Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đấu Trường Sinh Tử- Tập 3: Húng Nhại

Chương 5

Tác giả: Suzanne Collins

5.1

Lại một thế lực nữa phải đương đầu. Thêm một người chơi quyền năng đã quyết định sử dụng tôi làm quân cờ trên bàn cờ của bà ta, dù mọi việc có vẻ chẳng bao giờ theo đúng kế hoạch. Đầu tiên là Ban Tổ chức Đấu trường Sinh tử, biến tôi thành ngôi sao của họ rồi phải chật vật lấy lại uy thế từ sau vụ nắm dâu độc. Tiếp đến là Tổng thống Snow, cố lợi dụng tôi để dập tắt ngọn lửa phiến loạn, nhưng chỉ tổ khiến mỗi nước đi của tôi trở nên khích động hơn. Kế đó, phiến quân gài bẫy đưa tôi rời khỏi trường đấu bằng móc kim loại, chỉ định tôi làm Húng nhại của họ, rồi lại phải vượt qua cú sốc khi tôi không muốn mang trên vai đôi cánh ấy. Và giờ đến lượt Coin, nắm trong tay vũ khí hạt nhân quý giá và một quận vận hành trơn tru, thấy rằng chuẩn bị đâu vào đấy cho Húng nhại còn khó hơn cả việc tìm ra biểu tượng ấy. Nhưng bà ta đã cực kỳ tinh tường xác định rằng tôi có kế hoạch của riêng mình và do đó không đáng tin cậy. Bà ta là người đầu tiên công khai nhìn nhận tôi là mối hiểm họa.

Tôi lùa tay qua lớp bọt xà phòng dày trong bồn tắm. Vệ sinh thân thể chỉ là bước cơ bản để xác định ngoại hình mới của tôi. Với mái tóc bị hủy hoại vì a xít, làn da cháy nắng, cùng những vết sẹo xấu xí của tôi, đội chuẩn bị phải biến tôi thành cô nàng xinh đẹp và rồi lại hủy hoại, làm bỏng và tạo sẹo cho tôi theo phong cách thu hút hơn.

“Tái tạo cô ấy thành Người đẹp Tiềm ẩn” sáng nay Fulvia ra mệnh lệnh đầu tiên. “Chúng ta sẽ bắt đầu từ đó.” Người đẹp Tiềm ẩn hóa ra là người trông như vừa ra khỏi giường, hoàn mỹ nhưng tự nhiên. Tức là móng tay của tôi được cắt tỉa nhưng không bóng bẩy. Tóc bóng mềm nhưng không kiểu cách. Da láng mịn nhưng không được tô vẽ. Tẩy lông toàn thân và xóa mờ những quầng thâm, nhưng không được có điểm nào nổi bật quá thu hút sự chú ý. Có lẽ Cinna cũng đã đưa ra những chỉ dẫn y hệt vào ngày đầu tiên tôi đến Capitol với tư cách vật tế. Chỉ khác một điều, hồi đó tôi là đấu thủ. Là kẻ nổi dậy, những tưởng trông tôi sẽ giống chính mình hơn. Nhưng có vẻ một kẻ nổi dậy được truyền hình trực tiếp phải đáp ứng được những tiêu chuẩn riêng.

Sau khi xả hết bọt trên người, tôi quay sang thấy Octavia cầm khăn đợi sẵn. Chị đã khác xưa nhiều, không còn là người phụ nữ tôi từng biết ở Capitol, còn đâu những bộ trang phục lòe loẹt, lớp trang điểm dày cộp, thuốc nhuộm cùng châu ngọc và những đồ trang sức hầm bà làng khác mà chị vẫn điểm tô cho mái tóc. Tôi vẫn nhớ cái ngày chị xuất hiện với mái tóc nhuộm hồng rực đính những ngọn đèn màu nhấp nháy trông chẳng khác gì đàn chuột nhắt. Chị nói ở nhà chị có nuôi mấy con chuột cảnh. Khi ấy ý nghĩ đó làm tôi ghê tởm, vì chúng tôi vẫn coi chuột là động vật có hại, trừ phi được nấu chín. Nhưng có lẽ Octavia thích chúng vì chúng nhỏ nhắn, mềm mại, và kêu chít chít. Như chị vậy. Khi chị lau khô người tôi, tôi cố làm quen với hình ảnh Octavia ở Quận 13. Tóc thật của chị hóa ra có màu vàng nâu thanh nhã. Khuôn mặt tuy bình thường nhưng toát lên vẻ đáng yêu không gì phủ nhận được. Trông chị trẻ hơn tôi nghĩ. Có lẽ vừa ngoài hai mươi. Không còn những móng tay trang trí dài ngót chục phân, giờ ngón tay chị trông khá múp míp và đang run rẩy không ngừng. Tôi muốn nói với chị rằng mọi chuyển ổn rồi, rằng tôi sẽ trông coi để Coin không bao giờ làm hại chị nữa. Nhưng những vết thâm tím đủ màu loang lổ dưới làn da xanh của chị chỉ nhắc tôi nhớ rằng mình bất lực đến nhường nào.

