Dagbert cắm cổ chạy. Không ai biết nó chạy đi đâu. Suốt thời gian còn lại trong ngày, không ai trông thấy nó nữa.
Charlie để mặc Joshua ngồi trên bờ dốc tuyết phủ, ôm tay khóc thút thít. “Mẹ, mẹ, mẹ ơi.”
Khi Charlie lần mò trở lại trường, nó bắt đầu tự hỏi ai sẽ là người bị đổ cho tội gây ra cái chết của Ashkelan Kapaldi. Nhưng đằng nào hắn cũng chết rồi, Charlie tự nhủ rồi thắc mắc không biết bọn họ sẽ đưa Ashkelan trở lại bức chân dung của hắn bằng cách nào.
Chỉ có Joshua là tận mắt chứng kiến những gì xảy ra với cái xác của tay kiếm sĩ. Nó đưa nắm tay nhoét bùn lên dụi mắt, thoạt tiên không thể tin vào những gì mình đang chứng kiến. Một màn sương tuyết rỉ rả thấm vô khoảnh trống, bám kín những bức tường đổ nát, chôn vùi cây cối và bao bọc hoàn toàn tảng đá đen. Tấm màn tuyết chở đầy những âm thanh trận địa: tiếng thép va nhau chan chát, tiếng vó ngựa gõ rầm rập, tiếng người la thét và tiếng súng nổ.
Joshua giơ hai tay bịt lấy tai và đờ nguời ra nhìn thanh gươm tự rút ra khỏi ngực của Ashkelan rồi rơi vật xuống bên cạnh hắn. Sau đó cái xác củn hắn tự nhấc lên khỏi tảng đá và… biến mất.
Joshua run cầm cập đứng dậy. Miệng há hốc, mắt trợn ngược. “Đi rồi!” nó lầm bầm. “Cách nào?”
Joshua không biết rằng, do bởi một sự trùng hợp cực kỳ lạ lùng, Ashkelan Kapaldi tiếp cận cái chết lần thứ hai của hắn y hệt như cái cách hắn đã chết lần thứ nhất. Sự thật, hắn đã bị giết bởi chính thanh gươm của hắn trong trận chiến Chân Đồi năm 1642. Thanh gưam không chủ ý giết chủ nhân của nó, dĩ nhiên. Chỉ do đen đủi mà Ashkelan tình cờ đứng chặn đường đi của nó những hai lần.
Khi trở lại trường Charlie tuôn ào vô phòng để áo khoác xanh da trời, cố phủi sạch tuyết với đất cát. Nó nhớ ra rằng vết máu có thể được giặt sạch bằng nước lã, nhưng nó làm cái việc ấy không được mỹ mãn cho lắm. Hên làm sao, tấm áo chùng che gần kín áo lạnh của nó, và lỗ mũi nó đã ngừng chảy máu vào lúc nó vô lớp của cô Tessier.
“Có chuyện gì thế?” Fidelio thì thầm hỏi khi Charlie ngồi xuống bàn bên cạnh nó.
“Để kể anh nghe sau,” Charlie nói.
“Suỵt!” cô Tessier nhắc. “Nhìn vô sách của các trò đi,” cô nói bằng tiếng Pháp.
Mãi đến giờ ăn trưa Charlie mới có cơ hội nói chuyện với Fidelio. Gabriel bưng tô súp lại bàn của chúng ngay lúc Charlie đang mô tả trận chiếc đấu trong khu đổ nát. Khi nó vừa kể xong, Gabriel trông hưng phấn hẳn lên.
“Tôi đã biết mà!” Gabriel hồ hỏi.
Vài đứa trẻ ngó về phía bọn chúng và Fidelio nói, “Bớt bớt giọng lại, Gabe.”
Hạ bớt âm lượng lại Gabriel bảo, “Tôi đã nghiên cứu kỹ bức chân dung của Ashkelan lúc đi ngang qua nó, và các em biết không, tôi thề là tôi đã thấy đốm sáng trong mắt hắn không còn ở đó nữa khi hắn ‘ngủm’.”
“Giờ hắn đã trở về nơi hắn thuộc về,” Charlie nói rành rọt.
