Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Chu du cùng với con trăn

Benjamin tỉnh dậy quá sớm. Nó có thể nghe thấy tiếng Hạt Đậu sủa om. Có gì đó trục trặc rồi. Trời vẫn còn tối mù và Charlie đang ngủ say. Benjamin mò mẫm quần áo và mặc vô thật lẹ. Nó vừa định mở cửa thì Charlie thức giấc.

“Ben, bồ đó hả?” Charlie ngái ngủ.

“Mình về nhà đây,” Benjamin thì thầm. “Hạt Đậu đang sủa. Mình muốn xem coi mẹ mình có ổn không.”

Bỗng nhiên tỉnh như sáo, Charlie nhảy tót khỏi giường và bật đèn lên. “Đừng đi mà không có mình, Ben. Mình muốn biết chuyện gì đã xảy ra.”

Khi Charlie mặc đồ xong xuôi, hai thằng bé rón rén xuống lầu, rời khỏi nhà. Đường Filbert vắng tanh và lặng ngắt. Hạt Đậu đã ngừng sủa, nhưng có một ngọn đèn sáng trong hành lang nhà số 12.

Giữa lúc quá tất bật và hồi hộp vào buổi tối hôm trước nên Benjamin đã quên mang theo chìa khóa cửa nhà. Nó nhấn chuông và Hạt Đậu lại sủa nhặng lên. Thoáng sau, chú Brown mở cửa ra nhưng vẫn còn để sợ dây xích giăng ngang. Chú nhìn qua khe hở chừng mười xăng-ti-mét và hỏi “Ai đó?” bằng giọng dõng dạc, thách thức.

“Tụi con đây, ba.” Benjamin ghé sát mặt vô khe hở “Cho tụi con vô, đi.”

“Tụi con là ai?” Ba nó hỏi.

“Charlie và con. Tuicj con muốn biết coi mẹ có ổn không.”

“Là cháu đây chú Brown.” Charlie kiễng chân lên và nhìn qua đầu Benjamin.

À. Thấy rồi.” Chú Brown thảo sợi dậy xích ra vè mở cửa. “Nhanh lên. Vô đi. Coi chừng chúng theo dõi ba mẹ đó.”

“Ai ạ?” Charlie hỏi, khi nó theo Benjamin và chú Brown vô nhà bếp.

“Bọn chúng,” chú Brown đáp. “Chú chẳng thể nói thêm gì hơn thế.”

Cô Brown đang ngồi bên bàn ăn. Cô đã mặc váy thường nhật và áo lạnh của mình nhưng chưa tẩy trang kỹ lắm. Trán cô vẫn còn những đường kẻ màu xám giả làm nếp nhăn, với một bên má hồng và một bên má trắng. “Mới có 5 giờ mà,” cô vừa nói vừa ngáp. “Các con làm gì ở đây?”

“Hạt Đậu đánh thức con dậy,” Benjamin nói. ” Với lại tụi con muốn biết có chuyện gì xảy ra với mẹ.”

Ấm nước sôi và chú Brown rót ra bình trà, chú nói, “Đó là một câu chuyện dài lắm, các con. Mẹ con đã bị rượt đuổi ngoài đường, Ben à. Mẹ phải ở gần hết nửa đêm tại nhà một bà thợ rèn tên là bà Kettle.”

“Bà Kettle?” Charlie kêu lên. “Bà ấy là bạn đó ạ.”

“Đúng thế, Charlie,” cô Brown nói. “Chắc chắn cô đã không thể còn ở đây nếu không có bà ấy.”

Chú Brown trao cho tất cả mỗi người một tách trà và trong khi nhấp trà cô Brown bắt đầu kể về cuộc phiêu lưu dựng tóc gáy của mình. Rốt cuộc Charlie đã biết bức tranh ở đâu, và như thế nào; trong bộ đồ bảo hộ và chiếc mũ vải cùa bà Kettle, cuối cùng cô Brown mới thoát khỏi lũ người độc ác để tới được chỗ chồng mình – chú đang đợi chờ cô trở lại với vẻ đau đơn và lo lắng tột cùng.