Flavius cũng có vẻ nhợt nhạt hẳn khi không có lớp son tím và những bộ cánh sặc sỡ. Dù vậy anh vẫn cố chỉnh trang những lọn tóc vàng cam cho gọn gàng như trước. Chỉ có Venia là ít thay đổi nhất. Mái tóc xanh biển của bà bẹp gí thay vì thắt lại từng búi nhọn và ta có thể thấy chân tóc bà đã điểm bạc. Tuy nhiên, những hình xăm vẫn luôn là đặc điểm ấn tượng nhất ở bà, vẫn ánh vàng và nổi bần bật như mọi khi. Bà đến lấy chiếc khăn khỏi tay Octavia. “Katniss không làm hại chúng ta đâu,” bà nói với Octavia, giọng nhẹ nhàng nhưng cứng rắn. “Katniss thậm chí còn không biết chúng ta ở đây. Giờ sẽ ổn thôi.” Octavia khẽ gật đầu nhưng vẫn không dám nhìn vào mắt tôi.

Đưa tôi trở lại hình ảnh Người đẹp Tiềm ẩn chẳng phải công việc đơn giản, dù với cả kho sản phẩm, công cụ và đồ dùng tinh xảo mà Plutarch đã lo xa mang theo từ Capitol. Đội chuẩn bị của tôi làm khá tốt cho đến khi họ cố xử lý vết sẹo mà Johanna để lại khi cứa tay tôi để lấy máy định vị. Không ai trong đội cứu thương tập trung vào vấn đề thẩm mỹ khi băng vết thương hở miệng đó. Giờ thì tôi có một cái sẹo lồi thô ráp nham nhở to bằng quả táo. Bình thường nó được che phủ dưới tay áo, nhưng trang phục Húng nhại mà Cinna thiết kế thì tay áo lại dài chấm khuỷu. Đó là một vấn đề nan giải đến nỗi phải triệu tập Fulvia và Plutarch để thảo luận. Tôi thề rằng nhìn thấy vết sẹo là Fulvia nghẹn họng luôn. So với một người từng làm việc trong Ban Tổ chức Đấu trường Sinh tử thì cô ta đúng là nhạy cảm quá mức. Nhưng chắc cô ta chỉ quen nhìn những thứ kinh khủng qua màn hình.

“Ai cũng biết tôi có sẹo ở đây mà.” tôi ủ rũ nói.

“Biết và nhìn thấy là hai việc khác hẳn nhau,” Fulvia nói. “Trông ghê hết cả người. Plutarch và tôi sẽ nghĩ ra cách gì đó trong bữa trưa.”

“Sẽ ổn thôi.” Plutarch hờ hững phẩy tay. “Băng tay chẳng hạn.”

Cảm thấy khó chịu, tôi thay đồ đến phòng ăn. Đội chuẩn bị túm tụm thành nhóm nhỏ bên cửa. “Họ có mang đồ ăn đến đây cho mọi người không?” tôi hỏi.

“Không.” Venia đáp. “Chúng tôi phải đến phòng ăn.”

Tôi thầm thở dài khi nghĩ đến cảnh bước vào phòng ăn, kéo theo ba người bọn họ. Nhưng chẳng phải lúc nào người ta cũng nhìn tôi chằm chằm sao. Đằng nào chả chế. “Cháu sẽ dẫn đường cho mọi người,” tôi nói. “Đi nào.”

5.2

Những cái liếc trộm và tiếng xì xào khe khẽ mà tôi thường hứng chịu chẳng là gì so với phản ứng của đám đông trước vẻ ngoài kỳ dị của đội chuẩn bị. Miệng há hốc, tay chỉ trỏ, rồi ồ à các kiểu.

