Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 11: Thiên thần trong tuyết

Tác giả: Jenny Nimmo

Một chiếc xe cảnh sát ập tới ngay tắp lự sau xe cứu thương. Cả hai loại xe đều quá trễ để cứu sống cụ Barnaby Bittermouse xấu số. Rõ mười mươi là cụ đã chết rồi, mặc dù cảnh sát điều tra không thể khẳng định được loại vũ khí nào đã giết cụ. Nghi vấn rằng cụ là nạn nhân của một vụ cướp không hề được đặt ra. Nhưng đã xảy ra chuyện gì vậy? Ví tiền vẫn còn ở trong túi quần cụ, chiếc đồng hồ vàng vẫn đeo trên cổ tay, và có mười bảng tiền lẻ còn nằm ở trong một ngăn kéo.

Charlie có thể thấy Ông cậu Paton đang cố quyết định xem có nên đề cập tới chiếc hộp hay không. Nếu ông nói quá nhiều thì rất có thể ông sẽ bị đưa đến đồn cảnh sát để thẩm vấn. Thể nào ông cũng bị ngồi bên dưới một ngọn đèn, có khi nhiều ngọn đèn, và ngọn nào cũng sẽ nổ tung, trước sự nhục nhã và ngượng đến chín người của Ông cậu Paton.

“Chúng tôi muốn rời khỏi đây bây giờ,” Ông cậu Paton hạ thấp giọng nói với cảnh sát Singh, người mà ông đã nhận ra sau nhiều vụ chạm mặt khác. “Như vậy có tiện chăng?”

“Được, thưa ông. Nhung chúng tôi cần địa chỉ và số thoại của ông.” Viên cảnh sát ngờ vực liếc nhìn Ông cậu Paton. Người đàn ông cao to đội nón đen này có gì đó là lạ. Chẳng phải ông ta đã gây ra mấy vụ rắc rối cách đây vài tháng? Bóng đèn… chính xác. Những vụ nồ bóng đèn. “Đừng rời khỏi thành phố, thưa ông. Có thể chúng tôi sẽ lại cần nói chuyện với ông lần nữa.”

“Ố, nhưng tôi muốn…” Ông cậu Paton đắn đo. Trông ông nhấp nhỏm. “Tốt. Tôi sẽ báo cho anh biết nếu tôi dự định đi xa.”

“Thế cũng được, thưa ông.” Cảnh sát Singh rút quyển sổ tay ra. “Nào, vui lòng cho biết địa chỉ và số điện thoại của ông.”

Ông cậu Paton cho họ biết, một cách miễn cưỡng.

Viên cảnh sát rà lại những ghi chú của mình, “Ông đã không hề biết quý ông lớn tuổi này, nhưng chỉ đến gặp để xin tư vấn về việc lập di chúc, cho dù hôm nay là Chủ nhật.” Anh ta hơi nhướng lông mày lên một tẹo, nhưng vẫn nói tiếp bằng giọng như cũ. “Và ông thấy cửa trước để mở.”

“Đúng,” Ông cậu Paton xác nhận. “Tôi là người bận rộn và Chủ nhật là ngày duy nhất tôi có thể làm những việc… è, thế này.”

Charlie thêm: “Cửa tự mở ra khi cháu gõ nó.”

Cảnh sát Singh phớt lờ lời nó nói. Họ đã nắm hết tất cả mọi chi tiết trước đó rồi. Nhưng để không bị gạt ra rìa, Emma bảo: “Và cháu là người đầu tiên bước lên cầu thang.”

“Mọi người lúc này có thể đi được rồi,” cảnh sát Singh nói, ngoáy cây viết lia lịa lên quyển sổ tay.

Ba ông cháu đi hàng một ra lối Tigerfield. Xe cứu thương và hai chiếc xe cảnh sát đang đậu ở hém Thắt Cổ. Ồng cậu Paton sải bước đi ngang qua mà không liếc nhìn chúng. Charlie và Emma phải chạy mớí theo kịp ông và khi họ đi tới cổng dẫn vô ngõ Nhà Thờ Lớn, Charlie buột miệng. “Đó là Ashkelan Kapaldi. Chính hắn đã giết cụ già tội nghiệp đó.”

“Cái gì khiến con có ý nghĩ như vậy?” Ông cậu Paton vẫn cắm cúi bước trên đường sỏi, mặt ông đanh lại giận dữ.

“Bởi vì cái vết chém dưới ván lót sàn. Thanh gươm có thể gây ra cái vết dó. Lúc nó đuổi theo con, nó cũng chém xuống đường như thế.”

Ông cậu Paton chậm bước, rồi ông dừng hẳn lại và nhìn Charlie. “Con cừ đấy,” ông nói.