“Mẹ không biết bọn người đó là ai,” cô Brown nói, uống nốt tách trà của mình, “nhưng mẹ chắc chắn bọn chúng là đám người cực kỳ ác độc và hùng mạnh. Bà Kettle tin rằng bọn chúng đã ém lực lượng ở đường Piminy nhiều năm rồi. Đang chờ thời cơ, chờ ai đó như mụ Tilpin đến xúi giục bọn chúng hành động.

“Chắc chắn bây giờ bọn họ bị xúi giục rồi,” chú Brown nói.

“Vậy là bức tranh ở trong Nhà Nguyện Cổ,” Charlie tư lự.

“Charlie, cháu không thể tới đó đâu đấy,” cô Brown tuyên bố, “nó không an toàn đâu.”

“Nhưng cháu phải tới đó,” Charlie tranh luận. “Cháu phải cứu Billy khỏi bức tranh.”

Cô Brown giơ tay lên và nhìn chồng.

“Chúng ta sẽ nghĩ một cách khác, Charlie,” chú Brown nói. “Chúng ta sẽ bàn thật kỹ để tìm ra một giải pháp cho cháu. Chúng ta luôn luôn tìm ra giải pháp nếu chúng ta chú tâm vào việc gì đó, phải không Trish?”

“Dĩ nhiên rồi.” Cô Brown cười với Charlie. “Điều tốt nhất cháu làm bây giờ, là trở về nhà và ngủ thêm đi. Rồi sau đó cháu sang đây cũng được, khi cô chú đã có thời gian suy nghĩ kỹ hơn.” Cô nhắm mắt lại và ngáp một cái thật dài.

Charlie hiểu ý cô. “Dạ.” Nó đứng lên và Benjamin tiễn nó ra cửa trước.

“Đừng làm gì mà không có mình đấy nhé, Charlie?” Benjamin nài nỉ.

“Ừ, nếu mình có thể được,” Charlie nói.

Nhà số 9 vẫn tối om. Charlie lỉnh vô và nhón chân lên phòng nó. Nó nằm xuống giường, vẫn còn mặc đồ, biết rằng cho tới đêm hôm sau mình cũng sẽ không tài nào ngủ lại được. Nó đã quyết định: Phải đi vô bức tranh trước khi bức tranh lại bị dời chỗ lần nữa. Nhưng làm sao nó đi tới đường Piminy mà tránh được những cảm tình viên hung hãn đang rình nó? Và đó chỉ là vẫn đề nhỏ nhất trong những vấn đề mà rất có thể nó sẽ gặp phải. Nhà Nguyện Cổ sẽ bị khóa, bảo đảm là thế, thậm chí Charlie có xoay xở đi vô được đằng cửa sổ, thì chắc gì nó sẽ lại đi vô được bức tranh.

“Nhưng tớ biết tớ có thể,” Charliee thì thào vô bóng tối, “bởi vì bồ sẽ giúp tớ, Claerwen à.”

Một đốm sáng dịu lướt trên không phía trên đầu Charlie và đáp xuống cánh tay nó. Claerwen chỉ đơn thuần đáp lời gọi tên cô nàng, hay ý cô nàng bảo với Charlie là cô nàng sẽ giúp được?

“Tớ có một ý này,” Charlie nói với con bướm trắng. Nó tuột khỏi giường, bật đèn lên và viết một bức thư nhắn cho ngoại Maisie. Mẩu thư ghi:

Con và Benjamin tới tiệm sách

Tạm biệt, ngoại Maisie

Thương yêu ngoại,

Charlie.

Charlie không thích nói dối ngoại Maisie, nhưng bà sẽ lo lắng nếu bà nghĩ nó đi một mình. Nó chỉ hy vọng Benjamin sẽ không tới tìm nó sau bữa sáng.

Charlie để mẩu thư nhắn trên bàn bếp, nơi ngoại Maisie chắc chắn sẽ nhìn thấy. Bà luôn dậy trước nội Bone.