“Cứ kệ họ đi,” tôi nói với đội chuẩn bị.

Cụp mắt bước đi theo quán tính, họ theo tôi bước tới, nhận những bát thịt hầm đậu bắp, cá xam xám, và nước. Chúng tôi ngồi xuống bên bàn, cạnh một nhóm đến từ khu Vỉa than. Trông họ dè dặt hơn người dân Quận 13 một chút, dù có lẽ chỉ vì bối rối. Leevy, hàng xóm của tôi hồi ở Quận 12, thận trọng cất tiếng chào đội chuẩn bị, còn bác Hazelle mẹ Gale, chắc hẳn đã biết chuyện họ bị giam giữ, thì giơ một thìa đầy thịt hầm lên. “Đừng lo,” bác nói. “Trông thế thôi nhưng cũng dễ ăn lắm.” Nhưng chính Posy, cô nhóc năm tuổi em của Gale lại được việc nhất. Bé lê trên ghế sang chỗ Octavia và nhẹ nhàng chạm tay vào da chị. “Chị xanh thế. Chị ốm à?”

“Mốt đấy Posy. Giống như tô son ấy,” tôi nói.

“Lẽ ra đẹp cơ,” Octavia lẩm bẩm, và tôi có thể thấy những giọt lệ chực lăn khỏi mi mắt chị.

Posy suy nghĩ một lúc rồi hồn nhiên nói, “Em thấy dù là màu gì thì chị vẫn đẹp mà.”

Một nụ cười thoáng nở trên môi Octavia. “Cảm ơn em.”

“Nếu chị thực sự muốn gây ấn tượng với Posy thì phải nhuộm màu hồng rực ấy,” Gale nói, đặt mạnh khay ăn xuống bên cạnh tôi. “Màu nó mê nhất luôn.” Posy khúc khích cười rối lại trượt về ngồi bên mẹ. Gale hất đầu về phía bát của Flavius. “Tôi sẽ không để nguội đến thế đâu. Vữa mất đấy.”

Mọi người bắt đầu ăn. Món thịt hầm ăn cũng được, nhưng có mấy miếng nhơn nhớt hơi khó nuốt. Như thể phải nuốt mỗi miếng ba lần thì mới trôi vậy. Gale vốn không quen vừa ăn vừa nói cũng cố tiếp tục câu chuyện, hỏi han về tình hình tân trang. Tôi biết anh đang gắng xoa dịu mọi chuyện. Tối qua bọn tôi đã cãi nhau sau khi anh ám chỉ rằng tôi không cho Coin lựa chọn nào khác ngoài việc coi yêu cầu đảm bảo an toàn cho những người chiến thắng là thứ xung đột với đòi hỏi của bà ta.

“Katniss à, bà ta điều hành cả quận này. Bà ta không thể làm gì khiến người khác có cảm giác bà ta nhún nhường thuận theo ý em.”

“Ý anh là bà ta không chịu nổi bất cứ sự bất đồng nào, cho dù nó hợp tình hợp lý phải không?” tôi bật lại.

“Ý anh là em đã đặt bà ta vào thế khó xử. Bắt bà ta phải miễn tội cho Peeta và những người khác trong khi chúng ta thậm chí không biết họ có gây thiệt hại gì không,” Gale nói.

“Vậy em nên thuận theo kế hoạch và phó mặc những vật tế khác cho số phận ư? Rằng việc đó chẳng có gì quan trọng, vì đằng nào tất cả chúng ta cũng đang làm vậy chứ gì!” Nói xong tôi sập cửa vào ngay trước mặt anh. Tôi không ngồi cạnh anh trong bữa sáng, và sáng nay khi Plutarch cử anh đi huấn luyện, tôi cũng để anh đi mà không nói một lời. Tôi biết anh lo lắng cho tôi mới nói vậy, nhưng tôi thực sự cần anh ủng hộ mình chứ không phải đứng về phía Coin. Sao anh lại không biết chứ?

Sau bữa trưa, Gale và tôi theo lịch xuống Ban Phòng thủ Đặc biệt để gặp Beetee. Trong lúc đi thang máy, cuối cùng Gale cũng lên tiếng, “Em vẫn giận.”

“Còn anh vẫn chưa biết lỗi,” tôi đáp trả.

“Anh vẫn giữ nguyên quan điểm của mình. Em muốn anh nói dối sao?” anh hỏi.