Fidelio ngó quanh căn-tin. “Dagbert đâu? Đáng ra nó phải vô lớp tiếng Pháp chứ.”
Charlie nhíu mày. “Em chắc chắn nó đã thu lượm lại hết linh vật biển của nó rồi. Nhưng giờ nó đang lâm nguy. Mụ Tilpin sẽ nổi trận lôi đình. Và em hy vọng nó trốn ở đâu đó an toàn.”
“Thật dị kỳ khi câu nói đó từ miệng em,” Gabriel nhận xét.
Charlie ngó chằm chằm vô tô súp của nó. “Thằng đấy cần sự giúp đỡ của tụi mình,” nó nói.
Cơn bão bắt đầu gào rú khi thầy Pope mới giảng được một nửa bài lịch sử. Gương mặt bành bạnh của thầy luôn đỏ gay như đang tức tối điều gì đó. Thậm chí cả khi không bực dọc, mặt thầy cũng vẫn nhăn nhó. Các cửa sổ trong lớp thầy dạy vốn được gắn lỏng lẻo và vào những ngày gió nhiều, tiếng lạch cạch liên tu bất tận của chúng khiến thầy Pope điên tiết. Thầy đập bàn, rống lên những câu hỏi mà cả lớp, và cả chính thầy cũng rối trí, không biết làm sao. Gió tràn tới chẳng biết từ đâu. Mới phút trước không khí bình lặng mà giây sau mưa đá đã đập ình ình vô những ô kính cửa sổ, tiếng sấm nảy dội khắp tòa nhà, và gió lùa qua các cửa sổ lỏng vít, hằn học vờn quanh chân của tất cả mọi người.
“Làm sao tôi có thể dạy dỗ được trong bão bùng như thế này?” thầy Pope rít gióng. “Tôi sẽ ngưng bài kiểm tra này và về nhà nếu bão còn tiếp tục.”
Nhận ra mình vừa mói nói hớ một câu, bởi vì, đương nhiên chẳng ai quan tâm nếu thầy bỏ về nhà, thầy Pope lầu bầu, ”Tôi cho rằng tất cả các trò đều đã nghe nói đến bão tố ở biển, phải không nào? Không, tôi nghĩ là các trò chưa nghe nói.” (Tivi và radio chỉ được phép với học sinh lớp sáu). “Hừ, để tôi khai sáng cho các trò đây.” Một tiếng sấm nữa đinh tai, và thầy Pope ngước lên thiên đàng. Khi tiếng sấm phai đi, thầy nói, “Thời tiết khắc nghiệt ở Nam bán cầu đã tàn phá tất cả các bờ biển. Rất nhiều người chết đuối. Tàu bè bị đắm. Thuyền mất tích.” Những lời cuối cùng thầy phải quát thi với một tiếng sấm kinh động khác.
Charlie giơ tay lên.
“Gì thế, Charlie Bone?” thầy Pope gắt gỏng.
“Thầy nói thuyền bè phải không thưa thầy?” Charlie hỏi.
“Đúng, thuyền bè. Trò điếc hả?” thầy Pope rống om “Bão tố hoành hành suốt tới nay. Sóng cao hàng mấy chục mét. Khốn khổ cho những kẻ ở trên thuyền bè. Còn lâu họ mới mong có cơ may thoát được,” Thầy hất hàm ra phía cửa sổ đang rung lắc. “Nên nhớ, đây chỉ là cơn gió nhẹ hều so với cơn cuồng nộ kinh khủng nhất ở biển. Nhưng đó chẳng phải là niềm an ủi khi người ta BUỘC PHẢI DẠY LỊCH SỬ CHO MỘT LŨ NGU XUẨN!” Nói xong câu đó thầy Pope thu dọn sách vở và hùng hổ bước ra khỏi lớp, đóng cửa lại đánh sầm sau lưng.
Ngay khi thầy giáo khuất dạng, Simon Hawke phóng ra khỏi bàn nó, duỗi tay, ngáp rồi hô hoán, “Tụi mình còn hai mươi phút mới tới tiết kế tiếp. Hãy chơi hít đất một chút đi tụi bay ơi.”
