Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Con cọp không có tim

Mãi đến đêm Billy mới nghe thấy tiếng người khổng lồ. Nó đã hỏi Dorgo nhưng anh đầy tớ chỉ lắc đầu, nói vẻ hối tiếc, “Người khổng lồ bị giam rất lâu. Ông ta ở đây bị phạt. Nhưng ông ấy không làm ồn.” Người đàn ông nhỏ thó đặt hai bàn tay lên cái mũ len, nơi Billy đoán là chỗ hai cái tai của anh và thêm, “Tôi không nghe thấy.”

Billy hỏi Matilda về người khổng lồ. Cô bé có vẻ lúng túng, “Ta có nghe nói đến người khổng lồ, nhưng ông ấy sống trong một tòa tháp trên đồng bằng. Ông ấy không phải là người khổng lồ thật sự, chỉ là một người rất cao lớn.”

“Dorgo biết rằng ông ấy đã bị mang tới cung điện này,” Billy nói. “Bạn không thể nghe thấy tiếng ông ấy à, Matilda? Giọng ông ấy rất yếu và buồn phiền.”

“Không.” Matilda nhìn trân trân Billy một hồi. “Có lẽ ngài có thể nghe thấy tiếng ông ta là vì ông ta từ thế giới của ngài, hay có lẽ…” cô bé nhíu mày suy nghĩ, “có lẽ đó là nhờ tài phép của ngài, Billy. Nếu ngài có thể nghe thấy tiếng ông ấy và hiểu được giọng nói của những sinh vật nhỏ xíu thì ngài cũng nghe được những lời không thể đến được với những người như ta.”

“Bạn nghĩ thầy bùa có nghe được ông ấy không?” Billy hỏi.

“Không nghi ngờ gì,” cô bé nói.

Chúng đang ở trong phòng của Billy, chơi với những món đồ chơi mà thầy bùa đã thiết kế riêng cho chúng: những hiệp sĩ thu nhỏ với những con ngựa thu nhỏ biết di chuyển khi nhấn nút, đặt trong một cái hộp gỗ nhỏ. Lũ ngựa mang đồ bịt móng nhỏ tị bằng bạc gắn vô bộ guốc màu ngà voi, và tiếng vó ngựa lọc cọc trên sàn gỗ luôn luôn khiến Matilda cười phá lên.

Hai đứa trẻ bây giờ đi đâu cũng có nhau. Billy chưa bao giờ thích ai như thích Matilda, có lẽ, ngoài Charlie. Nhưng Charlie vẫn chưa đến cứu nó. Matilda vừa hiền vừa tốt bụng. Khi cô bé lắng nghe những câu chuyện của Billy về học viện Bloor cô bé luôn nhíu mày lo âu, và cuối câu chuyện thì luôn bảo, “Ngài không có nhà trong tương lai Billy. Bây giờ nơi đây luôn luôn là nhà của ngài.”

Và chắc hẩn Billy sẽ đồng ý như vậy. Chỉ đến khi nghe thấy giọng nói trầm bổng của người khổng lồ vang đi khắp tòa nhà tối tăm thì Billy mới thoáng nghi ngờ. Nó không thuộc về nơi này, trong cung điện lạc thời này, với những đồ chơi bị yểm bùa và đồ ăn phù phép của thầy bùa này.

Đến đêm thứ tư, giọng của người khổng lồ khẩn thiết đến dộ Billy bật ra khỏi giường và kiễng chân đi ra cửa. Nó nhìn ra hành lang. Dorgo hình như đã ngủ gật. Anh ta ngáy ầm ĩ. Để cửa mở hé, Billy lỉnh đi ngang qua thân hình lùn chủn và chạy ra cầu thang. Không có gì khấy động – tiếng của người khổng lồ là âm thanh duy nhất. Billy nhón bước xuông cầu thang. Khi tới chân cầu thang nó ráng chú tâm lắng nghe, cố đoán xem cái tiếng ấy vọng ra từ đâu. Và giờ, từng lời của người khổng lồ vang đến tai nó rõ mồn một. “Amoret! Amoret!” Ngài đang gọi tên vợ của ngài.