“Con đã thấy cảnh sát nghiên cứu cái vết chém đó,” Charlie nói. “Chắc hẳn họ thắc mắc dữ lắm cái gì đã gây nên nó.”

“Thế tại sao bồ không nói cho họ biết về thanh gươm?” Emma hỏi.

Charlie nhìn cô bé một cái ngán ngẩm. “Mình nói bằng cách nào đây, Em? Làm sao mình nói được rằng: ‘Xin lỗi, có một người đàn ông đến từ trường của chúng cháu, hán đã ra khỏi một bức tranh, và hắn có thanh gươm tự chém giết được?”

Emma trề môi lập luận, “Bồ nói thế được chứ sao. Biết đâu họ sẽ tới gặp và thẩm tra hắn.”

“Ta nghi ngờ lắm, Emma,” Ông cậu Paton nói. “Cảnh sát không thích nhúng sâu vô những chuyện siêu linh dị thường.”

Emma nhún vai. “Con về nhà đây.”

Họ nhìn cô bé băng qua quảng trường và biến mất vô tiệm sách, và lần này Ông cậu Paton không cố đi theo cô bé.

“Bọn chúng tìm chiếc hộp phải không?” Charlie nói. “Bất kỳ kẻ nào giết cụ Bittermouse cũng đều làm việc cho gia đình Bloor.”

“Có lẽ vậy. Nhưng chúng có tìm thấy nó không? Và tại sao lại phải giết cụ già đáng thương đó?” Ông cậu Paton thảy một tia nhìn nấn ná tới tiệm sách và rồi sải bước đi tiếp về phía đường Đồi Cao.

Ngay khi về đến nhà, Ông cậu Paton gọi điện thoại cho bác Silk trai và kể cho bác nghe tin tức. Charlie có thể nghe thấy tiếng ồn ào trong phòng nơi bác Silk cầm máy. Đúng là vào giờ ăn trưa nên tiếng dao nĩa va lách cách vô đĩa, tiếng ông Onimous chất vấn rõ mồn một, sau đó tới giọng của Gabriel gióng giả, “Phải Charlie gọi không ba? Ai bị giết?”

Khi Ông cậu Paton nói hết tất cả những gì ông cần nói, Charlie nhận lấy ống nghe để nói chuyện với Gabriel- Nó muốn biết cuộc họp mặt quan trọng của mấy anh lớn đã bàn bạc về vấn đề gì.

“Không có gì nhiều đâu,” Gabriel nói. “Tụi này đã nghĩ ra vài phương án để đối phó với tay kiếm sĩ. Emma đã kể hết mọi việc đã xảy ra với em rồi, vì vậy tụi này đoán là cả buổi sáng em sẽ nằm ì trên giường.”

“Làm gì được may mắn thế,” Charlie nói. “Emma đã kéo em đi tìm gặp cụ luật sư ấy. Nó nghĩ có thể ông cụ giữ chiếc hộp mà mọi người đang tìm kiếm. Khi đến đó thì bọn em phát hiện cụ ấy… bị giết.” Charlie hạ thấp giọng. “Thủ phạm là tay kiếm sĩ, Gabe à, em biết. Có một vết chém dưới…” Nó bị cắt ngang đánh xoẹt bởi ai đó mở cửa trước.

Nội Bone bước vô. “Mày đang làm gì thế hả?” mụ hạch hỏi, trừng mắt nhìn Charlie.

“Xin lỗi. Phải cúp máy, Gabe. Bà nội về.” Charlie đặt ống nghe xuống.

“Tao nghe mày dính líu đến một vụ giết người.” Nội Bone trợn mắt nhìn Charlie như buộc tội.

“Sao bà biết?” Charlie cãi. “Việc chỉ vừa mới xảy ra thôi.”

“Tao muốn biết mày đã làm gì ở lối Tigerfield.” Charlie không trả lời. Nó nhìn bà nội tháo đôi bao tay đen của mụ ra và nhét chúng vô túi áo. Kế tiếp, mụ tháo chiếc nón có dính chùm lông chim màu tím ở đằng sau, tháo chiếc khăn quàng màu hoa oải hương ra khỏi cổ và tuột thân ra khỏi tấm áo khoác lông thú màu đen. Khi mụ đã mắc hết tất cả mớ áo xống đó lên giá treo áo khoác xong, mụ sẵng giọng, “Sao hả?”

Charlie bước vô nhà bếp, nơi Ông cậu Paton đã nghe thấy tất cả những gì bà chị mình vừa nói, ông đang tự pha cho mình một tách cà phê đen. “Quá sửng sốt, những lời đó tuôn ra khỏi bộ óc thấp kém của bà mới nhanh làm sao, Grizelda,” ông nói, thả một cục đường

vô cà phê của mình. “Có một mạng lưới gián điệp trong thành phố này mà tôi thấy rặt là một bọn ghê tởm.”

