải bộ óc của cuộc nổi dậy, chỉ là một khuôn mặt ắt ơ được lôi lên từ đám dân đen vì tôi đã thu hút được chú ý của cả nước bằng trò hề ở Đấu trường. Nhưng lại cần thiết, cực kỳ cần thiết, bởi phiến quân chẳng có vị lãnh đạo thực thụ nào.

Đâu đó ở Quận 13, Beetee đã chèn sóng, vì lúc này người nhìn chúng tôi không phải Tổng thống Snow mà là Thống đốc Coin. Bà ta tự giới thiệu bản thân với Panem, nhận mình là thủ lĩnh nổi dậy, rồi đọc điếu văn về tôi. Ca tụng cô gái trẻ đã sống sót khỏi Vỉa than và Đấu đường Sinh tử, biến một đất nước nô lệ thành một đội quân của những chiến binh chiến đấu vì tự do. “Dẫu sống hay chết, Katniss Everdeen sẽ vẫn là gương mặt của cuộc nổi dậy này. Nếu có lúc nào bạn nao núng quyết tâm, hãy nghĩ đến Húng nhại, bạn sẽ tìm thấy sức mạnh cần thiết để đưa Panem thoát khỏi áp bức.”

“Hóa ra là tôi có ý nghĩa với bà ta nhiều đến thế cơ đấy,” tôi nói khiến Gale bật cười còn những người khác thì giương mắt dò hỏi.

Tiếp theo là bức ảnh chụp tôi bị chỉnh sửa quá đà, trông xinh đẹp nhưng dữ tợn với chùm lửa bập bùng sau lưng. Không lời lẽ. Không khẩu hiệu. Khuôn mặt tôi là tất cả những gì mà họ cần.

Beetee trả lại quyền kiểm soát cho một Snow cực kỳ điềm tĩnh. Tôi có cảm giác tổng thống cho rằng kênh khẩn cấp là bất khả xâm nhập, và tối nay sẽ có kẻ phải chết vì đã để nó bị chèn sóng. “Sáng mai, khi chúng ta kéo xác Katniss Everdeen khỏi đống tro tàn, chúng ta sẽ thấy chính xác Húng nhại là ai. Một cô gái đã chết không thể cứu mạng ai, kể cả chính mình.” Dấu triện, quốc ca, rồi kết thúc.

21.4

“Chỉ có điều các người sẽ không tìm thấy cô ấy đâu,” Finnick nói với màn hình trống trơn, nói to điều mà tất cả chúng tôi có lẽ đang nghĩ. Thời gian gia hạn sẽ rất ngắn ngủi. Một khi đào bới khắp đống tro tàn mà không thấy mười một thi thể, chúng sẽ biết chúng tôi đã trốn thoát.

“Ít nhất chúng ta cũng có thể ra tay trước,” tôi nói. Bỗng nhiên tôi thấy mệt mỏi rã rời. Tôi chỉ muốn nằm xuống chiếc sofa bọc nhung lông màu xanh lá gần đó mà đánh một giấc. Cuộn mình trong chiếc chăn lông thỏ pha lông ngỗng. Thay vào đó, tôi lại lôi Ảnh nổi ra khăng khăng nhờ Jackson giải thích cặn kẽ các lệnh cơ bản – thực ra là nhập các tọa độ của giao điểm lưới bản đồ gần nhất – để ít ra tôi có thê tự mình vận hành nó. Khi Ảnh nổi chiếu cảnh khu vực xung quanh lên, tôi cảm thấy lòng mình còn chùng xuống hơn. Chúng tôi hẳn đang tiến gần hơn tới các mục tiêu trọng yếu, bởi số lượng kén đã tăng lên đáng kể. Làm sao chúng tôi có thể tiến đến chùm sáng nhấp nháy kia mà không bị phát hiện. Chúng tôi không thể. Mà nếu không thể thì chúng tôi bị mắc kẹt như lũ chim trong bẫy. Tôi quyết định tốt nhất là đừng tỏ ra giỏi giang hơn khi ở cùng những người này. Nhất là khi ánhh mắt tôi cứ lờ đờ đáp xuống cái sofa xanh kia. Thành thử tôi nói, “Có ý kiến gì không?”

“Sao chúng ta không bắt đầu bằng cách loại trừ các khả năng,” Finnick nói. “Đường phố không phải là một khả năng.”