Bình minh lừ lừ hiện ra. Một tia sáng mong manh trên đường chân trời nhưng đường phố vẫn tối, không khí lạnh căm căm. Charlie bắt đầu chạy. Trước khi tới tiệm sách nó phải đi qua mí cuối của đường Piminy và nó ớn đoạn đó lắm. Đi gần tới chỗ quẹo vô ngõ Nhà Thờ Lớn bỗng nhiên nó có cảm giác như ai đó đang đi theo mình. Nó dừng chân và quay lại, rất chậm. Thì ra: Dương Cưu, Sư Tử và Nhân Mã, những cái chân chắc mập của chúng nảy trên sỏi, đầu chúng ngẩng cao và đuôi dựng đứng, lông rực rõ nổi bật trong ánh trời tờ mờ sáng.

“Ô chào, những con mèo lửa!” Charlie khẽ gọi. “Cảm ơn vì hộ tống mình nhé.” Nó đường hoàng đi qua khúc cua đường Pimimy và dấn bước tới tiệm sách.

Chuông nhà thờ gõ bảy tiếng đúng lúc Charlie tấp vô quảng trường. Đến 9 giờ cô Ingledew mới mở tiệm. Charlie tự dưng thấy mình ngớ ngẩn. Nhưng khi ngó vô tiệm sách tối mù mù, nó chắc chắn nghe thấy có tiếng người. Nó nhấn chuông.

Những con mèo lửa bước nhẹ tênh qua quảng trường và ngoái nhìn lại Charlie từ xa. Cô Ingledew mặc áo ngủ màu đỏ từ nhà trong đi ra tiệm và đứng sau quầy. Cô ngó lom lom Charlie qua cửa sổ, không nhận ra nó.

“Là con đây, Charlie,” nó gọi.

Cô Ingledew xoẹt ra cửa cái và mở khóa. “Con làm cái quái quỷ gì ở đây vào giờ này thế hả?” cô hỏi, không tử tế cho lắm.

Những con mèo lửa, hài lòng rằng Charlie đã an toàn, nên đi lo công việc của chúng.

Charlie bước xuống những bậc thang vô trong tiệm. “Con phải cần một lúc mới giải thích hết được.”

“Con nên vô ăn sáng một chút đi đã.” Cô Ingledew dẫn nó đi qua phòng khách và vô nhà bếp nhỏ ở nhà sau. Charlie ngạc nhiên thấy Olivia và Emma đang ăn trứng luộc. Hay đúng hơn, Olivia đang ăn. Emma chưa hề đụng vô phần trứng của nó.

“Chao! Mấy bồ đang ăn sáng cho một ngày thứ Bảy nha,” Charlie nhận xét.

“Còn đằng ấy thì cuốc bộ cho một ngày thứ Bảy,” Olivia đáp lại.

Emma ngẩng gương mặt buồn so lên nói, “Mình không thể ngủ được, và điều đó khiến cho mọi người cũng không ngủ được luôn. Bồ ăn trứng nhe, Charlie?”

Charlie đọng lòng vì vẻ mặt sầu bi của Emma đến nỗi nó không biết nói gì. “Không… è, có… ừ, chỉ bánh mì nướng,” nó lảm nhảm.

“Đừng choáng thế Charlie,” Olivia tru tréo. “Đằng ấy sẽ cảm thấy như thế nào nếu người mà đằng ấy thật sự quan tâm… ừm, rằng đằng ấy không bao giờ gặp lại người đó nữa?”

“Tớ sẽ buồn khủng khiếp,” nó nói, kéo ghế ngồi giữa bọn con gái. “Buồn khủng khiếp,” nó thêm. “Chính vì vậy mà mình ở đây.”

“Về Billy phải không?” Emma tui sầm thảm trong lòng nhưng con bé vẫn nhận ra những bất hạnh của người khác.

“Đúng ra là,” Charlie lựa lời, “là Billy vẫn có một cơ hội.”

“Nhưng Tancred thì không,” Emma rầu rĩ.