Lũ con trai rên rẩm và tụi con gái dè bỉu. Cậu chàng Simon vui tính, không so đo liền nằm sấp xuống sàn và bắt đầu thực hiện bài thể dục của mình.
Fidelio chồm qua Charlie, thì thào, “Đi thôi.”
Chúng dắt díu nhau rời khỏi lớp học. Môn tiếp theo của chúng là nhạc. Fidelio học violin với thầy O’Connor. Charlie có giờ với xê-nho Alvaro. Còn hai mươi phút rảnh rỗi, chúng quyết định đi gặp bà bếp trưởng. Chúng phóng bay qua tiền sảnh và đi qua Hành lang Chân dung, nhưng Charlie chậm buớc lại rồi dừng hẳn bên cạnh bức chân dung của Ashkelan Kapaldi. Nó cúi sát vô, dòm đôi mắt hắn. “Em không thấy nó thay đổi gì cả,” nó nói.
Fidelio giật mạnh vạt sau áo chùng của Charlie. “Coi chừng em chui vô đó với hắn bây giờ, nếu em không rời mắt khỏi đó mau. Đừng quên Gabe là nhà thần giao cách cảm. Đi lẹ lên, còn có mười lăm phút à.”
Chúng tới căn-tin xanh da trời đúng lúc giáo sư
Saltweather sải bước ra, thầy hỏi chúng đang làm gì đó. Fiđelio giải thích việc thầy Pope không thể dạy trong cơn bão. Thầy giáo dạy nhạc mỉm cười. “Nếu thầy ấy nghĩ điều này đã là tệ hại thì thầy ấy nên đi câu ở biển một chuyến,” thầy nói, đoạn liếc nhìn Charlie.
“Nó có tệ hại thật không ạ?” Charlie hỏi.
Giáo sư Saltweather gật đầu. “Ta sợ là vậy, Charlie.”
Charlie nuốt nước miếng. Nó có thể nếm thấy vị súp cà chua mà nó sẽ ăn trong bữa trưa, và cầu cho nó đừng phát bệnh. “Cha mẹ con đang xem cá voi, thưa thầy.”
“Ta biết, Charlie,” ông thầy dạy nhạc nói.
“Thầy có nghĩ…”
Fidelio nói chen vô, “Thầy có biết gì về Quả cầu Đại Dương không ạ?”
Charlie trố mắt dòm Pidelio, ngạc nhiên vì chính anh chàng nhắc tới Quả cầu Đại Dương với một chuyên gia. Giáo sư Saltweather nhíu mày một thoáng, rồi bảo, “Ta nghe nói nó đang ở đây.”
“Và thầy có tin là Lord Grimvvald có thể điều khiển đại dương bằng quả cầu đó?” Charlie buột miệng.
Giáo sư Saltweather hít một hoi thật sâu rồi mói nói, “Làm sao ta không tin, Charlie? Bà bếp trưởng là bạn của ta.” Rồi thầy bước phăm phăm ra hành lang, hai tay chắp sau lưng, đầu chúi về trước.
“Thầy có giúp gì được không ạ?” Charlie hỏi với theo thầy. “Thầy có ngăn chặn hắn được không?”
Giáo sư Saltweather lầm rầm đáp lại cái gì đó rồi rẽ vô tiền sảnh.
Charlie chộp lấy cánh tay Fidelio. “Thầy vừa nói gì đó? Anh có nghe thấy không?”
Lỗ tai nhạy cảm âm nhạc của Fidelio đã dựng lên nghe thấu câu trả lời não nề của ông thầy dạy nhạc. “Anh nghĩ thầy đã nói rằng chỉ có con trai hắn mới làm được điều đó.”
“Ý thầy ám chỉ Dagbert,” Charlie nói. “Thể nào Dagbert cũng làm cho mà coi.”
“Điều gì khiến em nghĩ như vậy?”
Charlie nhún vai. “Tụi mình phải kiếm ra nó, Fido.”
Nhưng tìm ở đâu?
