Bầu im lặng chỉ kéo dài vài giây, nhưng trong khoảng thời gian đó bao nhiêu ý nghĩ quét qua đầu Charlie đến nỗi nó bắt đầu cảm thấy chóng mặt. Trong hình dung của mình, nó thấy Billy đang đi vô định trong khu rùng của gã thầy bùa; và nó thấy một chiếc hộp bằng gỗ, khảm xà cừ – một chiếc hộp nắm giữ bí mật có thể thay đổi cuộc đời của tất cả những người mà nó biết.
Tiếng nói của nội Bone chạm đến Charlie hình như từ ở rất xa. “Mày bị sao thế hả, thằng kia? Tỉnh lại coi.”
“Cháu, cháu,” Charlie lắp bắp, cố sức tập trung vô cái bộ mặt nhờn nhợt đang lù lù phía trên nó.
“Trong đầu mày có cái gì?” nội Bone hỏi.
“Không có gì,” Charlie đáp.
“Sao, Eustacia?” nội Bone ngoảnh qua hỏi bà em.
“Nó đang nghĩ tới Billy và chiếc hộp,” bà cô Eustacia nói.
Charlie điếng hồn. Hôm nay bà cô Eustada đang phát huy tối đa công lực. “Cháu chưa bao giờ trông thấy chiếc hộp đó,” nó gào. “Ờ, không phải là chiếc hộp mà các bà ngụ ý tới,” nó vớt thêm một câu ngô nghê.
“Charlie, ba mày đâu?” bà cô Eustacia hỏi, đến đứng bên cạnh bà chị.
“Cháu không biết, đúng không? Cháu không biết gì hơn các bà. Ba cháu đang đi xem cá voi.”
“Nhưng khi mày nghĩ về thằng cha mày, mày thấy gì?” bà cô Eustacia cúi sát rạt xuống Charlie, và nó rúm người lại trước hơi thở tanh hôi của mụ.
“Không thấy gì,” nó nói.
“Bọn tao biết mày có tài phép, Charlie.” Bà nội nó quát lên điên tiết. “Bọn tao biết, mày có thể gặp thằng cha mày trong tâm trí khi mày tập trung suy nghĩ. Dẹp vờ vịt đi.”
“Cháu không biết ý bà muốn gì,” Charlie nói. Bọn họ nhất định không được biết về chiếc thuyền đó, nó nghĩ. Đoạn đổ đầy tâm trí nó hình ảnh của những bạn bè: Benjamin và Hạt Đậu, Fidelio, Olivia và Lysander…
“Hả?” nội Bone nhìn bà cô Eustacia.
“Rác rưởi,” bà cô Eustacia nói. “Trong đầu nó chứa toàn rác rưởi.”
Nội Bone chộp cánh tay Charlie, lôi tuột nó vô nhà bếp, ở đó mụ ấn nó ngồi xuống và pha cho nó một ly sữa lạnh ngắt. Một đĩa phó mát và bánh quy giòn được chìa ra trước mặt nó và nội Bone hằn học, “Nuốt đi. Để tất cả còn đi.”
“Nhưng…” Charlie mở mồm.
“Không nhưng nhiếc gì,” mụ quát.
Ba bà em của nội Bone ập vô bếp. Bọn họ tỏa quanh chiếc bàn và ngó Charlie chằm chặp. Bà cô Eustacia không bao giờ rời mắt khỏi nó lấy một chớp. Có lẽ mụ vẫn đang cố đọc ý nghĩ của nó. Nó phải giấu biệt mụ ta tên của chiếc thuyền; cái tên đề bên hông chiếc thuyền đang cưỡi sóng dữ. Bởi vì nếu cái tên đó mà đến tai Lord Grimwald thì ai mà biết hắn sẽ làm những gì.
“Ngoại Maisie chưa về,” Charlie nói, với cái miệng phồng căng bánh quy khô khốc, lạm xạm. “Nếu cháu lại đi nữa thì bà ngoại sẽ không biết cháu ở đâu.”
“Bọn tao sẽ để lại thư nhắn,” bà nội nó bảo.
“Ông cậu Paton không có ở nhà,” Charlie gào lên tuyệt vọng. “Ba mẹ cháu bảo ông cậu mới chịu trách nhiệm trông nom cháu.”