“Mái nhà cũng tệ không kém đường phố,” Leeg 1 nói

“Chúng ta vẫn có thể có cơ hội rút lui, quay lại bằng lối đã đến,” Homes nói. “Nhưng thế tức là nhiệm vụ thất bại.”

Cảm giác tội lỗi nhói lên trong tôi vì tôi đã bịa ra cái nhiệm vụ ấy. “Nó không hề bắt tất cả chúng ta phải dấn thân. Mọi người thật bất hạnh khi ở cùng tôi.”

“Chà, cái đấy thì còn phải bàn. Giờ chúng tôi ở cùng cô rồi,” Jackson nói. “Vậy chúng ta không thể ở nguyên một chỗ. Chúng ta không thể tiến lên trên. Chúng ta không thể tiến sang bên, tôi nghĩ chỉ còn lại một lựa chọn thôi.”

“Dưới lòng đất,” Gale nói

Dưới lòng đất. Đúng thứ tôi ghét. Như các mỏ than và đường hầm và Quận 13. Dưới lòng đất, tôi sợ chết dưới đó lắm, một điều thật ngớ ngắn vì dù tôi có chết trên mặt đất thì đằng nào họ cũng sẽ chôn tôi sâu ba tấc đất.

21.5

Ảnh nổi có thể cho thấy những cái kén ngầm trong lòng đất cũng như trên đường phố. Tôi nhận ra khi chúng tôi đi dưới lòng đất, những đường thẳng đều đặn gọn gàng của sơ đồ đường phố đan xen với mạng lưới đường hầm rối rắm nhằng nhịt. Tuy nhiên, số kén trông ít hơn hẳn.

Cách đây hai nhà, có một ống đứng nối dãy căn hộ với đường hầm. Để tới được căn hộ chưa ống nối, chúng tôi sẽ phải len lách qua một ống bảo dưỡng chạy suốt chiều dài tòa nhà. Chúng tôi có thể vào đường hầm thông qua phía sau tủ quần áo ở tầng trên.

“Được rồi, hãy làm như chúng ta chưa bao giờ tới đây,” tôi nói. Xóa sạch mọi dấu vết chứng tỏ chúng tôi từng lưu lại đây. Vứt mấy cái lon rỗng vào ống thải rác, cất những lon còn nguyên vào túi, lật lại đám gối tựa sofa lấm máu, lau chùi vết keo bám trên gạch. Không sửa được then cài cửa chính, nhưng chúng tôi sập chốt cửa thứ hai, ít nhất cũng giữ cửa khỏi đung đưa mở ra khi có tác động.

Cuối cùng, chỉ còn phải xử trí với Peeta. Cậu dán chặt vào chiếc sofa xanh dương, không chịu nhúc nhích. “Tôi không đi đâu. Tôi sẽ để lộ vị trí của mọi người hoặc làm hại người khác mất.”

“Người của Snow sẽ tìm thấy cậu,” Finnick cảnh báo.

“Thế thì để lại cho tôi một viên. Tôi sẽ chỉ uống trong trường hợp bắt buộc,” Peeta nói.

“Đấy không phải lựa chọn hay đâu. Cùng đi đi,” Jackson bảo.

“Nếu không thì các người sẽ làm gì? Bắn tôi chắc?” Peeta hỏi vặn.

“Chúng tôi sẽ nện cho cậu bất tỉnh rồi kéo cậu đi cùng,” Homes nói. “Làm thế vừa khiến chúng ta vừa đi chậm hơn vừa bị nguy hiểm.”

“Đừng làm ra vẻ cao thượng nữa đi! Tôi cóc quan tâm mình có chết hay không!” Cậu quay sang tôi, giở giọng nài nỉ. “Katniss à, xin cậu đấy. Cậu không thấy là tớ muốn thoát khỏi chuyện này sao?”

Vấn đề là, tôi có thấy. Tại sao tôi không thể cứ để cậu đi? Dúi cho cậu viên thuốc, kéo cò súng? Là bởi tôi quá lo cho Peeta hay quá lo sẽ để Snow chiến thắng? Có phải tôi đã biến cậu thành một phần trong Đấu trường của riêng tôi? Thế thì thật quá đáng, nhưng tôi không chắc là mình không như vậy. Nếu đúng thế thì giết Peeta ngay tại đây và ngay lúc này là nhân từ nhất. Nhưng bất luận ra sao, tôi cũng không vì nhân từ mà bị chi phối. “Chúng ta đang phí thời gian đấy. Cậu không tình nguyện đi hay để bọn tớ nện cho bất tỉnh đây?”