Có gì đó khiến Billy quay phắt lại. Đuốc đã tắt trong hành lang rải lông thú. Nhưng trong ánh sáng lạnh lẽo của những vì sao giả, quay tít trên trần nhà, nó có thể nhận ra những cái đầu gớm ghiếc với những con mắt sáng quắc. Một ánh chớp bất thần nháng lên, Billy giật mình khiếp vía.

Thầy bùa đứng ở cuối hành lang đằng kia. Hắn ăn bận diêm dúa và chói lói đến nỗi mắt Billy gần như không chịu nổi khi nhìn tới. Hắn mặc áo chùng thêu bạc, thêm chiếc áo thụng xanh lá cây dài, kết kim cương. Lại thêm một cái mũ rực rỡ ngự trên mái đầu tóc vàng kim, và trên đầu cây đũa phép bằng ngà voi của hắn là một ngôi sao thủy tinh chiếu loa lóa.

Billy cố ngoảnh mắt khỏi hình nhân chóa lóa đó, nhưng nó không thể tránh được ánh nhìn của đôi mắt xanh lá cây đậm ấy. Chúng buộc Billy phải bước tới trước, đi trên thảm lông thú, tiến gần hơn, gần hơn đến chỗ lão thầy bùa.

Không một lời, lão thầy bùa đột nhiên rẽ vô một khung cửa mở rộng, Billy đi theo, nhưng thân hình chói lói đó đã biến mất, và Billy thấy mình đứng chơ vơ trong một khu rừng. “Ở trong cung điện ư?” Billy tự hỏi. “Một khu rừng ở trong cung điện?” Nó theo một lối mòn len lỏi qua những hàng cây với những loại cành lá khác thường, nảy bần bật như cao su, sau đó nó ở trong một khoảng trống ngập ánh trăng. Nếu mặt trăng đang tỏa xuống chiếu sáng nó là giả thì mặt trăng đó được làm giả cực kỳ nghệ thuật, bởi vì Billy có thể thấy những thung lũng và khe núi hệt như ở trên mặt trăng mà nó thấy từ những cửa sổ trong thế giới thực.

Một con gấu bước vô khoảnh trống: một con gấu đen, đi trên bốn chân. “Một con gấu ư?” Billy lầm thầm. “Nhưng xứ Badlock không có thú vật kia mà.” Và rồi sượt qua người nó, gần đến nỗi nó cảm thấy hơi thở nóng hổi của con vật. Trảng trống đột ngột tràn ngập âm thanh, và ngước nhìn lên vòm cây, Billy thấy khỉ chuyền cành, chim chóc sặc sỡ bay qua kẽ lá và một con rắn lấp lánh cuộn tròn quanh các thân cây.

Một đàn nai đủng đỉnh đi vô trảng trống. Chúng bắt đầu gặm cỏ sát ngay chỗ con gấu đang ngồi lả lơi liếm chân tay. Con cọp ngồi chồm chỗm ngay bên cạnh Billy. Rất chậm rãi nó chìa tay ra chạm vô cái đầu vằn sọc. Con cọp bắt đầu rên rừ rừ. Đó là một âm thanh ấm lòng, gợi nhắc Billy đến ba con mèo lửa. Nó nói chuyện với con cọp, dùng ngôn ngữ mà nó hy vọng là con vật sẽ hiểu. Con cọp không đáp lại. Mà tiếp tục rừ rừ, nhưng tiếng rừ của nó không mang ý nghĩ gì hết.