Charlie có một ý, nhưng nó phải đợi đến khi tan học thì nó mới nghĩ xong coi mình có đúng hay không. Fidelio đi tập với dàn nhạc, nhưng nó tình nguyên bỏ tập để giúp đỡ bạn. Charlie khăng khăng đó chỉ là một linh cảm thôi và một cặp mắt cũng đủ tìm ai đó rồi.
“Vậy em tính đi đâu?” Fidelio hỏi.
“Lên Tháp Nhạc,” Charlie bảo.
Nơi đó được gọi là Tháp Nhạc là bởi vì có lần ba của Charlie đã dạy piano trong một căn phòng ở tầng trên cùng. Để lên tới đó, Charlie phải đi tới cùng dãy hành lang tối om dẫn tới phòng khiêu vũ. Tháp Nhạc bây giờ cấm không cho ai léo hánh tới, và Charlie phải chọn thời khắc thích hợp để vù tới cánh cửa nhỏ thông vô hành lang- Nó đợi trong phòng để áo khoác xanh da trời trong khi giày được thay, tay được rửa, toa-lét được giật xối nước và áo chùng ướt được cởi ra.
“Em ổn chứ, Charlie?” Gabriel hỏi.
Charlie gật đầu, nổi thầm, “Em đi tìm Dagbert đây.”
“Muốn phụ giúp không?”
“Chưa cần.”
“Ừ.” Gabriel rời phòng để áo khoác, nói một mình, “Nhưng tôi sẽ bảo đảm là em sẽ không bị cô độc đâu.”
Gabriel là người cuối cùng rời phòng để áo khoác. Khi anh vừa đi xong, Charlie ngó ra tiền sảnh. Thấy vắng tanh nó liền vắt giò phóng tới cửa tháp. Vặn cái tay nắm cửa nặng nề bằng đồng, nó kéo cửa mở ra và lẻn vô hành lang. Đúng ngay chóc cái lúc Dorcas Loom rời phòng để áo khoác xanh lá cây. Con nhỏ trạm mắt dòm cánh cửa vừa đóng lại. Nếu nó không nhầm thì nó vừa mới nhìn thấy Charlie Bone đi vô Tháp Nhạc. Phải thông báo cho ai đó biết mới được.
Không hề hay biết là mình đã bị phát giác, Charlie quày quả đi xuôi hành lang. Khi nó đến cánh cửa phòng khiêu vũ, nó dừng lại và nhận thấy cái chốt nặng ở trên cùng đã bị kéo xuống trở lại. Nó áp tai vô cửa. Một âm thanh lờ mờ vọng tới chỗ nó: tiếng tóe nước óc ách, tiếng những đợt sóng khổng lồ tung lên và rơi xuống. Và một âm thanh khác. Tiếng ngâm nga quái dị. Lord Grimwald đang tụng niệm giai điệu gọi biển chìm chết người của riêng y. Charlie lùi bắn ra khỏi cánh cửa như thể nó vừa bị chích điện. Hai nắm tay nó bóp chặt lại, bất lực, không sao ngăn cản được những sự kiện kinh hoàng mà lorđ Grimwald dang khiến cho xảy ra. Khi nó quay đầu đi tiếp hành lang, một bóng người hiện ra khỏi căn phòng nhỏ hình tròn ở đằng cuối.
“Dagbert.” Charlie thì thào, giọng nó khản đặc. “Mày đã ở đâu vậy?”
“Đang suy nghĩ,” Dagbert đáp. “Tao phải ngăn ông ta lại.” Nó đi về phía Charlie, cầm chắc những linh vật biển bằng vàng trong cả hai tay, tựa hồ như nó sợ làm rớt chúng.
“Mày định làm cách nào?” Charlie hỏi. “Lời nguyền, Dagbert… cha mày sẽ cố trấn áp mày.”
“Đúng vậy,” Dagbert đồng ý. “Nhưng tao phải cố thôi. Không ai khác có thể ngăn ông ta, và cha mẹ mày sẽ chết đuối, Charlie.”
“Có khi họ đã chết đuối rồi,” Charlie ỉu xìu. Nó ngạc nhiên thấy mình muốn cho Dagbert cơ hội tránh đối đầu với Lord Grimwald.
Nhưng Dagbert cương quyết. “Mày đã cứu những linh vật biển của tao, và chúng sẽ ngăn chặn ông ta. Mẹ tao hẳn là đã muốn điều đó.”