Peeta vùi mặt vào tay một lát rồi đứng lên nhập hội.

“Có nên tháo còng tay cho cậu ấy không?” Leeg 1 hỏi.

“Không!” Peeta gầm gừ với cô, thu còng tay về sát người hơn.

“Không,” tôi nhắc lại. “Nhưng tôi muốn có chìa khóa.” Jackson lẳng lặng chuyền chía khóa cho tôi. Tôi nhét vào túi quần, nó va lanh canh vào hạt trai nằm trong đó.

21.6

Khi Homes đẩy mở cánh cửa kim loại nhỏ dẫn vào ống bảo dưỡng, chúng tôi vấp phải một vấn đề khác. Bộ vỏ côn trùng kia không thể chui qua lối đi hẹp. Castor và Pollux bèn tháo bỏ đống thiết bị và gỡ máy quay hỗ trợ khẩn cấp ra. Mỗi chiếc to bằng hộp giày và có lẽ cũng có tác dụng tương tự. Messalla không nghĩ ra cách khả dĩ nào khác để giấu mấy bộ độ cồng kềnh này nên chúng tôi đành quẳng chúng vào tủ quần áo. Để lại dấu vết dễ theo đến vậy khiến tôi bứt rứt không yên, nhưng chúng tôi biết làm gì khác đây?

Dù từng người một nối đuôi nhau, ba lô và đồ nghề kéo theo bên cạnh thì cũng chỉ vừa khít. Chúng tôi men qua căn hộ thứ nhất rồi đột nhập vào căn thứ hai. Trong căn nhà này có một phòng ngủ không buồng tắm, thay vào đó là một cánh cửa đề chữ KHO. Đằng sau cửa là một căn buồng dẫn vào miệng ống.

Messalla nhướng mày trước cánh cửa rộng tròn, bỗng lại nhặng xị cả lên. “Thế nên mới chả ai muốn ở khu giữa. Công nhân cứ chui ra chui vào bất kỳ lúc nào mà chỉ có một buồng tắm. Nhưng tiền thuê thì rẻ hơn hẳn.” Rồi anh nhận ra nét mặt buồn cười của Finnick bèn thêm vào, “Mà thôi không sao.”

Cửa ống mở ra khá đơn giản. Một cái thang rộng, bậc thang lót cao su giúp ta nhanh nhẹn dễ dàng xuống sâu lòng thành phố. Chúng tôi tập trung ở chân cầu thang, đợi cho mắt thích nghi với những dải sáng lờ mờ, hít vào thứ mùi hỗn độn của hóa chất, nấm mốc và nước thải.

Pollux, nhợt nhạt và đầm đìa mồ hôi, nhoài người nắm chặt cổ tay Castor. Như thể anh sắp ngã tới nơi nếu không có ai đỡ.

“Anh tôi từng làm việc dưới đây sau khi bị biến thành Avox,” Castor nói. Tất nhiên rồi. Còn ai bảo dưỡng những đường ống nhớp nhúa bốc mùi xú uế cài đầy kén đây? “Mất năm năm chúng tôi mới chạy được cho anh ấy lên mặt đất. Dạo ấy chằng nhìn thấy mặt trời một lần.”

Nếu ở vào hoàn cảnh khá khẩm hơn, vào một ngày ít sợ hãi và nhiều thư thái hơn, sẽ có người chắn chắn biết phải nói gì. Nhưng lúc này cả đám chúng tôi chỉ đứng trơ mãi hồi lâu, cố nặn một câu trả lời.

Cuối cùng, Peeta quay sang Pollux. “Vậy thì anh trở thành tài sản đáng giá nhất của chúng ta rồi đấy.” Castor cười thành tiếng còn Pollux cũng gượng cười.

Chúng tôi đi được nửa quãng đường hầm đầu tiên thì tôi phát hiện ra nét biến đổi rõ rệt. Peeta có vẻ giống con người trước đây của cậu, cái người luôn biết cách nói gì cho phải trong khi những kẻ khác ngậm tăm. Mỉa mai, khích lệ, phảng phất vẻ hài hước, mà không nhạo báng bất kỳ ai. Tôi liếc nhìn cậu đang lê bước sau hai người giám sát, Gale và Jackson, mắt dán chặt xuống đất, vai nhô ra phía trước. Không chút nhuệ khí. Nhưng trong giây khắc, cậu đã thực sự ở đó.