Billy cố nói chuyện với con gấu, nhưng con vật này cũng không đáp lại. Nó nói chuyện với bầy khỉ, với đàn nai, với con rắn, thậm chí với cả chim chóc. Nhưng bọn chúng không hiểu nó. Nó đã mất tài phép rồi chăng? Lão thầy bùa đã tước mất phép của nó?

“Chúng không có tim đâu,” một giọng nói. “Chúng không bao giờ nói chuyện với cậu đâu.” Rembrandt ló ra khỏi túi áo Billy. “Tớ thừa nhận là lão đã làm một việc khỏi chê,” con chuột nói, “nhưng rõ ràng chúng chỉ là những thứ do bùa chú tạo ra.”

“Thật không?” Billy thắc mắc liệu lão thầy bùa có trông thấy nó hay không. “Nhưng người chúng rất ấm và con cọp còn rừ rừ nữa mà, có lũ chim thì đẹp hết ý luôn.”

“Đừng thất vọng,” Rembrandt nói. “Ít ra là chúng không ăn thịt cậu.”

Billy đi sâu vô trảng trống. Một con đười ươi lặc lè bươn ra khỏi bụi rậm, gãi lột sột rồi lại rục rịch lùi trở vô bụi. Billy nhìn theo nó và trông thấy một con voi đang đi qua những hàng cây đằng xa.

“Tớ luôn mong thấy một con voi,” Billy nín thở.

“Nó không phải thật đâu. Tụi mình đi ngủ đi,” Rembrandt bảo.

Billy ngáp. Nó cảm thấy mệt rã rời. Nhưng khi quay đầu để rời khỏi khu rừng, nó không thể tìm thấy lối mòn đã dẫn nó vô trảng trống bị ếm bùa này ở đâu. Khi nó ngó trơ trơ vô bụi rậm, một màng cây bụi bắt đầu lay động như thể một con gì to lớn đang đi xuyên qua nơi đó. Bất thình lình, cái đầu của Dorgo thò ra giữa biển lá.

“Bị lạc chủ nhân,” anh đầy tớ nhỏ bé nói. “Giường lối này.”

Phóng bay về phía Dorgo, Billy thấy con đường vẫn còn ở đó, dưới những bụi cây lá rậm rạp đàn hồi. Giờ nó mệt đến độ tất cả những gì nó nghĩ tới chỉ là chiếc giường êm ái và ấm áp của nó.

Khi họ leo lên cầu thang đá hoa cương, giọng nói của người khổng lồ bị hòa lẫn vào trong tiếng bước chân lộp cộp của chúng, và đến khi Billy lăn ra ngủ, nó đã quên tất tần tật về giọng nói ấy.

Sáng hôm sau Billy chẳng còn nghĩ được về cái gì ngoài khu rừng đầy bọn thú bị yểm bùa. Nó muốn Matilda đi xem chúng, và hy vọng đừng có một bùa chú nào khác khiến cho chúng biến mất. Nó không cần phải lo lắng thế.

Matilda thích thú mê mẩn. Cô bé nhảy múa giữa đám thú, vuốt những cái đầu chúng và lắng nghe chúng liếp chiếp, líu ríu và rừ rừ. “Ngài ấy tinh thông biết chừng nào,” cô bé hét vang trời. “Ố, Billy, thầy bùa chưa bao giờ làm cái này cho ta, hay cho Edgar cả. Anh của ta sẽ ghen tị với ngài cho mà xem. Hãy chờ đến lúc anh ấy trông thấy khu rừng này.”

“Có lẽ nó không có ý dành riêng cho tôi đâu. Có lẽ nó là dành cho tất cả chúng ta.”

“Không. Không. Thầy bùa muốn đặc biệt làm vui lòng ngài. Ngài ấy muốn giữ ngài ở lại đây.”

Cách đây hai ngày thì điều này hẳn là sẽ làm Billy lo lắng. Nhưng bây giờ điều đó lại khiến nó vui. Mặc dầu nó ước gì bà Lilith và Edgar đừng nhìn nó hằn học như thế. “Tại sao anh của bạn lại ghen tị với tôi?”