“Mi đang nói về cái gì đó? Bữa trưa đâu? Ta đang đói,” mụ nói hết thảy trong một hơi.

“Tất cả chúng tôi đều nhận thấy rằng bà nằm trong cái âm mưu đáng hổ thẹn là lừa phỉnh Billy Raven về quyền thừa kế hợp pháp của nó.” Đôi mắt sậm màu của Ông cậu Paton không rời gương mặt bà chị khi ông từ từ khuấy chiếc muỗng trong cái tách của mình. “Thậm chí cả ý đồ dìm chết con trai của chính bà. Vấn đề là tôi đã luôn luôn tự hỏi tại sao lại như vậy, hả Grizelda, tại sao? Giờ thì tôi nghĩ là tôi biết rồi.”

Nội Bone lườm em trai của mụ với cảm xúc gớm ghiếc pha lẫn căm ghét. “Mi không biết lần này bọn mi đối phó với cái gì đâu, Paton Yewbeam,” mụ gầm gừ và rời khỏi phòng.

Charlie kéo một cái ghế ra ngồi cạnh ông cậu. “Ý ông vừa nói gì vậy, Ông cậu P.?” nó hỏi. “Ông đã tìm ra nguyên nhân thật sự tại sao nội Bone lại như thế à?”

Ông cậu Paton im lặng một lát. Ông tiếp tục khuấy cà phê, hầu như không ý thức hành động của mình. Charlie bắt đầu ngửi thấy mùi cái đùi cừu ngoại Maisie đang nướng trong lò. Nó nghĩ đến khoai tây nướng gìon mà ngoại Maisie luôn luôn nướng chung với thịt cừu và nước sốt béo ngậy màu nâu. Bởi vì nó vẫn mệt đừ cho nên ý nghĩ về một bữa mê ly sắp tới len vô tâm trí nó như một giấc mơ, và nó quên phéng luôn mình vừa hỏi ông cậu câu gì, cho tới khi ông bắt đầu nói.

Charlie đã nghe câu chuyện về mẹ của Ông cậu Paton bị trượt té trên những bậc cấp của lâu đài Yewbeam và đập đầu xuống nền đá phiến. Nó biết rằng bốn bà chị của Ông cậu Paton vẫn sống ở trong lâu đài sau khi mẹ của họ chết, trong khi Ông cậu Paton và cha của họ ra đi. Lâu đài thuộc về bà cô của họ: Yolanda, một kẻ biến hình tai tiếng. Chính mụ này đã biến những cô cháu gái thành những kẻ chống lại cha và em trai họ. Đó là tất cả những gì Charlie biết, nhưng nó không giải thích tại sao Grizelda, bà chị cả, tức bà nội nó, lại thù hằn chính con trai của mình.

“Việc liên quan tới tình yêu, Charlie.” Ông cậu Paton ngó đăm đăm ra cửa sổ. Những bông tuyết đáp nhẹ xuống khung kính và căn phòng ngập tràn ánh sáng trắng đục. “Chồng của nội Bone, ông Monty, không yêu bà ta. Ai mà chịu nổi cách cư xử như mụ – ghen tị, hách dịch, vô cảm, tham lam…? Đáng lẽ ông Monty không bao giờ cưới bà ta, nhưng ông bị gài bẫy, bị bỏ bùa, nếu muốn nói như thế, chắc chắn là bởi bà cô Venetia bằng một món trang phục yêu ma của mụ. Mụ vốn giỏi chuyện này, thậm chí cả khi còn nhỏ tuổi. Ông Monty đáng thương chẳng thể chịu nổi một cơ may. Grizelda luôn muốn cưới một phi công, và bà ta đã có một phi công. Nhưng không lâu.”

“Chuyện gì đã xảy ra?” Charlie ngó trân trân gương mặt góc cạnh nhìn nghiêng của ông cậu, ngóng chờ để nghe tại sao máy bay cùa ông Monty lại rơi. Lâu nay nó vẫn hay hỏi sự việc này xảy ra như thế nào, nhưng dường như không ai biết. Rốt cuộc, Charlie đang khấp khởi hy vọng là ông cậu đã khám phá ra, thì nó thất vọng ông cậu Paton chẳng đả động gì tới vụ rơi máy bay. mà bắt đầu thuật lại cuộc gặp của ông với một phụ nữ tên là Homily Brown, sống ở miền Tây Nam xa xôi.

Bà Homily Brown đã từng là một người bạn rất thân của ông Monty. Họ học cùng trường với nhau. Chính ông James, cha của Ông cậu Paton, đã nhớ rằng ông Monty được sinh ra tại một ngôi làng nhỏ mang tên Vô Giác. Và đó chính là nơi Ông cậu Paton đã tới vào một trong những chuyến đi mới đây của ông, khi ông cố lắp ráp các biến cố đau thương của dòng họ Yewbeam và dòng họ Bone.