“Mình không có ý đó.” Charlie chồm người né qua bên khi cô Ingledew đặt một giá bánh mì nướng lên bàn. Nó bất chợt nhận ra mình không thể kể về cuộc họp của những cảm tình viên. Nếu cô Ingledew mà nghe về cuộc đào thoát trong đường tơ kẽ tóc của cô Brown khỏi đường Piminy thì chắc chắn cô sẽ ngăn Charlie khỏi cố gắng đột nhập Nhà Nguyện Cổ.

“Chứ đằng ấy có ý gì?” Olivia hỏi, quắc mắt với Charlie.

“Đừng nhìn tớ như thế,” Charlie than van. “Chắc chắn mấy bồ nghĩ tất cả do lỗi tại mình mà Tancred… chết đuối. Nhưng tớ đã không biết anh ấy sẽ đi gặp Darbert trong phòng Điêu khắc. Tớ bị nhốt. Tớ không thể làm gì được cho chuyện đó.”

“Tụi này không đổ lỗi cho bồ, Charlie,” Emma nhỏ nhẹ. “Bồ định cứu Billy một lần nữa phải không?”

Charlie ngần ngừ. Nó không thể nhắc tới Nhà Nguyện Cổ khi cô Ingledew cứ lượn lờ đằng sau. “Không phải vì mình đã tìm thấy Claerwen,” nó nói.

“Tìm thấy cô nàng rồi à? Sao đằng ấy không nói?” Olivia nạt nộ.

“Mình quên.” Charlie thọc tay vô túi và cảm thấy những cái chân mỏng mảnh của con bướm trắng chạm vô đầu ngón tay mình. “Đây này.” Nó lôi cô nàng ra và đặt lên hũ mứt cam, ở đó đôi cánh bạc của cô nàng bắt ánh đèn trên trần nhà.

Cuối cùng cả hai đứa con gái cũng toét miệng cười. “Hààà!” chúng thở ra.

“Nó đẹp quá,” cô Ingledew nói, ngồi xuống đối diện Charlie. Cô vuốt mái tóc dài màu hạt dẻ của mình ra sau và hỏi “Ông cậu của con đã về chưa, Charlie?”

“Chưa. Nhà con không biết ông đang ở đâu.” Charlie nhún vai. “Ngoại Maisie cố gọi di động cho ông, nhưng không bao giờ có hồi đáp. Bọn con nghĩ ông ở cách đây hàng trăm dặm, ở đó không có sóng.Thật sự, con ước gì ông cậu về.”

“Cô cũng mong vậy.” Cô Ingledew nhìn sững con bướm trắng như mê đi mất một phút, và rồi cô đứng lên và đỏ mặt nói. “Cô phải thay đồ đây. Cô còn phải làm việc nữa.”

Ngay khi dì nó rời khỏi phòng, Emma thì thào. “Tớ nghĩ dì nhớ ông cậu của bồ hơn là tớ tưởng.”

“Chính xác,” Olivia đồng tình. “Tại sao họ không lấy nhau đi?”

Charlie không biết trả lời vụ này thế nào. “Mình nghĩ mình đi đây,” nó nói. “Mình đi đằng cửa sau được chứ.”

“Sao bồ muốn đi lối đó?” Emma hỏi.

“Tại sao đằng ấy tới đây sớm thế này? Để làm gì?” Olivia nói. “Chỉ để khoe tụi này con bướm thôi sao?”

“Mình đi tới Nhà Nguyện Cổ ở đường Piminy,” Charlie hạ thấp giọng. “Mình muốn đi cửa sau để không ai trông thấy mình. Bức tranh ở đó.”

Olivia nhướng cặp mắt lên. “Đây cũng nghĩ việc đó phải làm bây giờ là đúng.”

Hai đứa con gái đi theo nó ra cửa sau ở cuối nhà bếp.

“Bồ có thể khóa cửa lại sau khi tớ đi qua,” Charlie nói, bước ra cái sân nhỏ ở nhà sau của tiệm sách.

“Bồ sẽ không trở lại bằng đường này à?” Emma hỏi.