Matilda đỏ bừng mặt lên. “Có lần ta nói rằng ta thích mái tóc trắng và đôi mắt màu trái dâu của ngài, và thầy bùa khen là ta có gu tuyệt vời. Edgar nghe vậy thì liền cáu kỉnh bỏ đi.”

Lại thêm một điều khiến Billy sửng sốt nữa – được thán phục vì màu mắt bạch tạng của nó. Nó cười toe toét sung sướng.

Edgar khước từ không tới khoảnh rừng bị ếm bùa. Trong bữa tối thằng này kêu ca là thú vật rất “bẩn thỉu và nguy hiểm”.

“Lũ thú này không như vậy, Edgar à,” lão thầy bùa nói. “Chúng rất đặc biệt. Cậu thích chúng như thế nào, Billy?”

Billy trả lời là nó rất, rất thích. Bà Lilith quẳng cho nó một cái nhìn thương hại còn Edgar thì nhăn mặt.

Matilda đã mách nước cho Billy nên ăn loại thức ăn nào, cho nên bây giờ nó rất hay hào hức mong đợi đến giờ ăn. Vào lúc cuối của một bữa ăn nọ, Billy phát hiện một việc khiến nó rối trí. Nến để trên bàn đang cháy thấp dần, và khi tất cả mọi người đứng lên rời phòng, thì những cái bóng dài của họ đổ lên tường. Lão thầy bùa đang rửa tay trong cái chậu do một anh đầy tớ bưng. Cái bóng ngất ngưởng của anh đầy tớ được nhìn thấy rõ ràng trên bức hoành phi đằng sau lão thầy bùa, nhưng chỗ đáng ra là cái bóng của lão thầy bùa thì lại không có gì hết. Không có cái bóng nào động đậy những ngón tay và lau tay, trong khi bóng của cái thau nước, thậm chí bóng của những giọt nước đều có thể được nhìn thấy trên lớp màu sắc lộng lẫy của bức hoành phi.

Đó cũng là một phần bùa phép của lão, Billy tự nói với mình.

Hàng ngày Billy và Matilda chơi trong khu rừng đó và Billy lắng nghe tiếng hót giả của những con chim sặc sỡ, nó thích thú vuốt ve con cọp biết rừ rừ nhưng không có tim, và nó xem lũ khỉ đu trên cây không tên. Đến đêm nó ngủ ngon lành và không bao giờ nghe thấy tiếng của người khổng lồ. Nhưng Rembrandt, hay ngồi cảnh giác ở chân giường Billy, vẫn nghe thấy tiếng người khổng lồ gọi, “Amoret! Amoret!”

Rembrandt biết Billy bị trúng một loại bùa mê thuốc lú: một loại bùa mạnh và được yểm tinh vi. Nó cố nhắc nhở Billy về một thế giới khác, nơi chúng thuộc về. Nhưng Billy không nghe. “Bây giờ đây là nhà của chúng ta,” nó nói với con chuột.

Một ngày nọ Matilda dẫn Billy đi thám hiểm. Trong khi mọi người tươgnr chúng đang chơi ở bên lũ thú, cô bé dẫn nó đi qua một hành lang lạ, xuống một dãy cầu thang và đi vô những căn phòng đầy ắp các loại nhạc cụ, những trang phục lộng lẫy, và những đồ đạc xa hoa của phương Đông. Thỉnh thoảng, Matilda nhìn vô những bức tường, nhìn lên trần nhà và thì thào: “Ta đã từng nghĩ rằng thầy bùa có thể thấy tất cả mọi việc, nhưng có những ngày ngài bị ma thuật xâm chiếm nên không khắt khe. Hôm nay là một trong những ngày đó.”