21.7

Peeta nói đúng. Pollux hóa ra lại giá trị bằng mười cái Ảnh nổi. Có một mạng lưới đơn giản các đường hầm thoáng rộng tương ứng thẳng với sơ đồ phố chính phía trên, nằm dưới các đại lộ và giao lộ chính. Nó từng được gọi là Bến Trung chuyển vì những xe hàng nhỏ dùng hệ thống này để chuyển hàng hóa khắp thành phố. Ban ngày, nhiều cái kén bị ngưng hoạt động, nhưng ban đêm thì đây đúng là bãi mìn. Tuy nhiên, hàng trăm ống dẫn, hầm diện tích, đường tàu và ống thoát nước bổ sung tạo thành một mê cung đa tầng. Pollux biết rõ những chi tiết sẽ dẫn tới thảm họa với người lạ nước lạ cái, chẳng hạn như nhánh nào buộc ta phải đeo mặt nạ phòng độc hay có dây điện hở hay lũ chuột to bằng con hải ly. Anh báo động cho chúng tôi về luồng nước định kỳ xối qua cống thải, đoán định thời gian các Avox thay ca, dẫn chúng tôi vào những đường ống ẩm ướt tối tăm để tránh những con tàu chở hàng gần như không phát ra tiếng. Quan trọng hơn cả, anh biết chỗ nào có máy quay. Dưới nơi u ám ẩm thấp này thì không có mấy, ngoại trừ Bến Trung chuyển. Nhưng chúng tôi vẫn né được khá tốt.

Dưới sự hướng dẫn của Pollux, chúng tôi đã tiến hành thật suôn sẻ – thông đồng bén giọt, nếu so với lúc di chuyển trên mặt đất. Sau khoảng sáu tiếng thì mệt bở hơi tai. Đã ba giờ sáng, tôi đoán vẫn còn vài tiếng trước khi chúng phát hiện ra thi thể chúng tôi bị mất tích, xới tung cả chung cư đổ nát phòng trường hợp chúng tôi tìm cách chạy trốn qua đường hầm, và cuộc săn bắt đầu.

Khi tôi đề nghị nghỉ chân, không ai lên tiếng phản đối. Pollux tìm thấy một căn phòng nhỏ ấm áp ầm ì tiếng máy móc nặng trĩu cần gạt và mặt số. Anh giơ ngón tay lên ngụ ý rằng bốn tiếng nữa là chúng tôi phải đi. Jackson lên lịch gác, và vì tôi không phải gác ca đầu tiên nên tôi chui vào khoảng trống hẹp giữa Gale và Leeg 1 ngủ liền một mạch.

Khi Jackson lay tôi dậy bảo đã đến phiên gác, cứ ngỡ như mới có vài phút trôi qua vậy. Giờ là sáu giờ, còn một tiếng nữa là chúng tôi phải lên đường. Jackson bảo tôi ăn một lon đồ hộp lót dạ và để mắt tới Pollux, vốn cứ khăng khăng đòi gác cả đêm. “Cậu ta không thể ngủ nổi dưới này.” Tôi mệt nhọc cố gắng cảnh giác tương đối, ăn một lon khoai tây và đậu hầm, ngồi sát bức tường đối diện cánh cửa. Pollux nom tỉnh như sáo. Có lẽ cả đêm qua anh đã sống lại năm năm cầm tù ấy. Tôi lôi Ảnh nổi ra loay hoay nhập các tọa độ lưới ô vuông và rà quét các đường hầm. Quả đúng như dự đoán, càng xuất hiện nhiều kén thì càng tới gần trung tâm Capitol. Pollux và tôi hí hoáy bấm lách cách một lát, xem những bẫy nào nằm ở đâu. Khi đầu tôi bắt đầu quay mòng mòng, tôi đưa máy cho anh rồi dựa hẳn vào tường. Tôi nhìn xuống các chiến binh, đội quay phim và những người bạn đang ngủ, tự hỏi bao nhiêu người trong chúng tôi sẽ có dịp trông thấy mặt trời lần nữa.

Khi mặt tôi dừng lại chỗ Peeta, đầu cậu kề ngay chân tôi, tôi thấy cậu vẫn thức. Ước gì tôi có thể đọc được suy nghĩ trong đầu cậu, có thể xâm nhập vào mà tháo gõ mớ dối trá nhằng nhịt kia. Rồi tôi đành dùng tạm một cách.