“Ừm. Không biết. Mình sẽ gõ cửa nếu mình về.” Charlie len lỏi đi qua những thùng rỗng dùng để đựng sách tới cánh cổng ăn vô tường. Cánh cổng gỉ sét do ít sử dụng rít lên ầm ĩ khi Charle mở ra và đóng lại.

Giờ nó đã lọt vô con hẻm hẹp chạy giữa sân sau của đường Piminy và ngõ Nhà Thờ Lớn. Bọn con gái nghe thấy tiếng nó đi trên lối sỏi nhấp nhô một hồi lâu sau khi buổi sáng tối trời nuốt chửng lấy nó.

Emma thầm thì. “Mình không thích thế này tí nào, Liv. Trời chưa sáng mà mấy người sống ở đường Piminy thì…”

“Nguy hiểm,” Olivia nối lời. “Mình nghĩ tụi mình phải liên lạc với những người khác.”

“Ai? Fidelio thì đi biểu diễn ở đâu đó. Gabriel đang chạy khắp thành phố để thu thập đơn kiến nghị. Còn Tancred…” Emma thở dài. “… không thể, và Lysander… A, Lysander!”

“Chính xác,” Olivia tán thành.

“Đúng, dĩ nhiên, Lysander.” Emma theo Olivia trở lại nhà bếp, cảm thấy bớt lo phần nào.

Charlie đang băng qua mảnh sân gạch đằng sau Tiệm Ấm thì có ảnh lửa xanh thình lình nháng lên thắp sáng cửa sổ lò rèn. Bà Kettle rõ ràng đã bắt đầu làm việc sớm. Thật yên lòng khi biết bà ở gần bên. Charlie tự hỏi tại sao nó không nghĩ tới bà Kettle từ trước. Nó đi tới cửa sổ lò rèn và ngó vô.

Bà thợ rèn, trong bộ đồ bảo hộ và đeo kính bảo vệ mắt, hình như đang rèn một cái quai ấm lớn. Khi thấy Charlie bà sửng sốt, liền đặt que hàn xuống và đi ra cửa sau.

“Cưng làm cái trò chết tiệt gì ở đây, Charlie Bone?” bà hỏi, thảo kính bảo hộ ra.

Charlie len lén nhìn ra sau vai và thì thào. “Cháu đang trên đường tới Nhà Nguyện Cổ.”

“Ta có thể đoán được lý do,” bà Kettle nói. “Cô Brown đã kể hết cho ta nghe rồi. Vô đây một phút đã, Charlie.”

Charlie bước vô lò rèn ấm áp. Chính tại nơi này bà Kettle đã rèn thanh gươm bất khả chiến bại mà hiện nay Hiệp sĩ Đỏ đeo bên mình. Có những thanh gươm khác treo trên các bức tường, Charlie nhìn chúng với vẻ hể hả – những dụng cụ lớn đó, không nghi ngờ gì, có thể gây ra những sự tổn thất đáng kể.

Bà Kettle gom mấy món đồ lặt vặt của mình lại và cất tất cả vô cái túi đựng đồ nghề bằng vải bạt. “Lúc này cưng đã nghĩ đến cách thức đi vô nhà nguyện đó như thế nào chưa, Charlie?”

“Cháu có nghĩ, nhưng không có được kết luận rõ ràng,” Charlie thú nhận.

“Ối không. Bộ cưng định sẽ đợi cho đến lúc tới đó để rồi bị bắt, bảo đảm là trong khi cưng đang đứng suy nghĩ à. Ố ồ, cưng cần cái này ngay từ lúc ban đầu.” Bà giơ ra một cái kìm trông to phát ớn.

Charlie ấn tượng qua chừng. Bà Kettle không những không cố gắng khuyên can nó đừng vô nhà nguyện mà bà còn giúp nó nữa. Nó không thể không toét ra cười.

“Đây là một việc nghiêm trọng, Charlie,” Bà Kettle cảnh báo nó. “Chúng ta phải rất, rất cẩn thận.”