Cuối cùng chúng đi tới một căn phòng đầy tranh. Có những cuộn vải nằm ở một đầu chiếc bàn dài; đầu kia xếp những cái hộp đựng bột màu. Cọ vẽ đủ mọi kích cỡ lẫn hình dáng nằm rải rác theo từng bó dưới sàn, những bức tranh dựng vô tường. Hầu hết là tranh phong cảnh hoặc những thành phố hoành tráng với những mái vòm dát vàng và những tòa tháp nhọn, sau đó Billy thấy một thành phố mà nó nhận ra, khiến trái tim nó thắt lại một nhịp.

“Đó là nơi mà từ đó tôi đến đây,” nó nói.

Matilda chập hai bàn tay lại với nhau. “Ta cũng đã nghĩ như vậy.” Cô bé nhìn quanh phòng và hạ thấp giọng. “Cụ kỵ của ta hay nó về nó lắm. Một ngày nọ ta đến đây và nghe thấy những tiếng người. Thầy bùa đang đứng sát vào bức tranh đó và lắng nghe. Có một giọng nữ trong phòng, nhưng ta không thấy ai cả, vì vậy ta nghĩ giọng của bà ta chắc chắn phải đến từ thành phố của ngài. Ta tin bà ta là con cháu của thầy bùa.” Matilda cười toét. “Bà ấy cũng là con cháu của ta. Nếu không của ta thì cũng của Edgar.”

Billy không thấy việc này có gì tức cười. “Tên mụ ta là Tilpin, mụ là một phù thủy,” nó nói.

“Ối!” nụ cười của Matilda vụt tắt. Cô bé ngồi xuống một băng ghế và kéo Billy ngồi xuống cạnh mình. “Để ta nói cho ngài nghe về thầy bùa. Ngài ấy đang cố tìm cách để đi đến thành phố của ngài – ngài ấy không giữ bí mật về việc đó. Có một tấm gương mà ngài ấy có thể cùng chu du. Ngài ấy giấu nó ở dưới lòng đất trong lâu đài của Vua Đỏ và bây giờ người phụ nữ đó đã tìm được nó, nhưng nó bị bể và bà ta không thể giúp ngài ấy hành trình vào tương lai.”

“Ông ta đã đi được nửa đường tói đó rồi. Ông ta là một cái bóng trong bức chân dung Vua Đỏ và bạn của tôi, Charlie, nói rằng lần trước ông ta đã đi vô thế giới của chúng tôi thông qua chính cái bóng của ông ta.”

“À, cái bóng!” Matilda hạ thấp giọng đến khi chỉ còn là tiếng lào thào. “Ngài ấy thông thái đến khôn cũng, cụ kỵ của ta í. Ngài ấy đã tự cắt khỏi cái bóng của mình và bây giờ cái bóng có thể tự chu du trong khi ngài ấy ở ngà, già đi. Cái bóng của ngài ấy sẽ sống mãi mãi, ngài ấy nói như vậy.”

Billy trố mắt nhìn cô bé. “Thầy bùa không có bóng. Đúng rồi, tôi đã để ý điều đó. Tôi tưởng đó là một phần bùa phép của ông ta.”

“Đúng vậy,” Matilda công nhận.

Chúng rời khỏi căn phòng tranh và bắt đầu mò mẫm trở lại sảnh ăn. Khi chúng đi qua cầu thang đá hoa cương, Billy dừng lại và ngước nhìn lên. Nó có thể nghe thấy tiếng bước chân đang đi xuống cầu thang. Nhưng không có ai ở đó. Những tiếng bước chân gần hơn.

“Cái gì đó?” Matilda hỏi.

“Tôi không…”

Trước khi Billy kịp nói hết câu thì một cái đầu rắn có túm lông chim xanh da trời hiện ra giữa không trung. Nó ngúc ngoắc về phía Billy, lôi tấm thân dài, có vẩy theo sau.

Matilda thét lớn và nhảy dạt ra.

“Xin lỗi,” một giọng nói.