Hai thằng bé đứng cạnh nhau, quay mặt nhìn cánh cửa đôi của phòng khiêu vũ.
“Tao sẽ vô với mày,” Charlie nói khi Dagbert đẩy một trong hai cánh cửa cao.
Charlie đã chuẩn bị tinh thần để thấy một quả cầu dậy sóng nước, nhưng cảnh tượng quả cầu khổng lồ khiến nó nín thở. Những khung kính đã được tháo dỡ và những đợt sóng được thả rông bây giờ tràn ra, tạo thành những đường vòng cung vĩ đại, bắn nước chạm tới tận mái trần cao.
Lord Griimvald đang đứng quay lưng lại hai thằng bé, nhưng y ngoắt lại ngay khi chúng bước vô. Duờng như y đang chờ chúng. “Dagbert,” y nói. “Chào cậu. Tôi thấy cậu mang theo một thằng bạn.”
Dagbert vẫn im lặng. Nó tiến tới quả cầu, vẫn cầm chắc những bùa linh trong hai tay. Charlie theo sau, tự hỏi không biết Dagbert sẽ làm gì.
Lord Grimwald nhìn chòng chọc vô hai bàn tay của con trai, mắt y híp rịp lại. “Đưa những cái bùa cho tao,” y ra lệnh. Giọng y xốp xộp nhưng bộ mặt y rắn lại như đá.
Dagbert bóp chặt những bùa linh trong tay hơn nữa. Nó bước về phía quả cầu và Charlie theo sau. Nước biển phun bắn vô mặt chúng, làm ướt sũng tóc chúng.
“Đưa nó cho tao!” miệng Lord Grimvvald nghiến lại thành một nụ cười ác nghiệt. Y chìa tay ra.
Dagbert lắc đầu.
“Đừng lại gần nữa,” cha nó cảnh cáo nó. “Nếu mày làm hư hại quả cầu thì nó sẽ hủy diệt mày.”
Bất giác Charlie hiểu ra Dagbert định làm gì. Nó muốn thảy những bùa linh xuống biển. Hành động này sẽ làm dịu những con sóng khủng khiếp trên khắp thế giới? Không có sự bảo vệ của mẹ nó, Dagbert sẽ chết.
“Đưa chúng cho tao,” Lord Grimwald ra lệnh, giật lấy hai tay đang bóp chặt lại của con trai.
“Không!” Dagbert thét vang. Nó té khụy gối xuống, toàn thân nó đổ tới chụp những món bùa quý giá. Điên tiết, Chúa tể Đại Dưong giơ cánh tay lên và một bức tường nước uốn cong ra khỏi quả cầu. Cùng với tiếng gầm hung dữ, con sóng nhướn căng lên tới trần và bắt đầu đổ ụp xuống. Charlie thấy mình bị bao trọn trong một đường hầm nước đen sấm rền. Nó ngã khuyu gối xuống bên cạnh Dagbert và chờ cho con sóng gầm cuốn trôi chúng đi. Nhưng trước khi ống nước bóp ngạt chúng, tiếng trống dồn dập thúc xuyên qua tiếng nước dội. Tức thời Charlie bị quật xuống bởi sức nặng của con sóng. Nó không sao thở nổi, phổi nó nổ tung đến nơi. Nó nhắm mắt lại, đầu óc tràn gập những âm thanh rền rĩ.
Rồi bỗng dưng trọng lượng nước biến mất và nó mở mắt ra. Nó đang nằm chèm mẹp trong một vũng nước, với nắm đấm tái xanh của Dagbert cách mặt nó có vài phân. Một con cá vàng lọt qua kẽ tay Dagbert và Charlie chụp lấy trước khi nó bị trôi đi mất. Những chiếc ủng đen lội nước bì bõm về phía nó. Một chiếc dậm mạnh lên bàn tay Charlie.
“Aaaah!” Charlie nghe thấy tiếng rú nghẹt ứ của chính nó giữa tiếng trống giục. Chiếc ủng đó nhấc lên khỏi những ngón tay nó và Charlie lăn ngửa người lên, vẫn nắm chặt con cá. Dagbert nằm bên cạnh nó, mắt nhắm chặt, mặt xanh bủng, vô hồn. Cả hai bàn tay nó đều trống trơn.