“Không, em muốn anh nghĩ lại rồi nhìn nhận vấn đề cho đúng thôi,” tôi bảo anh. Nhưng điều đó chỉ làm anh phá lên cười. Đành chào thua vậy. Cố ép Gale nghĩ thế nọ thế kia cũng chẳng ích gì. Mà nói thật, đây chính là lý do tôi tin tưởng anh.

5.3

Ban Phòng thủ Đặc biệt nằm ở sâu tít tắp y như căn ngục tối nơi chúng tôi tìm thấy đội chuẩn bị. Đó là một tổ hợp phòng như tổ ong, đầy máy tính, phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu và bãi tập thử nghiệm.

Khi xin gặp Beetee, chúng tôi được chỉ dẫn đi qua một mê cung cho đến khi tới chỗ cửa sổ lót tấm kính khổng lồ. Bên trong là thứ đẹp đẽ đầu tiên mà tôi từng trông thấy ở khu phức hợp Quận 13: một bản sao đồng cỏ đầy đủ cây và hoa thật, sống động với lũ chim ruồi. Beetee đang ngồi bất động trên xe lăn giữa đồng cỏ, ngắm chú chim xanh lục lơ lửng giữa không trung trong khi hút mật từ bông hoa cam nở rộ. Ông dõi mắt nhìn nó vụt bay mất hút, rồi trông thấy chúng tôi, liền thân thiện vẫy tay rủ vào.

Không khí mát lành dễ thở, không ẩm ướt oi bức như tôi nghĩ. Tứ phía vang lên tiếng vo vo của những đôi cánh nhỏ xíu mà tôi từng nhầm lẫn với tiếng côn trùng trong rừng nơi quê nhà. Tôi không thể không tự hỏi nhờ cơ may nào mà một nơi tuyệt vời thế này lại được xây dựng tại đây. Beetee vẫn mang vẻ xanh xao của một người đang hồi sức, nhưng đằng sau cặp kính không vừa vặn kia, đôi mắt ông ngời lên niềm hân hoan. “Hoành tráng quá phải không? Quận 13 đã nghiên cứu khí động lực ở đây hàng năm trời. Bay thẳng bay lùi, tốc độ lên tới một trăm cây số giờ. Giá như bác có thể làm cho cháu đôi cánh như thế này, Katniss nhỉ?”

“Cháu không chắc là mình điều khiển được đâu, bác Beetee ạ,” tôi cười.

“Mới ở đây mà loáng cái đã bay mất tiêu rồi. Cháu bắn tên hạ một con chim ruồi được không?” ông hỏi.

“Cháu chưa thử bao giờ. Chúng không dày thịt lắm,” tôi đáp.

“Đúng vậy. Mà cháu cũng không phải kẻ có thú sát sinh,” ông nói. “Đằng nào thì chúng cũng khó bắn lắm.”

“Có khi em bẫy được đấy,” Gale nói. Mặt anh toát lên vẻ tư lự thường thấy mỗi khi mải mê suy tính. “Dùng một tấm lưới mắt nhỏ. Rào chỗ đó lại, chỉ để hở miệng lưới rộng khoảng hai bộ vuông. Bên trong đặt hoa có mật làm mồi. Khi nào chúng ăn thì sập miệng lưới vào. Nghe thấy tiếng động chúng sẽ bay đi nhưng chỉ va phải mặt trong của lưới thôi.”

“Có hiệu quả không?” Beetee hỏi.

“Cháu không biết. Chỉ nghĩ vậy thôi,” Gale nói. “Biết đâu chúng lại thông minh hơn thì sao.”

“Có khi thế thật. Nhưng cháu đang lợi dụng bản năng tự nhiên chạy trốn nguy hiểm của chúng. Coi chúng là con mồi… vậy là cháu tìm ra điểm yếu ngay,” Beetee nói.

Một ký ức tôi không muốn nhớ đến chợt trỗi dậy. Để chuẩn bị cho cuộc Huyết trường Tứ phân, tôi đã xem một cuốn băng chiếu cảnh Beetee, hồi đó vẫn là cậu thiếu niên, nối hai sợi dây điện khiến đám trẻ đang săn lùng ông bị điện giật mà chết. Những cơ thể giật đùng đùng, những nét mặt rúm ró. Beetee, trong cái khoảnh khắc mang ông đến với chiến thắng tại Đấu trường Sinh tử nhiều năm về trước, cứ trân mắt nhìn người khác chết. Không phải lỗi của ông. Chỉ là tự vệ mà thôi. Chúng tôi thảy đều hành động chỉ vì tự vệ…

Tôi bỗng muốn rời khỏi căn phòng chim ruồi trước khi ai đó bắt đầu đặt bẫy. “Bác Beetee à, ông Plutarch bảo là bác có gì đó cho cháu.”