“Ông Monty đã trở về quê nhà một tuần trước khi ông ấy tử nạn.” Giọng ông cậu Paton trầm bổng, “ồng về để lập một bản di chúc. Bà Homily tìm cho ông một luật sư rồi sau đó bà với một người bạn nữa làm nhân chứng. Ông để lại tất cả mọi thứ cho người con trai duy nhất của ông, Lyell. Nhưng đó không phải là tất cả. Ông viết một lá thư – một thông điệp tang tóc, buồn đau để sau này sẽ trao cho Lyell khi Lyell mười tám tuổi, ông cũng dặn con trai mình không bao giờ tin vào những người nhà Yewbeam, không bao giờ được để họ lèo lái cuộc đời mình và…” Ông cậu Paton dừng lời và hít hơi thật sâu, “Bà Homily đã đọc lá thư này, nhưng không bao giờ hé răng về nó và, ta phải thừa nhận rằng, ta thấy phần cuối lá thư thật choáng sốc.”

“Nó nói gì ạ?” Charlie hỏi, cố gồng mình để chuẩn bị đón nhận một sự tiết lộ kinh hoàng.

Ông cậu Paton liếc nhìn nó, trong khoảnh khắc, Charlie nghĩ rằng Ông cậu Paton không đủ can dám nhắc lại phần cuối lá thư của ông Monty Bone, nhưng rồi, lời nói cũng vuột ra, cùng với một tiếng thở dài. “Ông Monty đã bảo Lyell phải tiêu diệt nhà Yewbeam trước khi họ tiêu diệt chú ấy.”

Giờ đến lượt Charlie quay ra ngó chong chong những bông tuyết đang rơi qua cửa sổ. Quá nhiều câu hỏi ngổn ngang trong đầu nó, nhưng trước khi nó chưa kịp nêu ra thì ngoại Maisie đã đâm bổ vô nhà bếp, ca cẩm về tuyết với khoai tây quá lửa và cà rốt chưa nấu, với lại về nội Bone đang sưng sỉa trong phòng của mụ.

Trước khi họ kịp đối đáp ra sao thì bữa trưa đã dọn lên bàn và Ông cậu Paton liền cắt xẻ món cừu. Thế nhưng mùi đồ ăn thơm phức và cái bụng trống rỗng đang kêu gào vẫn không thể đẩy được ý nghĩ về lá thư của ông Monty Bone ra khỏi đầu óc Charlie. Nó được sai mang một khay đồ ăn lên cho nội Bone và trong khi nó cẩn thận bưng cái khay lên đặt trên cái bàn trong phòng mụ, nó không thể không nghĩ rằng, mụ ta biết về lá thư đó và mụ không bao giờ muốn ba nó về nhà.

“Mày làm đổ nước tùm lum.” mụ già mắng xơi xơi khi Charlie rời phòng.

“Cháu xin lỗi.” Charlie đóng cửa lại trong khi bà nội nó kèo nhèo về khoai tây khô và thiếu nước sốt.

“Ông lại định đi nữa à?” ngoại Maisie đang hỏi Ông cậu Paton khi Charlie trở lại nhà bếp.

“Tới đêm thứ Hai mới đi,” Ông cậu Paton trả lời. “Dĩ nhiên tôi phải báo cáo với cảnh sát.”

“Nhưng mà…” Charlie nhìn trân trối vô ông cậu, “Ông vẫn chưa tìm được đủ sao?”

“Chưa, Charlie. Ta muốn lần tìm theo dấu vết của một việc khác. Tất cả đều nối kết với nhau, ta nghĩ vậy, nhưng chúng ta cần biết chỗ cất giấu chiếc hộp khảm xà cừ đó.”

“Có lẽ bọn chúng đã tìm thấy nó ở trong phòng làm việc của cụ Bittermouse rồi,” Charlie nói.

Ông cậu Paton lắc đầu. “Nếu thế thì tại sao chúng phải giết cụ ấy?”

“Thanh gươm làm đấy chứ. Nó tự hành động theo ý nó mà, ông biết đấy.”

Con dao ăn và cái nĩa của ngoại Maisie đập cách cách trên đĩa của bà. “Làm ơn đi,” bà nài nỉ, “hai người để cho tôi ăn xong bữa trưa của tôi với nào. Hai người không thể nói về cái gì dễ chịu hơn để thay đổi sao?”

“Nói về thời tiết nhe bà?” Charlie nói, cười ngoác mồm ra tuyết ngoài trời. “Có lẽ trường sẽ cho nghỉ và tụi con có thể đi xe truợt tuyết ở khu Đồi Cao.”