“Ba má mày sai lè,” bà cô Lucretia nói lạnh tanh. Giờ bọn tao là những người giám hộ mày.”
“Không phải!” Charlie cãi lại.
“Mày sẽ đi tới Ngách Tối với bọn tao, chấm hết.” Bà cô Venetia tịch thu đĩa bánh quy Charlie đang ăn dở. “Và bọn ta phải đi ngay tức khắc. Con trai bé nhỏ của ta cần ta.”
Con trai chồng của bà cô Venetia, cái thằng oắt Eric ác độc, chẳng bao giờ cần đến ai, theo như Charlie biết. Thời giờ của nó tiêu pha hết vào việc làm cho tượng đá sống dậy, một tài phép nguy hiểm, thường kết cục bằng tai họa cho những nạn nhân sơ hở của nó.
“Cháu không hiểu tại sao cháu phải đi tới Ngách Tối,”
Charlie lo lắng ngọ ngoạy trên ghế khi nội Bone giật cái cốc của nó và đổ chỗ sữa còn lại xuống lỗ cống.
“Tụi tao muốn hỏi mày một số câu hỏi,” bà cô Eustađa nói.
“Các bà không hỏi cháu ở đây được à?” Charlie biết câu trả lời ngay khi nó nhìn vô bộ mặt đanh đúc, lạnh lùng dí sát mặt nó của nội Bone. Bọn họ không muốn rủi ro bị cắt ngang vì ngoại Maisie hoặc Ông cậu Paton về đột ngột. Và điều đó có nghĩa là bọn họ sẽ tra khảo nó một trận ra trò.
Charlie biết có phản kháng cũng vô ích. Nó có thể đấm đá và gào thét om xòm lên nhưng thể nào rồi bọn họ cũng điệu được nó tới Ngách Tối, như thế nó chỉ tổ phung phí sức lực mà thôi. Nó cần tất cả sức mạnh để đấu tranh với khả năng thần giao cách cảm của bà cô Eustacia. Và giờ nghĩ về điều đó, nó gần như mong ngóng sự thách thức.
Bốn bà cô khênh ngửa Charlie ra khỏi nhà, mỗi bà tóm lấy một tay một chân nó căng ra như căng một con ếch, và đi xuống các bậc cấp. Nó bị thảy tòm vô sau xe của bà cô Eustada, và nó phải ngồi bó rọ bất tiện giữa những cặp giò khẳng khiu của bà cô Lucretia và bà cô Venetia.
Bà cô Eustacia lái xe như say rượu. Luân phiên lao phập phập lên những vỉa hè và lạng không thương tiếc qua những khúc cua. Sau khi lái bạt mạng qua một con hẻm hẹp, mụ thắng xe, kêu đánh kít, trong một cái sân dài rải sỏi. Bọn họ đã tới Ngách Tối.
Ba ngôi nhà cao quây thành hình vòng cung ở cuối mảnh sân. Những tháp nhỏ dựng đứng và những ban công sắt rèn, cửa sổ mái cong hẹp bề ngang, được viền những sinh vật bằng đá: tượng thần lùn, tượng phù điêu[2] và những loài thú kỳ dị. Tất cả ba ngôi nhà đều đánh số 13.
Những căn nhà nhỏ hơn ở hai bên rìa sân hình như đều không có người – cửa sổ nơi đó bị đóng ván kín mít, những bậc cấp đầy rêu mọc. Đâu như có một thế lực ngang ngược nào đó đã đuổi chủ nhân của những ngôi nhà đó đi – mà cái thế lực này rõ ràng chẳng đủ mạnh để trục xuất chị em nhà Yewbeam, trừ phi chính mấy bà này mới là nguvên nhân gây ra tình trạng sơ tán của cư dân tại đây.
Nhà của bà cô Venetia, ở phía bên phải, trông ra dáng hơn hai nhà kia. Kể từ sau khi nhà mụ bị hỏa hoạn cách đây một năm, mái ngói nghiêng dốc đã được thay mới và cánh cửa trước cũng đã được sơn lại.
Ở bậc cấp trên cùng dựng một bức tượng quỷ lùn. Charlie dòm nó trân trân khi đi ngang qua. Eric rất khoái làm cái vật này sống dậy, và Charlie không muốn bị khủng bố bẹp dí xuống đất trước khi cuộc hỏi cung bắt đầu.