“Phải rồi. Có đấy. Cây cung mới của cháu.” Ông ấn nút điều khiển trên tay ghế rồi lăn xe ra khỏi phòng. Khi chúng tôi theo ông qua những góc ngoắt ngoéo của Ban Phòng thủ Đặc biệt, ông giải thích về cái ghế. “Giờ thì bác nhúc nhắc đi lại được rồi. Mỗi tội chóng mệt quá. Di chuyển thế này tiện cho bác hơn. Finnick thế nào rồi?”

“Anh ấy… anh ấy có vấn đề về tập trung,” tôi đáp, không muốn nói rằng anh bị suy sụp tinh thần hoàn toàn.

“Vấn đề về tập trung hử?” Beetee nở nụ cười cứng nhắc. “Nếu cháu biết mấy năm qua thằng bé đã trải qua những gì thì cháu sẽ thấy nguyên việc nó vẫn ở bên chúng ta cũng đã phi thường lắm rồi. Mà thôi, bảo với nó là bác đang nghiên cứu chế tạo cho nó một cây đinh ba mới nhé? Thứ gì đó làm nó phân tâm bớt đi.” Xem ra phân tâm là điều Finnick ít cần đến nhất, nhưng tôi vẫn hứa sẽ nhắn lại.

5.4

Bốn tay lính đứng gác trước lối vào gian sảnh đề biển Kho Vũ khí Đặc biệt. Kiểm tra lịch trình in trên cánh tay chỉ là bước đầu. Chúng tôi còn bị lấy dấu vân tay, quét võng mạc và DNA, đồng thời phải đi qua máy dò kim loại đặc biệt. Beetee phải bỏ xe lăn lại bên ngoài, tuy nhiên họ đã cung cấp cho ông một cái khác ngay khi chúng tôi qua cổng an ninh. Tôi thấy toàn bộ chuyện này thật quái đản bởi tôi không tưởng tượng nổi rằng bất kỳ ai lớn lên ở Quận 13 lại là mối đe dọa mà chính quyền phải đề phòng. Hay họ thận trọng như vậy là bởi dòng người nhập cư gần đây?

Trước cửa kho vũ khí, chúng tôi phải đối mặt với vòng kiểm tra nhân dạng thứ hai – như thể DNA của tôi đã thay đổi trong lúc tôi đi bộ hai mươi mét dọc gian sảnh không bằng – rồi cuối cùng mới được phép vào trong. Thú thật là kho vũ khí này khiến tôi sững sờ. Hàng hàng lớp lớp súng cầm tay, lựu đạn, thuốc nổ, xe bọc thép. “Tất nhiên là Sư đoàn Không vận nằm riêng chỗ khác,” Beetee bảo chúng tôi.

“Thì thế,” tôi nói, như thể điều này hiển nhiên lắm vậy. Tôi không biết một bộ cung tên sơ sài liệu có chỗ đứng giữa đống thiết bị công nghệ cao này không, nhưng rồi chúng tôi phát hiện ra một bức tường treo đầy cung tên sát thương. Tôi đã từng được mó máy nhiều loại vũ khí của Capitol trong lúc huấn luyện, nhưng không có cái nào được thiết kế phục vụ mục đích chiến đấu quân sự. Tôi chăm chú nhìn một cây cung có vẻ rất chiến, nặng trĩu vì ống ngắm và đủ thứ linh kiện, chắc mười mươi là mình không thể nhấc nó lên, nói gì đến bắn.

“Gale này, có lẽ cháu thích thử vài món đấy,” Beetee nói.

“Thật ạ?” Gale hỏi lại.

“Dĩ nhiên là đằng nào cháu cũng được cấp súng để chiến đấu. Nhưng nếu cháu xuất hiện với vai trò thành viên của nhóm Katniss trong ĐTT thì mấy thứ vũ khí này trông sẽ nổi bật hơn chút đỉnh. Bác nghĩ chắc cháu cũng muốn tìm một món phù hợp với mình,” Beetee nói

“Vâng, để cháu xem.” Gale nắm chặt chính cây cung đã khiến tôi mải mê ngắm nhìn vừa nãy, đoạn nâng nó lên vai. Anh chĩa quanh phòng, nheo nhắt nhìn qua ống ngắm.