“Còn bà sẽ mặc đồ kín mít, ngồi phệt đít xuống và cắt giảm việc đi mua sắm,” ngoại Maisie phá lên cười.

Tuyết vẫn tiếp tục rơi.

Sau bữa trưa, Charlie đi lên phòng nó. Claerwen đang bay lớt phớt trên tấm kính cửa sổ như thể cô nàng đang cố hóa thân thành tuyết. Charlie đặt Claerwen lên tay và cô nâng bò lên vai nó, đậu ở đó, gập đôi cánh 1ại và xem nó viết bài luận văn với đầu đề: Ngày nghỉ.

Charlie chưa bao giờ được đi nghỉ cả. Có những lúc khỏi phải đến trường nhưng nó không bao giờ được thưởng thức một cuộc hành trình tới nơi có nắng ấm, bãi cát vàng, bầu trời xanh và những mái nhà trắng với hồng. Thỉnh thoảng Ông cậu Paton có đưa nó đi thăm ông cố của nó sống ở bên bờ biển: một vùng biển xám, sóng dữ, nơi mòng biển tụ tập và sóng dữ quất không thương tiếc lên những vách đá đen. Nhưng những chuyến thăm đó đều phải giữ bí mật, bởi vì nếu nội Bone mà biết về chỗ ở của cha bà ta, thì hẳn là mụ sẽ truy lùng ông và quấy nhiễu ông tới khi ông xuống mồ mới thôi. Có một lý do khác, anh trai của ông cố cũng sống ở đó – một cậu bé chưa bao giờ lớn tên là Henry, bị Quả cầu Thời gian bắt đi. Quả cầu Thời gian này là một viên bi đẹp diệu kỳ mà lão Ezekiel đã dùng để cố trục xuất Henry trôi về Kỷ Băng Hà.

Charlie mỉm cười khi nhớ về Henry, hiện đang sống yên ổn trong mái tranh của em trai mình bên bờ biển.

Sau vài phút mê đắm trong những suy nghĩ, Charlie tưởng tuợng đến một ngày nghỉ trên đảo Ca-ri-bê. Và rồi nó nhận ra mình không cần phải tưởng tượng làm chi – nếu nó có thể tìm được một tấm hình ai đó đang ngồi trên bờ biển Ca-ri-bê, thì nó có thể chu du tới đó. Nhưng Charlie đã phát ớn việc chu du vô tranh ảnh. Việc đó chẳng tao giờ thú vị như nó hy vọng. Nó không bao giờ quen nổi, và cuộc hành trình trở về nhà luôn khiến nó run rẩy. Bây giờ nó phải bảo tồn năng lượng cho cuộc hành trình hóc hiểm vô xứ Badlock để cứu Billy Raven.

Bài luận của nó đã xong. Charlie cảm thấy mình xứng đáng một chiếc bánh quv, có khi hai chiếc. Trong nhà ắng lặng. Cả hai bà của nó đều đang ngủ, chắc chắn vậy, còn Ông cậu Paton chắc là đang viết lại những ghi chú cho chương tiếp theo quyển sách của mình, Lịch sử dòng họ Yewbeam.

Chưa phải là tối nhưng bầu trời đã thẫm lại trong khi tuyết đang rơi. Charlie hầu như không thấy đường ở đằng cuối nha bếp. Đồ đạc trong phòng lờ mờ không rõ hình thù, như thể chúng bị phủ một bức màn mỏng màu xám. Charlie mò mẫm được một hộp bánh quy và đem để nó lên bàn. Nó ngồi xuống bắt đầu ăn trong khi nhìn tuyết rơi bồng bềnh.

Chuông cửa reng.

Nếu tiếng chuông có đánh thức hai bà dậy thì rõ ràng họ cảm thấy không bắt buộc phải ra mở cửa. Cả ông cậu Paton cũng không luôn.

Chuông lại reng nửa.

Charlie thấy vừa rồi đâu có ai đi ngang qua cửa sổ. Đường Filbert vắng như sa mạc; tuyết phủ lấp nhũng chiếc xe đang đậu, dày cả tấc.

Lần thứ ba, tiếng chuông hầu như không phải là một âm thanh thực tí nào. Charlie có cảm tưởng hình như nó vang ở bên trong đầu mình. Nhưng nó cảm thấy sự thôi thúc phải đi ra cửạ. Nó thận trọng mở cửa và một đám mây tuyết trôi vô hành lang.

Một phụ nữ đứng ở khung cửa. Tóc của cô trắng như tuyết. Cô mặc áo khoác trắng và choàng một chiếc khăn màu vàng óng trên vai.