“Dagbert!” Charlie thét, cố lắc lắc cánh tay mềm rũ của Dagbert.
Thằng này không nhúc nhích.
Tiếng trống rõ hơn. Nhanh hơn. Gằn hơn. Tiếng trống phủ lấp không gian bằng những nhịp điệu đe dọa. Charlie ngồi dậy và dụi mắt. Lord Grimwald đứng trước mặt nó, cách không tới hai mét. Lưng y quay lại Charlie, hai cánh tay giang rộng ra.
Ánh sáng màu xanh biển đã được thay thế bằng màu đỏ và vàng rực của những đốm lửa nhảy chồm chồm. Charlie loạng choạng đứng lên. Lúc này nó đã thấy rõ họ: những tổ tiên tâm linh của Lysander. Nhũng hình hài cao to, da đen đứng xếp hàng dọc theo các bức tường. Giữa họ là khoảng cách chưa bằng một bàn tay, họ mặc áo thụng trắng, đeo thắt lưng màu sắc như cầu vồng. Mỗi người trong tay này đều có một cây thương và trong tay kia là một bó đuốc đang cháy rừng rực.
Tiếng trống vọng đến từ những hình nhân đứng trên sân khấu, xếp thành hai hàng dày đặc, họ đánh trống theo nhịp khẩn cấp, khiến cho những chùm đèn pha lê rung lên tựa hồ hàng ngàn cái chuông tí hon.
Lysander di chuyển quay cuồng khắp căn phòng mênh mông, nhanh đến nỗi Charlie không nhịp thấy gươmg mặt da đen và đôi mắt nhóe sáng của anh. Nhịp vung uyển chuyển nơi hai cánh tay anh làm cho tấm áo chùng của anh bay tốc lên không, tựa hồ như một vòng tròn màu xanh lá cây quay tít.
Charlie bước ra khỏi Quả cầu Đại Dương. Giờ nó có thể thấy gương mặt của Lord Grimvvald quay ra. Cái gưong mặt xám ngoét lại vì tức giận và kinh sợ. Thân người y chòng chành bên này bên kia, hai cánh tay vươn ra tự vệ trong khi lùi về phía quả cầu bảo bối của y.
Những hàng chiến binh rùng rùng xông tới. Gần và gần quả cầu hơn nữa. Charlie có thể cảm nhận sức nóng từ những bó đuốc họ cầm. Từng mảng hơi nước bốc lên nghi ngút khỏi quả cầu và những tổ tiên tâm linh vẫn tiến tới. Trong khoảnh khắc Charlie lạc bay hồn phách. Nó không biết phải chạy đâu. Họ áp sát nó, những gương mặt đen bình thản của họ chỉ còn cách nó vài phân. Và rồi họ lách qua hai bên sườn nó, nó có thể nếm được lửa khói và ngửi thấy mùi oi oi từ những cái áo thụng của họ.
Họ bao vây quả cầu. Sát nữa, sát nữa. Và họ triển khai hàng ngũ, từng cụm bốn người dồn kín vô cho vòng tròn nhỏ dần, nhỏ dần. Còn Lysander vẫn xoay tít và trống trên sân khấu vẫn đổ dồn.
Charlie không còn trông thấy Lord Grimwald đâu nữa. Y bị kẹt cứng trong vòng vây của những chiến binh. Họ ken đặc đến độ những bó đuốc trong tay họ tạo thành một vành đai lửa. Thình lình, một tiếng thét long trời khi Chúa tể Đại Dương bị ép vô chính những vùng biển mà y đã dùng để dìm chết biết bao nhiêu nhân mạng.
Tiếng thét lạc khản đi thành tiếng ục, ục kèm một cú tóe nước kinh địa khi Quả cầu Đại Dương dậy sóng, sôi sùng sục và nuốt chửng chủ nhân của nó.