Bà cô Venetia mở cửa và dẫn đường đi vô hành lang ám khí. Mùi hăng hắc, cay mắt xộc lên. Bên này tường treo một tấm gương lớn, phản chiếu cái giá treo áo khoác bên kia tường. Trên giá lộn xộn trang phục đủ các loại và đủ kích cỡ, và Charlie không cần được nhắc cũng nhớ rằng bà cô Venetia có thể yểm bùa nạn nhân của mụ bằng quần áo. Những cổ áo và cổ tay áo, những loại nút và dây nịt cùng những phụ trang của đống quần áo trông quái gở kia rất có thể đã bị tẩm độc. Charlie bất giác rùng mình và né khỏi chúng càng xa càng tốt.
Đám rước đi hàng một vô một hành lang dài bên cạnh cầu thang, vẫn là bà cô Venetia dẫn đầu, theo sau bởi Charlie, nó bị những cái móng tay sắc nhọn của nội Bone chọc vô lưng mỗi khi hơi lần chần.
Charlie chưa bao giờ vô bên trong bất cứ căn nhà số 13 nào. Trước giờ nó chỉ dòm chúng qua cửa sổ và có một lần lén chui vô vườn sau nhà họ, nhưng chưa bao giờ các bà cô của nó mời nó vô trong nhà. Mà Charlie chắc chắn chẳng bao giờ muốn có lời mời ấy.
“Đến rồi đó!” Bà cô Venetia mở cánh cửa bên trái hành lang và nội Bone chọc Charlie vô trong một căn phòng âm u, rộng rinh. Một chiếc bàn hình ô-van kê giữa phòng, những cái tủ khổng lồ, mặt trước gắn kính phủ toàn bộ bức tường đối diện cửa ra vào. Charlie không kìm nổi một tiếng kêu thảng thốt khi thấy cái nguời đang đứng bên ô cửa sổ chìa ra đường.
Manfred Bloor đeo một vẻ mặt hí hửng độc địa. “Mày không ngờ hả, Charlie?” hắn nói.
Thì ra đây là lý do bọn họ lôi mình tới đây, Charlie nghĩ. Bọn họ cần Manfred hỗ trợ. Và nó tự hỏi Manfred thường tới nhà mấy bà cô Yewbeam này bao lâu một lần. Nội Bone lại chọc nó cái nữa. Lưng nó bây giờ chắc trở thành lưng chó đốm rồi quá, với nhiêu đó nốt bầm đen cơ mà. Bất chấp tình thế hiểm nghèo của mình, không dưng Charlie toét miệng cười.
“Mày cười cái gì hả?” Manfred hỏi lạnh tanh.
“Không phải cười, mà là nhăn mặt,” Charlie đáp.
Sau khi chọc cho thằng cháu ngồi vô một chiếc ghế ở bên bàn xong, nội Bone và mấy bà em bắt đầu tranh cãi nhặng xị về việc sắp xếp chỗ ngồi. Bà cô Eustacia sẽ ra tay hành sự cho nên mụ có nhu cầu được ưu tiên. Thành thử Charlie thấy mình ngồi đối diện Manfred và bên cạnh bà cô Eustacia, bà này ngồi ở đầu bàn quay lưng ra cửa sổ. Nội Bone ngồi phía bên kia Charlie, với bà cô Venetia ngồi đâu hẳn mặt vô. Bà cô Lucretia không ngồi bởi vì mụ không giành được cái ghế mụ muốn. Mụ ra đứng cạnh tủ kính, săm soi dòm ngó những cái kệ lỉnh kỉnh chai lọ có dán nhãn và lẩm bẩm gì đó một mình.
“Eric đâu?” Charlie hỏi, hy vọng làm chậm quy trình tra khảo.
Một hy vọng hão huyền.
“Ở ngoài,” bà cô Venetia cộc lốc.
Charlie nghển cổ qua bên, làm nhổng chân ghế lên và ngó ra khu vườn sáng đèn. Điều trông thấy khiến nó bị choáng thêm một cú sốc nữa.