Charlie thảng thốt kêu lên. Tay nó ụp vội lên miệng. Trong thoáng chốc nó tưởng như một thiên thần tuyết vừa đáp xuống bậc cửa nhà mình. Và rồi nó nhận ra người phụ nữ đó. “Cô Alice Angel,” nó thì thầm.

Cô Alice mỉm cười, “Chào cháu, Charlie. Cô vô đuợc chứ nhỉ?”

Nó đứng né qua bên và cô bước vô hành lang. Một mùi hương quyến rũ sượt ngang qua Charlie và nó nhớ tới cửa hàng hoa của cô Alice, “Hoa Thiên Thần”, nơi những bông hoa trắng, thân cao tỏa mùi hương mê hồn khắp không gian.

“Bấy nay cô đã ở đâu vậy ạ?” Charlie hỏi.

“Cô ở cửa hàng khác của cô,” cô đáp, đặt chiếc vali nhỏ bọc da xuống sàn nhà. “Nó ở cách đây rất, rất là xa.”

Charlie đỡ chiếc áo khoác mềm màu trắng của cô Alice và đem treo nó lên mắc áo. “Sao cô trở lại?” nó hỏi. “Olivia.”

“Olivia?” Charlie dẫn cô Alice vô nhà bếp và bắc ấm nước lên. Xem ra căn phòng đột nhiên sáng hơn, nhắt là chỗ cô Alice đứng trong tấm váy trắng và đôi ủng cao màu xám bạc. “Thật lạ là cô đến đây vào lúc này, bởi vì có thể Olivia sẽ gặp rắc rối.”

“Cô biết,” cô Alice nhíu mày lo lắng.

Bạn ấy để lộ mình rồi.”

“Kể cho cô nghe chuyện thế nào đi.” Cô Alice ngồi xuống bàn trong khi Charlie rót cho cô một tách trà. Cô không yêu cầu nó pha nước, nhưng ngồi nhấm nháp trà trong khi nghe Charlie kể về bức tượng đá và bộ xương mà Olivia đã làm hiện ra để hù dọa Eric kẻ-làm-sống-tượng thì thật dễ chịu.

Vẻ mặt nghiêm trang của cô Alice giãn ra. “Vậy mới hợp biết bao: một bộ xương. Olivia quả là có trí tưởng tượng mãnh liệt. Nhưng đáng ra cô bé không nên để lộ tài phép của mình. Bây giờ cô mất con bé rồi.”

Có tiếng chân bước trên cầu thang, Charlie và cô Alice nhìn ra cửa. Charlie cầu trời đó không phải là nội Bone. Nhưng Ông cậu Paton ngó vô phòng và lập tức nhận ra cô Alice.

“Ôi, Alice thân mến, điều gì mang cô tới đây vậy?” ông hỏi. “Lại giữa bão tuyết nữa. Chắc hẳn là khẩn cấp lắm đây.”

“Đúng thế,” cô Alice nghiêm trang. “Dù sống cách đây ba trăm dặm, nhưng tôi luôn biết khi nào Olivia cần tôi. Đó là bản năng mà tôi có, không thể giải thích được. Ngay khi về tới thành phố tôi đã tới nhà Olivia.” Mặt cô tối sầm lại và cô run rẩy nhấp một ngụm trà. “Họ không cho tôi gặp con bé.”

“Không… ư?” Ông cậu Paton ngồi phịch xuống. “Có chuyện quái gì thế?”

“Cha của Olivia ra mở cửa,” cô Alice tiếp. “Chú ấy bảo Olivia không còn là nó nữa. Tôi nài nỉ chú ấy bảo với con bé là tôi vừa mới đến, rằng tôi muốn gặp đứa con đỡ đầu yêu thương của tôi, vì vậy, chú ấy đi lên lầu tới phòng con bé trong khi tôi đợi trong hành lang.” Nước mắt long lanh đọng nơi khóe mắt to màu nâu nhạt của cô Alice. “Khi chú Vertigo đi xuống thì chú ấy bảo… chú ấy bảo…” cô nín bặt và chậm nước mắt bằng một chiếc khăn mùi xoa trắng.

Ông cậu Paton đặt một tay lên cánh tay cô. “Chú Vertigo đã nói gì?”

Cô Alice ngồi thẳng lưng lên và giắt chiếc khăn vô ống tay áo. “Chú ấy bảo rằng Olivia không muốn gặp tôi, và tôi vui lòng hãy ra khỏi nhà ngay lập tức.”