“Dạ thưa bà Kettle.”

“Còn nữa. Cứ chờ đây.” Bà đi qua cánh cửa nặng nề vô tiệm và một nhoáng sau thì trở lại, mang theo một cái giỏ có đậy nắp. “Solomon. Cưng sẽ cần nó,” bà nói.

“Con trăn?” Charlie lùi lại một bước. “Sao vậy ạ?”

“Chứ cưng nghĩ tại sao nào? Vô hình sẽ là một thuận lợi vô cùng lớn lao ở một nơi như xứ Badlock, có đúng không?”

“Dĩ nhiên,” Charlie đồng ý. “Đúng ạ. Nhưng cháu không thể nói chuyện với Solomon. Chỉ có Billy mới nói được.”

“Hãy sử dụng con bướm của cưng. Chúng hiểu nhau mà. Cả hai đều cổ xưa, cả hai đều biết Vua Đỏ.”

Bà Kettle tỏ rõ sự can đảm và cương quyết, Charlie thấy mình đón nhận cái giỏ mà không nói một lời nào nữa. Họ rời nơi an toàn của lò rèn và thận trọng đi qua con hẻm. Những ngôi nhà hai bên in bóng lên bầu trời lúc này đã sáng hơn. Màu xam xám dội xuống con hẻm rải sỏi ra tới tận cột đèn đơn côi đằng kia. Đó đây một khoảng sáng được trông thấy trong một ô cửa sổ – cư dân của ngõ Nhà Thờ Lớn đang thức giấc, nhưng nếu dân chúng của đường Piminy có tỉnh dậy thì họ cũng không tỏ ra một dấu hiệu gì.

“Tới rồi, cưng” Bà kettle thì thầm.

Hai người tới một bức tường dây leo chằng chịt, nơi có cánh cửa gỗ mở một nửa ra con hẻm.

“Ối may phước – chúng thậm chí không buồn đóng cửa lại,” bà thợ rèn nhận xét bằng giọng thật thấp. “Ta không cần phải dùng cái kìm này nữa. Vô đi, Charlie.”

Họ vô nhà và đi chừng vài mét thì bị một bức tường chặn lối vô khoảng sau nhà nguyện. Charlie không thể thấy cánh cửa nào. Cao phía trên nó, một cửa sổ hình vòm bị đóng bít bằng những tấm ván dày. Nó tự hỏi làm sao mà đi tiếp được.”

“Đi vòng bên hông,” bà Kettle giật ống tay áo Charlie và nó đi thẻo bà quành ra bên hông một toàn nhà.

Bước khẽ trên lối đi rải sỏi, họ tới mộ cánh cửa sơn màu xanh lá cây tươi rói. Một ổ khóa to sụ treo bên dưới tay nắm cửa.

“Cái này dễ hơn ta tưởng,” bà Kettle nói. Quỳ xuống bên cạnh cái cửa, bà lấy từ trong túi đồ nghề ra một vòng kim loại có mấy cái ngàm sắt mỏng. Tra một ngàm sắt vô ổ khóa, bà vặn nó một lần, hai lần, ba lần. Một màn bụi xanh da trời phun tóe ra, một tiếng tách nhỏ và ổ khóa bung mở.

“Giờ đến cái tiếp theo.” Bà Kettle vỗ cái lỗ khóa bên cạnh tay nắm cửa. Cái này đòi hỏi phải dùng cái ngàm hơi to hơn. Bà thợ rèn xoay nó hai lần trong lỗ khóa. Lần này bụi bay ra có màu hồng và tiếng cách mở rên to hơn. Bà Kettle đứng lên và xoay nắm đấm. Cánh cửa mở vô trong và Charlie thấy mình đang đứng trên lối vô một sân khấu phủ chi chít dây leo.

“Đó!” bà Kettle chỉ một tấm bạt lớn dựa vô bức tường ở góc xa của sân khấu.

Charlie thấy mình không sao nhúc nhích được.

“Đi đi, Charlie,” bà giục. “Cưng không có nhiều thời gian đâu. Trời sắp sáng rồi.”