Di chuyển cà giật qua những bụi cây quả mọng mùa đông rực rỡ là những tượng đá, lờ phờ như những bóng ma: những sinh vật gớm ghiếc mang dùi cui, những hiệp sĩ mặc áo giáp cưỡi ngựa, rồi cả ngựa, yêu tinh, quỷ lùn, những con chó khổng lồ, tất cả túc tắc chuyển động bằng những bước chân đủng đỉnh. Và Eric kia kìa, ngồi trên một bức tượng đầu thú bằng đá – một thằng bé da bọc xương, téo tẹo, trông ốm o. Đầu nó vặn qua bên này bên kia, bàn tay phải vung tới trước lại khoát về sau, như thể nó đang chỉ huy nhịp chuyển động của một đội quân.
“Ngồi thẳng lên!” bà cô Eustacia ra lệnh, Charlie chòng chành ngồi lại, tí xíu nửa thì nghiêng chân ghế qua hẳn hướng bên kia.
“Ấn tượng đấy chứ?” Manfred nhếch mép cười. “Eric bé nhỏ của bọn ta đang chơi ngoài trời.
Charlie không thèm đáp lại. Đôi mắt đen của Manfred kìm giữ tia nhìn băng giá, và Charlie biết rằng trong những phút tiếp theo tất cả ý chí mà bộ óc của nó sở hữu phải được vận dụng. Nó nhướng ánh mắt tới cái kệ tủ trên cùng và bắt đầu đếm số chai lọ trên đó.
“Nhìn tao,” Manfred ra lệnh.
Charlie dán chặt mắt vô hàng chai lọ ám muội – cái thì xanh lá cây, cái thì xanh da trời, có cái màu đỏ, có cái màu nâu. Bà cô Venetia tích trữ bao nhiêu loại thuốc độc chết người? Một, hai, ba…
“Nhìn tao đây.” Giọng Manfred thét ra âm điệu ớn thấu óc. Dù cố hết sức, Charlie không sao chống chọi lại được. Nó thấy ánh mắt mình lại hạ xuống Manfred lần nữa, và nó nhớ lại cái lần đầu tiên Manfred cố thôi miên nó. Hồi ấy Charlie đã đấu được với hắn. Nó đã nhìn qua khỏi đôi mắt đen xảo trá kia và nhìn xuyên vô tâm trí hắn.
Charlie đụng phải tia nhìn của Manfred. Charlie nhìn chòng chọc vô mắt hắn và cố đọc ý nghĩ của hắn.
“Thôi ngay!” Manfred gầm. “Mày đang cố chặn tao. Hừ, lần này mày đừng hòng lấy đó mà thoát.” Manfred chồm hẳn người qua bàn. Mặt hắn tiến gần, tiến gần tới. Gần sát đến nỗi Charlie thấy cả đốm sáng chết chóc ở chính giữa hai con mắt đen ấy. Nó cảm thấy hình như mình đang rơi vô trong đấy. Tất cả những gì nó muốn là thoát ra, là nhắm mắt lại, ngủ một giấc. Tuyệt vọng, nó cố tránh những hình ảnh đang chen lấn đòi len vô đầu nó. Mình cấm không được, không được, nó nghĩ. Nhưng vô ích. Nó thấy chiếc thuyền Cánh Xám. Nó thấy mặt biển nổi bọt sóng và một bầu trời đêm chi chít những vì sao.
“Nó thấy gì?” giọng nội Bone lờ mờ đâu đó.
Câu trả lời của bà cô Eustacia thậm chí càng lờ mờ hơn. “Một chiếc thuyền được gọi là Cánh Xám… mặt trời mọc… cá voi kêu… một bầu trời đêm, nhưng… à ha… những chòm sao úp ngược.”
Cái giọng nhẽo nhẹt, vo vo ve ve, khiến Charlie bất lực. Nó chẳng cục cựa được mà cũng chẳng thể mở mắt lên. Giờ bọn chúng đang hỏi nó một câu khác. Một câu nó không thể trả lời.
“Ai là Hiệp sĩ Đỏ, Charlie?”
“Tôi không biết.”
“Bọn tao nghĩ mày biết.”
“Không biết.”
“Hắn là ai?”
“Vua Đỏ.”
“Không phải. Tập trung, Charlie.”