Charlie không thể tin vô tai mình. Olivia rất yêu mẹ đỡ đầu của nó. Chuyện gì khiến nó quay lưng lại cô Alice Angel vậy? Trừ phi…

“Tôi sợ là bọn chúng đã thu phục con bé rồi,” giọng cô Alice giờ đã rắn rỏi hơn. “Nhưng tôi sẽ không đầu hàng đâu, và tôi nhất định sẽ không rời khỏi thành phố này. Tôi sẽ ở lại đây cho tới khi Olivia frở lại là mình. Phiền cái là,” cô lưỡng lự, “tôi không chắc mình có thể ở đâu. Ngôi nhà tôi từng ở giờ vẫn để trống, nhưng nó rất, rất lạnh.”

“Cô phải ở đây,” Ông cậu Paton đứng bật dậy. “Tôi cương quyết đề nghị.”

Ngoại Maisie đi vô phòng, đúng lúc ông cậu Paton đứng dậy định đi gọi bà. Ngoại Maisie lắng nghe câu chuyện của cô Alice bằng vẻ mặt cam chịu mà dạo này bà hay mang. Tuy nhiên, Charlie có thể nhận thấy vẻ nồng nhiệt của bà đối với mẹ đỡ đầu của Olivia, và không lâu sau thì bà đã mời cô một chiếc bánh do bà nướng và “thêm một ly rượu nhé”, rồi sau đó bà bắn vù lên lầu dọn dẹp giường trong căn phòng mà mẹ của Charlie từng ngủ.

Trong suốt quãng thời gian đó không hề thấy tăm hơi nội Bone đâu. Thậm chí cả trong bữa tối cũng không thấy bóng dáng bà ta. Charlie gõ cửa phòng nhưng không có tiếng trả lời. Lẽ nào bà ta đã ra ngoài? Hay bà ta vẫn còn đang ngủ?

“Bà ấy đang ngủ,” ngoại Maisie nói, thận trọng ra ngó cửa phòng của nội Bone vào lúc 9 giờ. “Mọi người không nghe thấy tiếng ngáy ư?”

Charlie cũng đi vô giường ngủ. Ngày mai phải đi học. Liệu nó có gặp Olivia ở trường? Nó tự hỏi. Và con bé sẽ làm gì? Con bé sẽ trở thành bạn của ai?

Kệ cho bao nhiêu câu hỏi ong ong trong đầu, Charlie thấy mình dễ dàng ngủ dip lại. Nó nghĩ đến cô Alice Angel đang ở trong căn phòng phía trên nó. Thật dễ chịu khi biết cô ở trong nhà mình, cho dù cô là thiên thần hộ mệnh của người khác.

Chúng ta sẽ mượn cô ấy vậy, Charlie nói một mình, chỉ một thời gian thôi, cho đến chừng nào Olivia lại muốn có cô ấy. Rồi tâm trí nó lại lan man đến Billy Raven, bị kéo đi qua khoảng thời gian chín trăm năm tới cung điện của lão thầy bùa. Chả trách thằng bé không muốn về nhà. Bạn thiết thân của nó là một cô bé xinh xắn nhất trên đời – một bé gái tóc quăn lòn lọn, có nụ cười dịu dàng; một bé gái tên là Matilda, người mà Charlie sẵn sàng cho đi tất cả để được gặp lại một lần nữa.

Billy chẳng được sung sướng thoải mái như Charlie tưởng tượng. Thằng bé đang bị phạt, và nó đổ tội cho Rembrandt.

Rembrandt là con chuột của Billy, một con chuột đen bóng, mắt sáng quắc và có một bộ ria dài hết sức ấn tượng. Chú ta tình cờ ở trong túi quần của Billy khi thằng bé bị hút vô bức tranh xứ Badlock do một thứ bùa độc địa của thầy bùa (hay gọi theo danh xung đầy đủ của lão là bá tước Harken của xứ Badlock).

Cuộc sống ở xứ Badlock rất huy hoàng đối với Billy. Nó có quần áo đẹp để mặc, có đồ ngon để ăn và có một khu rừng đầy muông thú do yêu thuật tạo ra để hàng ngày đến thăm. Lại có cả Matilda, cháu gái của bá tuớc Harken, làm người bạn hiền lành nhất mà Billy từng biết. Nhưng Rembrandt muốn về nhà. Chú chàng năn nỉ ỉ ôi, kêu ca, kèo nhèo và nhai đôi giày mới của Billy, tóm lại là chú ta quấy nhiễu hết chỗ nói. Billy có thể liên lạc được với thú vật. Nó hiểu rõ từng tiếng chít, tiếng tru rống, rừ rừ và liếp chiếp… và còn nhiều thứ tiếng nữa… của đủ các loài thú.

Một ngày nọ Rembrandt đi quá xa. Đúng ngay vô bữa tối, một thời điểm tệ hại nhất mà chú ta lựa để quậy. Bữa tối trong cung điện của thầy bùa là một sự kiện quan trọng. Nó được phục vụ trong một tòa nhà rộng mênh mông bằng đá hoa cương đen. Những vì sao giả chiếu sáng trên mái trần hình vòm và những bức tường treo đầy các loại vũ khí sáng loáng.