Phía bên trên vòng cung thương giáo và đuốc, Charlie có thể thấy đỉnh của Quả cầu Đại Dương. Nước xanh đã biến thành xám đục, và bây giờ nó chỉ là hơi nước hơn là nước. Những mảng nâu biểu thị lục địa đang rạn nứt rồi teo quắt lại. Từ từ quả cầu chìm xuống. Charlie cuống quít bò thụp xuống sàn, mong ngóng sẽ thấy xem quả cầu biến thành cái gì. Nhìn xuyên qua những hàng áo thụng trắng, nó thấv lờ mờ những đại dương bốc khói mịt mùng và những đất liền cháy sém. Quả cầu Đại Dương đang giãy đành đạch, chìm lỉm và sôi tan đi.
Vài phút sau khi vang lên tiếng thét của Lord Grimwald, những tổ tiên tâm linh vẫn giữ nguyên hàng lối của họ, và rồi, rất chậm rãi, họ bắt đầu bước lùi về sau. Một lần nữa Charlie để họ trôi qua hai bên mình. Lửa trên những cây đuốc dài tắt dần, áo thụng trắng mờ đi thành những đám mây hơi nước. Charlie không kịp biết tiếng trống ngừng khi nào, hoặc khi nào những chiến binh biến mất, bởi vì nó đang trố mắt nhìn Quả cẩu Đại Duơng, hay chính xác là đang nhìn trợn trừng khoảng không gian mà quả cầu từng chiếm giữ. Ở đó không còn gì… ngoại trừ…
Một quả bóng thủy tinh nhỏ xíu, không hơn hơn trái banh tennis, đang lăn bập bềnh trong một vững nuớc. Dagbert nằm bên cạnh nó.
Charlie cảm thấy một bàn tay chạm vô vai mình, nó ngước lên thì thấy gương mặt can đảm của Lysander.
“Anh kết liễu nó rồi,” Charlie nói mà không tin nổi những gì mình vừa thấy.
“Không còn cách nào khác,” Lysander bảo. Anh hất đầu tới Dagbert. “Nhưng có lẽ đã quá trễ với nó.”
Charlie đứng bật dậy, chạy tới Dagbert. Mặt thằng này trông hoàn toàn mất hết sự sống. Và rồi, đột nhiến, đồng tử động đậy và đôi mắt băng giá khác thường trợn lên nhìn Charlie. “Tao còn sống hả?” nó ụ ợ.
“Ừ,” Charlie nói, đỡ Dagbert dậy. Nó ấn con cá vằng vô lòng bàn tay Dagbert rồi, trông thấy mấy con cua vàng và con nhím biển trôi lờ đờ bên mép nước, Charlie vớt chúng lên, trao cho Dagbert và nói, “Giờ mày an toàn rồi.”
Dagbert đút hết những linh vật biển vô túi quần rồi nó hơi lảo đảo khi nhìn quanh phòng khiêu vũ. “Đây là đâu?” nó nói, quay hẳn một vòng và ngó xuống vũng nước quanh chân nó. “Quả cầu Đại Dương đâu rồi?”
Lysander nhặt quả cầu thủy tinh xanh lục nhỏ lên. Anh vẩy cho nó ráo nước và trao cho Dagbert và bảo, “Tôi nghĩ cậu sẽ thấy đây là nó.”
Dagbert toét miệng ra cười rạng rỡ. Nó nhìn trao tráo quả cầu tí hon rồi nhìn Lysander. “Làm thế nào nó…?” bỗng nó thở hốc lên, “Cha tôi đâu?”
“Quả cầu đã nuốt ông ta rồi,” Charlie nói một cách điềm nhiên. Xem ra không còn cách nào khác để nói với một thằng bé là nó đang cầm cha nó trong tay.
Dagbert nhăn mặt. “Vậy là ông ta…?” nó nhìn quả cầu.
“Trong đó,” Charlie nói.
Dagbert lắc lắc quả cầu, lật úp nó lại như thể phiên bản thu nhỏ của cha nó sẽ rơi xuống vũng nước. Có những tia nước biển màu xám lừ đừ rỏ ra khỏi đỉnh quả cầu, nhưng không có gì rơi ra khỏi đấy.