Đầu Charlie oặt xuống. Nó cố ngóc lên, nhưng cái đầu nó nặng chịch. Nó thấy mình nghĩ đến người lạ đã đến mảnh sân sáng trăng nhà Gabriel; người lạ mặc áo khoác ngắn có mũ trùm đến mang áo chùng của Vua Đỏ đi. Charlie có biết ai mặc áo khoác ngắn liền mũ? Không, không ai hết, ngoại trừ… ngoại trừ… ông nội của Manfred, ông Bartholomew Bloor. Ông là người khác một trời một vực với những người trong họ nhà Bloor. Chính ông đã giúp Charlie tìm được cha. Trước khi Charlie kháng cự được, một hình ảnh ùa vô óc nó. Lần cuối cùng nó gặp ông Bartholomew Bloor, ông đang mặc áo khoác ngắn có mũ trùm màu xanh sẫm.
Giọng bà cô Eustacia nghẹt ứ. “A ha!”
Chợt một tiếng sủa lớn xộc vô những ý nghĩ của Charlie. Nó ngẩng đầu lên. Con chó này chắc chắn đang ở đằng trước ngôi nhà, nhưng tiếng sủa của nó khoan xoáy vô hành lang. Charlie không biết là Benjamin đã nhấc cái nắp thùng thư lên và Hạt Đậu đang sủa thẳng qua cái lỗ đó.
Mắt Charlie mở bừng ra. Manfred đã thẳng người lên nhưng bà cô Eustacia ngồi im thít, ngơ ngác, dòm chàu bạu xuống mặt bàn.
“Tỉnh lại đi, Stace[3]!” Nội Bone bật ngón tay lách tách kê ngay mũi bà cô Eustacia, và bà cô Eustacia ngẩng phát lên lườm bà chị. “Giỏi lắm, bọn ta đã đạt được những gì bọn ta muốn.”
“Còn nữa,” bà cô Eustacia làu bàu.
“Có một con chó chết dẫm ngoài cửa,” bà cô Venetia hét om sòm. ”Bọn ta phải ra tính sổ nó.” Đoạn mụ phóng ra, theo sau là bà cô Lucretia và nội Bone.
“Tôi nghĩ Eric lo liệu nó rồi,” Manfred tỉnh bơ.
Charlie bật dậy, co giò chạy bừa ra cửa trước. Nó phải chớp mắt mấy lần mới định hướng được đàng hoàng, nhưng khi trạng thái lơ ngơ do bị thôi miên tan đi, nó thấy ngay Eric đang đứng choán khung cửa để mở, với bà cô Venetia kè sát bên.
Một tiếng bịch thật lớn, rồi một tiếng nữa. Tiếp liền bằng tiếng người thét và tiếng chó rú. Khi Charlie vượt lách được qua bà cô Venetia, nó trông thấy Benjamin, Hạt Đậu và Olivia đang cố né những bức tượng phù điêu từ trên tuờng bứng ra, bay vèo vèo tới chúng nó. Eric đang khoái chí đùa cợt. Nó nhẩy cẫng lên sung sướng mỗi lần một bức tượng phù điêu long ra khỏi tường và bay chíu tới vỉa hè.
“Đủ rồi, Eric,” bà cô Venetia mắng. “Mày phá tan nhà bây giờ.”
“Charlie, ra khỏi đó mau!” Olivia thét hết cỡ.
Charlie băm bổ xuống những bậc cấp. “Chạy, Liv! Tớ chạy ngay sau đằng ấy rồi!” nó thét.
Một bức tượng phù điêu bắn theo sau, trúng gót chân Charlie. Hạt Đậu nhảy dựng quanh nó, sủa như điên.
“Eric, đủ rồi!” bà cô Venetia ra lệnh.
“Tụi minh ra khỏi đây!” Benjamin gào. “Hạt Đậu! Lại đây, bạn. Lẹ!
Ba đứa trẻ chạy vắt giò ra khỏi cụm nhà số 13. Nếu cả bọn cứ cắm đầu chạy thì có lẽ chúng sẽ thoát thân với vài cục u bầm, nhưng bất ngờ, có một chuyện xảy ra. Và đối với một đứa trong bọn chúng, không cái gì còn giống như trước kia được nữa.