“Charlie?” Billy sửng sốt trước con trăn, đang nằm nhô lên khỏi cầu thang vài tấc.

“Đúng, anh đây,” Charlie nói. “Anh nhờ Solomon làm cho anh vô hình. Nó cũng vô hình luôn, nhưng anh nghĩ nó đã quá mừng rỡ khi trông thấy em nên quên phéng đi mất. Để anh dằn nó lại.”

Con trăn đu đưa nhè nhẹ dưới sàn nhà nơi nó cuộn mình lại thành một đống gọn ghẽ. “Chào Billy,” nó rít rú.

“Chào,” Billy đáp lại bằng giọng bối rối. “Rất vui mừng gặp ông, Solomon.” Nó cố tập trung ngó vô khoảng không phía trên con trăn, nơi nó tưởng tượng là gương mặt của Charlie. “Em tưởng anh đến sớm hơn chứ. Cái gì giữ anh lâu vậy, Charlie?”

“Em chả biết gì hết,” Charlie thở dài. “Anh đã cố, cố, cố hoài. Sau đó họ mang bức tranh đi. Một câu chuyện dài lắm, nhưng giờ anh ở đây rồi, em sẵn sàng chưa?”

Billy nhìn trao tráo vô khoảng không. “Em…”

Rembrandt thò đầu ra khỏi cái túi vàng của Billy và nhã nhặn hỏi thăm sức khỏe của con trăn.

“Tôi vẫn mạnh giỏi,” con trăn rít đáp lại. “Còn bạn?”

“Tôi đáng ra khá hơn,” con chuột chít.

Billy áp hai tay lên bịt tai. “Tiếng lít rít ồn ào nhức đầu quá, tôi không thể suy nghĩ gì được.”

“Billy sẽ không trở lại với các ngài đâu,” Matilda lên tiếng, đến đứng bên Billy.

“Nó về được chứ,” Charlie nói, hơi sững sờ trước sự xuất hiện của một cô bé xinh đẹp trong trang phục vàng rực rỡ. “Mà, bạn là ai vậy?”

“Cô ấy là bạn của em, Charlie, cô ấy nói đúng đó. Em xin lỗi, nhưng em sẽ ở lại đây.” Billy bắt đầu bước xuôi hành lang trưng đầu và lông thú, với Matilda đi đằng sau vài bước.

“Em phải đi,” Charlie gọi.

Mathilda ngoái nhìn qua vai. “Suỵt!” cô bé đặt một ngón tay lên miệng. “Đi với chúng tôi. Ở đây không an toàn.”

Charlie chợt nhận ra những cái đầu thú treo trong hành lang. Nó chần chừ rồi bước theo bọn kia nhưng cảm thấy mình có rất ít lựa chọn. Nhấc con trăn lên vai, nó đi theo hai dáng hình đang rút lui. Nó đuổi kịp chúng trong vài giây, tới một khu rừng đầy những loại cây lạ kỳ.

“Tụi mình đang ở đâu?” Charlie thì thào.

“Chúng ta đang ở trong một khu rừng ở trong cung điện của thầy bùa,” Billy bảo nó. “Lão đã tạo ra cây cối và muông thú để dành riêng cho em đó.”

“Em hên quá ta.” Charlie đặt con trăn xuống dưới chân nó. “Quái lạ, khi lần trước tới đây anh đến ở bên ngoài tòa tháp của một người khổng lồ.”

“Có lẽ ngài tự động bị hút về phía tổ tiên của ngài,” Matilda nói với giọng nghiêm trang.

“Cái gì?” bất thình lình Charlie nhận ra cô bé này tinh khôn cực kỳ. Nó quay qua Billy. “Em không thể ở đây được, Billy. Em không thuộc về nơi này.”

“Em không thuộc về thành phố của anh,” Billy nói. “Em không có nhà ở đó. Ở đây rất tốt. Đồ ăn ngon và mọi thứ đều đẹp và,” nó nhìn Matilda, “em có một người bạn.”