“Nó khá đẹp đấy chứ,” Charlie nhận xét. “Giống nhu tuyết trong một quả cầu tuyết bằng thủy tinh.”
“Bão biển chứ,” Dagbert lầm bầm.
Lysander nắm lấy vai Dagbert và đẩy nó về phía cửa, “Cậu không thể ở đây được, Dagbert,” anh cảnh báo nó. “Gia đình Bloor sẽ rất tức giận vì Lord Grimvvald và quả cầu của ông ta đã biến mất. Để tụi này đưa cậu ra rồi sau đó là tùy cậu xoay xở.”
“Tôi sẽ đi đâu?” Dagbert luýnh quýnh hỏi. “Tôi không biết ai trong thành phố này. Tôi không có gia đình.”
Dagbert có thể đi đâu bây giờ? Lysander và Charlie nhận ra thằng này không còn an toàn trong cửa hàng cá, nơi cuối tuần nó hay về nữa. Quán cà phê Thú Kiểng đã đóng cửa và nó không thể về nhà Charlie trong khi nội Bone ở đó.
“Em biết rồi!” Charlie kêu lên. “Tiệm Ấm. Chỉ cách tiệm cá chỗ nó sống có vài căn thôi.”
Lysanđer nghi ngại. “Nó ở trên đường Piminy, Charlie à. Theo như anh nghĩ, nơi đó là một ổ rắn độc.”
“Em biết, em biết, nhưng bà Kettle rất hùng mạnh,” Charlie cãi lại. “Đến giờ bà vẫn trụ vững được. Với lại lúc này em không thể nghĩ ra được nơi nào khác.”
Lysander lộ vẻ trầm ngâm một hồi. Anh gãi gãi cằm với phong thái gợi nhắc đến cha của anh, thẩm phán Sage, mỗi khi ông đang xét quyết điều gì. Nhưng cho dù mọi ý kiến phản đối gì lướt qua đầu Lysander, thì anh cũng chóng vánh gạt nó đi và đành phải tán thành ý kiến của Charlie. “Bảo với bà Kettle là cậu đến từ chỗ bọn tôi,” anh nói. “Nhớ chỉ cho bà ấy xem quả cầu này.” “Nói cho bà ấy, rằng…” Charlie chần chừ. “Cứ nói từ ‘Matilda’ là bà ấy biết mày đã đi với tụi tao.”
Lysander ngó Charlie một cái dò hỏi, còn Dagbert nói “Matilda là ai?”
“Không quan trọng,” Charlie đỏ rần mặt. “Cứ nói thế thôi.”
“Được.”
Họ đưa Dagbert ra hành lang, băng qua tiền sảnh tới cửa ra vườn. Không có ai quanh quẩn nơi đó và họ nhận ra chắc hẳn chuông báo hiệu giờ ăn tối đã reng. Toàn truờng đang ở trong sảnh ăn tối dưới lòng đất.
“Làm sao tôi ra được?” Dagbert trông tàn kiệt. Xanh mét và hoảng hốt, nó bước ra vườn và ngoái nhìn lại Charlie.
Charlie chỉ cho nó chỗ leo qua bức tường. Nó hy vọng đám dây leo xoắn xuýt vẫn còn nguyên dấu vết chuyến leo tường thần tốc của chính nó.
“Lẹ lên, Dagbert,”‘ Lysander thúc giục.
Họ nhìn Dagbert chạy về phía rừng cây, sau đó Lysander đóng cửa lại.
Khi hai anh em cập rập băng qua tiền sảnh, có ai đó vừa ra khỏi hành lang dẫn tới phòng khiêu vũ.
“Rất ấn tượng, Lysander Sage,” Manfred nói qua hàm răng nghiến lại. Toàn thân hắn run lên cuồng nộ, tức vì sự hèn nhát của chính mình, bởi vì hắn đã không đủ can đảm để đối đầu với những tổ tiên tâm linh Lysander. “Nhưng mày quá trễ rồi,” Manfed tiếp, sôi máu vì ánh nhìn khinh bỉ của Lysander. “Cha mẹ Charlie sẽ không bao giờ về nhà được nữa.” Rồi hắn thảy cho Charlie một nụ cười gớm ghiếc.