Olivia bất thần quay phắt lại. Con nhỏ nhặt cái thân không đầu của một bức tượng phù điêu bể lên, định ném trả lại Eric thì, hồn siêu phách lạc, bức tượng vươn cánh tay lẻo khẻo ra tóm chặt lấy cổ tay con nhỏ. Olivia thét lên một tiếng thất thanh khiến hai thằng con trai dừng kít lại. Chúng quành lại giúp con bé, giật tấm thân ngo ngoe, lôi cẳng, cố cậy những ngón tay cứng chắc ra khỏi cổ tay Olivia. Eric bật cười sằng sặc.
Lúc này tất cả bốn chị em nhà kia đã đứng chùm nhum ở bậc cấp trên cùng, sau lưng Eric. Bà cô Venetia đang cười đắc chí. Bà cô Eustacia và bà cô Lucretia hùa theo và rồi, nhịn không nổi, nội Bone cũng buột ra một cơn cười rũ rượi.
Olivia trợn mắt dòm lên Eric và bốn bà già. Con bé nghĩ thầm xem cái gì có thể khiến bọn họ hoảng sợ. Cái gì có thể quét sạch những vẻ nhúm nhó lố bịch khỏi bộ mặt họ và dập tắt tiếng cười cay độc của bọn họ? Nó tưởng tượng ra một bộ xương cao nghều nghệu, đội nón đen và áo chùng đen, vung vẩy một lưỡi kiếm cong, dài sọc.
Và lão hiện ra! Đứng ngay trước bậc cấp, vung lưỡi hái lên chuẩn bị chém.
Tiếng cười méo thành những tiếng thét kinh hồn. Eric và mấy bà cô biến mất, đóng sầm cửa lại sau lưng.
“Ổ, Liv! Sao bồ làm được vậy?” Charlie hỏi.
“Mình không thể cưỡng được,” Olivia đáp khi cái thân không đầu buông tay ra và rơi phịch xuống đất. “Vả lại, nó thành công trong lúc nguy ngập mà. Rõ ràng Eric sẽ mất tập trung khi hoảng sợ.”
“Cái đó ấn tượng quá chừng chừng!” Benjamin thất vọng khi thấy bộ xương mờ dần đi. Nó vỗ về Hạt Đậu trong khi chân cẳng con chó vẫn còn run như cầy sấy. “Đó chỉ là một ảo ảnh thôi, Hạt Đậu à.”
Cả bọn cấp tốc chuồn khỏi Ngách Tối, Charlie cứ thảy ánh mắt lo lắng về phía Olivia. Con nhỏ đã tự lộ mình. Đến giờ gia đình Bloor vốn chưa biết nó được ban phép thuật, nhưng chẳng lâu nữa đâu mấy bà Yewbeam sẽ hoàn hồn sau cú choáng, và các mụ sẽ biết. Rồi thể nào mấy mụ đó cũng sẽ phao cái tin mới này đi.
Olivia quăng cục lơ với Charlie một hồi. Con bé cô ý tránh chạm phải mắt Charlie, nhưng cuối cùng nó tru tréo, “Thôi đừng nhìn đây kiểu đó nữa, Charlie. Bọn này đã cứu đằng ấy mà!”
“Nhung bồ đã để lộ mình, Liv!” Charlie nói. “Bà nội mình với mấy bà em của bà ta sẽ biết chính bồ đã làm hiện bộ xương đó ra và bọn họ sẽ rêu rao cho tất cả mọi người cùng biết. Sau đó thì sao?”
“Sau đó thì sao?” Olivia nhại lại Charlie. “Thì tụi mình sẽ biết chứ sao?” Con bé chà chà cái cổ tay chỗ bức tượng phù điêu để lại những vết bầm thấy ghê trên da nó.
“Xin lỗi,” Charlie nói, cảm thấy tội đồ. “Cảm ơn bồ đã cứu mình. Việc xảy ra thế nào vậy?”
Benjamin giải thích rằng nó đã tới nhà số 9 tìm Charlie và thấy ngoại Maisie đang “hớt hơ hớt hải”, theo như lời nó kể. Bà đã tìm thấy mẩu thư nhắn mà nội Bone viết, nhưng bà không thích nghĩ đến việc Charlie đang ở một trong những ngôi nhà Ngách Tối. Cho nên Benjamin xung phong đi tìm Charlie. “Cùng với Hạt Đậu, dĩ nhiên,” Benjamin thêm vô. “Mình không thể đi nếu không có nó. Và mình đã gặp Olivia đang trên đường đi tới tiệm sách, và bạn ấy bảo sẽ cùng đi với mình. Đông người an toàn hơn mà.”