“Cậu ăn chưa?” tôi hỏi. Cậu khẽ lắc đầu hàm ý chưa. Tôi mở một lon cháo gà ra đưa cho cậu, vẫn giữ cái nắp kẻo cậu lại dùng nó cứa cổ tay mình. Cậu ngồi dậy, nghiêng nghiêng cái lon, nuốt cháo ừng ực chẳng buồn nhai. Đáy lon phản chiếu ánh sáng từ các cỗ máy khiến tôi nhớ ra một điều lấn cấn thấp thoáng trong tâm trí suốt từ hôm qua. “Peeta à, khi cậu hỏi về chuyện đã xảy ra với Darius và Lavinia, và Boggs bảo cậu rằng đó là thực, cậu nói cậu cũng nghĩ như vậy. Bởi nó chẳng có gì lấp lánh cả. Ý cậu là gì?”

“Ồ. Tớ không rõ phải giải thích thế nào,” cậu bảo tôi. “Ban đầu, mọi thứ hoàn toàn rối loạn. Giờ thì tớ thông được phần nào rồi. Tớ nghĩ là có một khuôn mẫu nổi lên ở đây. Những ký ức đã bị chúng bóp méo bằng nọc độc bắt-là-cắt có thứ tính năng đặc biệt này. Chúng quá mạnh mẽ hay hình ảnh không ổn định chẳng hạn. Cậu còn nhớ lúc chúng ta bị đốt thì như thế nào không?”

“Cây bị xẻ toác. Có những con bướm sặc sỡ khổng lồ. Tớ bị rơi xuống một cái hố sủi bọt cam.” Tôi ngẫm ngợi. “Đám bọt cam lấp lánh.”

“Đúng rồi. Nhưng chuyện về Darius và Lavinia thì không có gì giống như vậy. Có lẽ khi ấy chúng chưa tiêm cho tớ chút nọc độc nào,” cậu nói.

“Ừm, thế há chẳng tốt sao?” tôi hỏi. “Nếu cậu tách biệt được hai thứ đó thì cậu sẽ nhận ra cái gì là đúng.”

“Ừ. Và nếu tớ mọc cánh, tớ có thể bay được. Chỉ có điều người ta không thể mọc cánh,” cậu nói. “Thực hay không thực?”

“Thực,” tôi đáp, “Nhưng người ta không cần cánh để sống sót.”

“Húng nhại cần.” Cậu ăn nốt chỗ xúp rồi đưa lại cái lon rỗng cho tôi.

Dưới ánh đèn huỳnh quang, quầng mắt cậu nom như những vết thâm tím. “Vẫn còn thời gian đấy. Cậu chợp mắt chút đi.” Không cãi lại, cậu nằm xuống, nhưng vẫn chằm chằm nhìn một cây kim trên mặt số giần giật di chuyển từ bên nọ sang bên kia. Chầm chậm, như làm với một con thú bị thương, tôi vươn tay ra vuốt một lọn tóc khỏi trán cậu. Cậu cứng đờ trước cái chạm của tôi, nhưng không co rúm lại. Nên tôi cứ dịu dàng vuốt tóc cậu ra sau. Đây là lần đầu tiên tôi cố ý chạm vào cậu từ sau bận ở trường đấu lần trước.

“Cậu vẫn cố bảo vệ tớ. Thực hay không thực,” cậu thầm thì.

“Thực,” tôi đáp. Có vẻ cần giải thích rõ hơn. “Bởi đó là việc của chúng ta. Bảo vệ lẫn nhau.” Sau chừng một phút, cậu thiếp ngủ.

Gần bảy giờ, Pollux và tôi đi lại giữa mọi người, đánh thức họ dậy. Họ ngái ngủ tỉnh dậy cùng tiếng ngáp và thở dài quen thuộc. Nhưng tai tôi còn nghe ra một âm thanh khác nữa. Gần như tiếng rít vậy. Có lẽ đó chỉ là tiếng hơi nước xì ra khỏi ống hay tiếng còi hụ xa xa…

Tôi suỵt cả nhóm để nghe cho rõ hơn. Đúng là có tiếng rít, nhưng không phải là một âm thanh kéo dài. Giống như nhiều tiếng thở tựu thành từ ngữ. Một từ duy nhất. Vang vọng khắp đường hầm. Một từ. Một cái tên. Lặp đi lặp lại mãi.

“Katniss.”

Bình luận
720
× sticky