“Xem ra không công bằng với lũ hươu lắm,” tôi nói.

“Ai nói anh sẽ dùng để bắn hươu?” anh đáp.

“Bác quay lại ngay,” Beetee nói. Ông ấn mật mã trên bảng điều khiển, một cánh cửa nhỏ liền mở ra. Tôi nhìn theo đến khi ông đi mất hút và cánh cửa đóng lại.

“Vậy anh thấy thanh thản lắm à? Dùng để bắn người ấy?” tôi vặn.

“Anh nói thế hồi nào?” Gale buông cây cung xuống bên hông. “Nhưng nếu anh có một thứ vũ khí có thể ngăn chặn những gì anh từng chứng kiến ở Quận 12… nếu anh có một thứ vũ khí có thể đưa em tránh xa trường đấu… thì anh đã dùng rồi.”

“Em cũng vậy,” tôi thừa nhận. Nhưng tôi không biết phải nói gì với anh về hậu quả sau khi giết người. Rằng họ cứ mãi ám ảnh ta ra sao.

Beetee lăn xe trở lại mang theo một cái va li đen dài hình chữ nhật được đặt chung chiêng giữa thanh để chân và vai ông. Ông đỗ lại nghiêng nó về phía tôi. “Của cháu này.”

5.5

Tôi đặt va li nằm xuống sàn và mở then cài trải dọc một bên va li ra. Ngăn trên cùng mở ra êm ru. Bên trong va li, trên cái ổ trải thảm nhung đỏ nhàu nhĩ là một cây cung đen hoành tráng. “Ôi,” tôi trầm trồ thì thầm. Tôi cẩn thận nâng nó lên chiêm ngưỡng sự cân bằng tinh tế, thiết kế trang nhã cùng những đường cong của cánh cung phần nào gợi đến đôi cánh chim sải rộng tung bay. Còn có thứ gì khác nữa. Tôi phải nắm chặt nó để chắc chắn rằng mình không tưởng tượng. Không, cây cung sống động trong tay tôi. Tôi áp nó lên má cảm nhận tiếng âm ư nhè nhẹ truyền qua xương mặt mình.

“Nó đang làm gì vậy ạ?” tôi hỏi.

“Chào đấy,” Beetee toét miệng cười giải thích. “Nó nghe thấy giọng cháu.”

“Nó nhận ra giọng cháu ạ?”

“Mỗi giọng cháu thôi,” ông bảo tôi. “Cháu xem, họ muốn bác thiết kế một cây cung chỉ cần đẹp thôi. Là một phần của trang phục, cháu biết đấy. Nhưng bác cố suy nghĩ mãi, Sao mà lãng phí quá. Ý bác là, nhỡ có lúc cháu cần đến nó thì sao? Không chỉ là thứ phụ kiện thời trang ấy. Thế là bác để phần ngoài thật đơn giản, phần trong thì thỏa sức tưởng tượng mà thiết kế. Trăm nghe không bằng một thử. Muốn thử không?”

Chúng tôi bèn thử luôn. Sân tập bắn đã được chuẩn bị sẵn cho chúng tôi. Những mũi tên mà Beetee thiết kế cũng chúa chẳng kém gì cây cung. Với hai món này, tôi có thể bắn chính xác trong phạm vi một trăm mét. Sự đa dạng của những mũi tên – sắc như dao cạo, có khả năng phát nổ, gây cháy – biến cây cung thành một thứ vũ khí vạn năng. Nhìn vào màu sắc khác nhau của các mũi tên là biết được mục đích sử dụng.

Tôi có quyền chèn giọng nói bất cứ lúc nào, nhưng tôi chẳng biết làm thế để làm gì. Để ngắt chức năng đặc biệt của cây cung, tôi chỉ cần nói “Chúc ngủ ngon.” Nó sẽ ngủ cho đến khi nghe tiếng tôi gọi dậy.