“Cảm ơn,” Charlie nói. “Xin lỗi mình đã cằn nhằn bồ, Liv.”
“Đáng ra mình nên suy nghĩ kỹ!” con bé hất mái tóc nhuộm lên, cười toe.
“Có Manfred ở đó,” Charlie lẳng lặng nói. “Hắn đã thôi miên mình.”
Olivia và Benjamin dừng khựng lại. Hai đứa dòm Charlie cho tới khi Charlie thấy lúng túng.
“Rắc rối là, mình không biết mình đã nói gì không nên nói với chúng chưa. Mình đã cố đừng nói, nhưng mình không thể nhớ được.” Nó vuốt vuốt cái đầu bờm xờm của con Hạt Đậu. “Hạt Đậu đã báo động cho mình tỉnh dậy.”
Bọn chúng đã về tới đường Filbert và Charlie thở phào khi thấy chiếc xe thùng của Ông cậu Paton đậu bên ngoài nhà số 9.
Olivia, Benjamin và Hạt Đậu theo Charlie xông vô nhà, ở đó nó thấy ngoại Maisie và Ông cậu Paton đang thưởng thức bữa ăn dưới ánh nến với bánh hấp cá hồi và khoai tây chiên. Có ê hề cho tất cả mọi nguời, và trong khi ai nấy ăn mải mê, Charlie kể lại ngày hôm nay của nó, hồi tưởng lại vụ thoát khỏi Amos Byrne bằng những điệu bộ kịch tính đến nỗi hai lần nó suýt gạt bay hũ tiêu ra khỏi bàn.
“Trời ơi!” ngoại Maisie kêu lên. “Tóc con cháy xém cả rồi, Charlie. Bà có thể ngửi thấy mùi khét. Con cấm không được chạy đi đâu mà không báo cho bà biết đấy. Đáng ra con phải… Ôi, chỉ nghĩ tới thôi bà đã không chịu nổi.”
Ông cậu Paton gật đầu. Mặc dù vẻ mặt ông nghiêm nghị, và mặc dù ông biểu lộ tất cả sự hoảng hốt và lo lắng rất đúng mực, Charlie vẫn cảm thấy còn có điều gì khác nữa đang làm ông cậu nó bất an. Hình như ông không toàn tâm chú ý đến cuộc chuyện trò quanh bàn. Ánh mắt ông cứ lướt xa xăm ra khỏi mọi người.
“Ông cậu Paton, ông đã đi đâu vậy?” Charlie hỏi.
Ông cậu nhìn nó đăm chiêu. Trông không sai là ông vừa mới kéo tâm trí trở về từ nơi nào đó, rất xa. “Ta đã ở đâu không quan trọng,” ông nói. “Bây giờ hãy nói ta biết coi, các bà chị của ta đã hỏi con về Hiệp sĩ Đỏ phải không?”
Đầu óc Charlie chợt sang sáng ra chút ít. Bức màn thôi miên gây khó chịu đang vén lên. “Dạ, họ đã hỏi đích xác về hiệp sĩ, và mặc dù con không nói thành lời nhưng con nhớ mình đã nghĩ rằng đó có thể là ông Bartholomew.”
“Bartholomew?” Ông cậu Paton lộ vẻ ngờ vực.
“Wow! Tuyệt cú mèo.” Olivia ụp hai bàn tay chống dưới cằm. Con bé đeo bao tay hở ngón đính rua băng vàng óng và bạc. “Tớ hy vọng bồ không nói gì với chúng về Tancred,” con nhỏ nói.
Charlie lắc đầu. “Đừng nghĩ thế. Không đâu. Bọn chúng không chạy lòng vòng để hỏi về Tancred.”
“Phù! Vậy tốt.” Olivia ngẩng đầu lên và chập hai bàn tay đeo găng hở ngón lại với nhau. “Thế thì anh ấy an toàn.”
“Đúng. Nhưng bồ thì không, Liv à,” Charlie nói.