Cái bàn lát kính trên mặt dài bảy mét, buộc lão bá tước và vợ, ngồi ở hai đầu đối diện nhau phải quát hết cỡ mới nói chuyện được với nhau, và tiếng quát của họ thường khiến cho Billy nhức đầu.

Billy và Matilda ngồi sát bên nhau, đối diện với Edgar, anh trai của Matilda, một thằng bé có gương mặt câng câng, hay hù dọa Billy bằng cách bất thình lình hiện ra từ một bức tường hay một cánh cửa. Những người ăn tối chỉ việc gọi tên những món mình muốn ăn, tức thì món ăn đó sẽ hiện ra. Billy thường chọn bất kỳ món gì Matilda chọn. Đó thường là súp Thịt viên, mặc dù đôi khi cô bé tiến cử cho nó xơi món bánh hấp Đại lễ, hoặc bánh tráng miệng Triệu hoa. Billy cố lén cho Rembrandt ăn càng nhiều càng tốt khi Edgar không nhìn thấy chú chàng. Edgar ghét cay ghét đắng chuột, thằng đó gọi Rembrandt là đồ ghê tởm, không xứng đáng được đi trên mặt đất chứ đừng nói là sống trong một cung điện.

Vì vậy khi Rembrandt, mệt chán vì những món ngon thường ngày, nhảy lên bàn và chạy cái vù qua đĩa của Edgar, thằng này nhảy dựng lên thét như bị bóp cổ, giật lấy một con dao treo trên tường và phi vô con chuột. Hên là con dao bắn sượt qua Rembrandt, lướt lập phập trên bàn, nhưng Billy đã đứng phắt lên, quát thét Edgar.

“Đồ độc ác, đồ kinh khủng!” Billy thét. “Mày suýt giết chết con chuột của tao!”

“Thật đáng tiếc là nó đã không giết chết con vật,” bà bá tước lạnh lùng nhận xét.

Cái lạnh tanh trong giọng nói của bà ta làm Billy tê cứng người lại. Rembrandt nhảy vô vòng tay nó, và nó ngồi phịch xuống.

“Sinh vật đó phải bị giết,” bà bá tước tiếp. “Ngài có đồng ý không, ngài Harken?”

Billy nhìn ngây vô gương mặt dài của bà bá tước. Đôi mắt đen ti hí của bà ta dán chặt vô con chuột đang lủng lẳng nơi ngực Billy.

“Sao hả ngài Harken? Nói gì đi!” mụ bá tước cao giọng chất vấn.

Billy quay qua dòm lão bá tước, lão này cho đến bây giờ vẫn lờ tịt vở kịch đang diễn ra trên bàn ăn của lão, như thể không có gì bất thường xảy ra. Nhấp một ngụm rượu từ cái ly bằng vàng, lão nhìn Billy với vẻ trầm ngâm rồi đứng lên.

Billy co rúm lại trước ánh nhìn xoáy buốt của lão thầy bùa. Tấm áo thụng xanh lá cây của lão sáng choe chóe kim cương và đá ngọc thạch, búi tóc của lão chói rực một lớp vàng nhuyễn. Đôi khi Billy nể sợ vẻ lộng lẫy của chủ nhân của nó đến nỗi nó không dám nhìn lão. Nó nom nớp chờ đợi lời tuyên bố chính thức của thầy bùa. Cuối cùng lời tuyên bố cũng vang lên.

“Chúng ta không cần mất công với con chuột đó,” lão thầy bùa nói.

Trái tim Billy đập một nhịp nhẹ nhõm. Tuy nhiên niềm hy vọng của nó bị dập tắt ngúm bởi lời tiếp theo của lão thầy bùa. “Sinh vật đó có thể làm đồng bọn với thằng bé ở trong hầm ngục.”

”Thưa ngài, ngài không thể làm thế!” Matilda kêu lên.

“Billy là khách của chúng ta.”

“Ta mệt mỏi khách khứa rồi!” lão bá tước gầm lên mắng cô bé. “Lính đâu, đem thằng nhóc này đi.”

Trước khi Billy kịp nghĩ điều gì xảy ra tiếp theo, hai người lính xông tới, tóm lấy hai bên cánh tay nó. Rembrandt rớt tọt xuống nền nhà và chạy hấp tấp bén gót Billy khi thằng bé bị điệu ra khỏi phòng. Nó có thể nghe thấy tiếng khóc phản đối của Matilda mờ dần khi nó bị mang đi càng lúc càng xa, qua những hành lang tối và dài hun hút dẫn tới hầm ngục.

Bình luận
× sticky