Tâm trạng tôi khá thoải mái khi quay lại với đội chuẩn bị, bỏ lại Beetee và Gale đằng sau. Tôi kiên nhẫn ngồi cho họ tô vẽ nốt rồi thử trang phục, giờ có thêm một dải băng đẫm máu trên vết sẹo nơi tay hàm ý rằng tôi vừa trải qua trận chiến. Venia gắn chiếc ghim chim húng nhại lên ngực trái tôi. Tôi nhấc cây cung và ống tên đựng những mũi tên bình thường do Beetee chế tạo, biết rằng họ không đời nào để tôi vác nặng mà đi lại. Rồi chúng tôi bước ra trường quay, và tôi dường như phải đứng hàng tiếng liền ở đó cho họ chỉnh lại lớp trang điểm, độ sáng và nồng độ khói. Cuối cùng, mệnh lệnh từ những người vô hình trong ca bin lắp kính bí ẩn phát qua hệ thống liên lạc nội bộ cũng thưa dần. Fuivia và Plutarch dành thêm nhiều thì giờ nghiên cứu và bỏ bớt thời gian chỉnh trang tôi. Cuối cùng cả trường quay yên lặng. Tôi bị săm soi từ đầu đến chân những năm phút liền. Rồi Plutarch lên tiếng, “Tôi nghĩ ổn rồi đấy.” Người ta vẫy tôi đến bên màn hình. Họ tua lại đoạn ghi hình vài phút trước và tôi thấy một cô gái xuất hiện. Vóc người cô có vẻ cao lớn, oai hùng hơn tôi. Mặt cô lem luốc nhưng gợi cảm. Lông mày cô màu đen và được tỉa theo kiểu đầy thách thức. Những làn khói mỏng manh – ám chỉ cô vừa được dập lửa hoặc sắp sửa bùng cháy – bốc lên từ áo quần của cô. Tôi chẳng biết người này là ai.

Finnick, mấy tiếng vừa rối cứ thơ thẩn quanh trường quay, giờ lấp ló sau lưng tôi nói với giọng điệu phảng phất vẻ hài hước quen thuộc, “Người ta nếu không muốn giết em thì cũng muốn hôn em hoặc trở thành em đấy.”

Ai nấy đều hết sức vui mừng hỉ hả với tác phẩm của mình. Đã gần tới giờ nghỉ tay ăn tối, nhưng họ vẫn kiên quyết tiếp tục. Ngày mai chúng tôi sẽ tập trung vào bài diễn văn, phỏng vấn, và dựng cảnh tôi tham gia vào cuộc nổi dậy. Hôm nay họ chỉ muốn một câu khẩu hiệu, một câu duy nhất để đưa vào ĐTT ngắn cho Coin xem.

“Hỡi cư dân Panem, chúng ta hãy chiến đấu, chúng ta hãy dám đương đầu, chúng ta hãy thổi bay cơn khát công bằng!” Đây chính là khẩu hiệu. Nhìn cách họ trưng nó ra là tôi biết họ đã dành hàng tháng, có khi hàng năm trời tư duy và rất đỗi tự hào về nó. Dù vậy nó vẫn quá dài với tôi. Cứng nhắc nữa. Tôi không tưởng tượng nổi mình sẽ thực sự tuôn ra câu ấy trong đời thực – trừ phi tôi nói giọng Capitol nhằm chế nhạo nó. Giống như khi Gale và tôi nhại giọng Effie Trinket: “Chúc cho may mắn sẽ mỉm cười với các bạn!” Nhưng Fulvia đã đứng ngay trước mặt tôi, miêu tả một trận chiến mà tôi vừa tham gia, rằng quanh tôi la liệt xác đồng đội, và rằng, để kêu gọi những người còn sống, tôi phải hướng mặt về máy quay nói ra câu đó!

Tôi bị đẩy về chỗ cũ, máy tạo khói bắt đầu hoạt động. Ai đó yêu cầu mọi người yên lặng, máy quay sẵn sàng và tôi nghe thấy tiếng “Diễn!” Thế là tôi nâng cây cung lên cao quá đầu, thu hết mọi nỗi giận dữ trong lòng mà hét vang, “Hỡi cư dân Panem, chúng ta hãy chiến đấu, chúng ta hãy dám đương đầu, chúng ta hãy thổi bay cơn khát công bằng!”

Cả trường quay im phăng phắc. Im lặng mãi. Cứ thế mãi. Cuối cùng máy liên lạc nội bộ kêu lạch xạch và tiếng cười chói lói của Haymitch ngập tràn trường quay. Ông cố mãi mới nói ra được một câu, “Chính thế mà cách mạng lụi tàn đấy, thưa các bạn của tôi.”

Bình luận