“Cháu không thể,” nó lắp bắp khản đặc. “Có gì ở trong đó. Có gì đó chặn cháu lại.”

“Kẻ ác đó,” bà Kettle nói điềm nhiên. “Những kẻ ác đọc như thế thường có khuynh hướng tung ý nghĩ của chúng đi khắp nơi, để những người như chúng ta không thể thở được không khí mà chúng ta đã hít thở rồi. Nhưng cưng có thể làm được Charlie. Cưng có đũa phép của ngài Mathonwy. Nó sẽ đưa cưng vượt qua.”

Con bướm đã bay ra khỏi túi áo Charlie và đang bay xà quần trên đầu nó, như thể cô nàng biết rằng đã đến lúc cần đến sự trợ giúp của cô nàng.

Charlie bước chậm rãi qua sân khấu. Nó đặt cái giỏ xuống và quay bức tranh lại cho đối mặt với mình. Một lần nữa nó cảm thấy cơn chóng mặt vì nhìn vô một thế giới kinh khủng vậy.

“Con trăn, Charlie!” bà Kettle khẽ nhắc. Thân hình to lớn gần choán hết cánh cửa của bà khiến Charlie lập tức can đảm dâng trào và nó mở cái giỏ. Con trăn xanh da trời trườn ra và ngúc ngoắc cái đầu có lông chim trên không.

“Claerwen, nói con trăn tớ muốn vô hình,” Charlie bảo. “Anweledig,” nó thêm, nhớ ra là nên dùng tiếng xứ Wales. “Và tốt hơn bồ hãy bảo chính nó cũng vô hình luôn. Con trăn anweledig.”

Con bướm đậu lên túm lông của con trăn. Một cảnh tượng kỳ khôi. Cô nàng đang nói với anh chàng bằng ngôn ngữ phép thuật của mình chăng? Xem ra nó có tác dụng, bởi vì con trăn nhìn Charlie ra chiều dò hỏi rồi chúi đầu xuống và bắt đầu cuốn quanh bàn chân Charlie. Từ từ, bàn chân Charlie, trong đôi giày thể thao màu xám, bắt đầu biến mất.

“Tạm biệt, bà Ketlle!” Charlie gọi.

“Chúc may mắn, Charlie,” bà đáp, bằng giọng nói dường như đã trôi xa.

Một cảm giác quái dị, nhìn thấy chính mình biến mất, nhưng không phải là không dễ chịu. Cú quấn của con trăn mát mát và chắc, và Charlie nghĩ về nó giống như một vòng ôm thân tình. Khi cảm thấy mình đã hoàn toàn biến mất, nó nhìn trừng trừng vô bức tranh, chờ cho gió rền rú như lần trước.

Không có gì xảy ra. Không một tiếng thì thào. Không một hơi thở. Charlie không được muốn ở xứ Badlock. Liệu cái bóng có nhận ra nó, Charlie, đang đứng mấp mé ngay mí thời đại của hắn?

“Claerwen, đưa tụi mình vô,” Charlie thì thầm. Rồi lại dùng tiếng xứ Wales. “Dwi isie mynd mewn.”

Con bướm trắng bay xẹt ngang qua bức tranh. Cô nàng bay qua những toà tháp và những ngọn núi, qua những tảng đá và những bụi rậm, qua những đồng bằng sỏi đá. Cô nàng bay qua bầu trời thấp tè và đôi cánh quạt nhanh đến nỗi Charlie không còn nhìn thấy hình hài của cô nàng nữa – tất cả những gì nó thấy chỉ là một quầng sáng bạc, và nó phải dụi mắt trước ánh sáng rực chói đó. Nó có thể cảm thấy con trăn, nằng nặng trên vai, và có gì đó trườn trượt bên dưới bàn chân.

Khi mở mắt ra nó đang chu du vùn vụt qua một khu rừng cây cối trụi lủi, những cành cây phủ đầy tuyết đông cứng. Và rồi, gió chướng nổi lên.

Bình luận
× sticky