“Nhưng anh lặn lội mãi mới đến được đây,” Charlie nói, choáng váng vì những lời của Billy. “Em thừa biết em có thể ở nhà anh bất kỳ lúc nào em muốn mà.”

Matilda cầm lấy tay Billy. “Tốt nhất ngài về nhà đi, Charlie Bone, và đem theo con rắn của ngài nữa, bởi vì…” cô bé nhìn lên cây. “Ối trời! Anh ta đang đến.”

Thoáng sau, Edgar bước ra khỏi rừng cây. “Ta nghe có tiếng thét,” thằng đó nói.

Matilda buông tay Billy ra và chỉ vô con trăn xanh da trời, “Thầy bùa đã làm một con rắn tuyệt vời, bọn ta tưởng nó là thật.”

Con trăn ngoa nguẩy cái đầu và rít lên.

Edgar bước lùi lại. “Con ngu!” nó rít gióng. “Rắn không có lông. Mày lại trễ bữa tối nữa rồi. Đi ngay.”

Charlie nhìn theo cả đám bọn chúng đi. Chúng thậm chí còn không quay về hướng nó. Con trăn không có động thái nào cố gắng đi theo Billy. Hình như nó biết chỗ của nó là ở lại với Charlie. Hay là do nó bị ảnh hưởng chả Claerwen? Con rắn to đã tự cuốn mình lại thành một cuộn vô hình.

Claerwen đã ra khỏi túi áo của Charlie và giờ đang bay giữa những cành cây cao, như thể điều nghiên khu rừng giả này. Charlie ngồi phệt xuống đất, đầu gục vô lòng bàn tay. Nó hoàn toàn không được chuẩn bị cho tình huống Billy từ chối. Nhưng Billy đã bị bỏ bùa, nó kết luận là vậy. Nhưng làm sao có thể phá bỏ bùa ấy, Charlie không biết.

“Giúp tớ, Claerwen,” Charlie nói. “Helpu fi.”

Cô nàng tới đậu lên cánh tay nó, mặc dù việc đó có tác dụng trấn an nó nhưng cô nàng không đưa ra câu trả lời nào.

Ở đằng xa, Charlie có thể thấy những con thú đi loanh quanh rừng cây. “Chúng không phải là thật thì phải?” nó lầm bầm với Claerwen. Không con thú nào đến gần nó.

Mình sẽ chờ cho tới khi bọn họ đi ngủ, Charlie thầm nghĩ. Mình sẽ tìm tới nơi Billy ngủ và, có lẽ, nếu nó ngủ một mình, mình sẽ bắt nó đi theo mình.

Một mặt trăng giả bắt đầu tỏa sáng khu rừng. Charlie tự hỏi nó có thể biết khi nào là đêm xuống trong cung điện ánh sáng giả này không. Mình không muốn sống ở đây, nó nghĩ khi nằm dài xuống đất. Tựa đầu vô vòng quấn trơn láng của con trăn và trước khi kịp hay biết, nó đã lăn ra ngủ.

Charlie giật mình tỉnh dậy. Một bé gái mặc váy xòe dài màu trắng đang đứng trong rừng cây. Cô bé cầm một ngọn nến cắm trong một cái đĩa kim loại.

“Ngài vẫn còn ở đó không, Charlie Bone?” bé gái thì thào hỏi.

Charlie ngồi dậy. “Tôi ở đây. Billy đâu?”

“Ngài ấy không muốn rời khỏi phòng của ngài ấy. Tôi đến đây mang theo thông điệp.” Matilda đánh bạo lại gần Charlie. “Billy sẽ không trở lại với ngài đâu, Charlie. Tôi xin lỗi là ngài đã đi đường xa tới đây, qua bao nhiêu năm, và không quản ngại nguy hiểm, tôi chắc chắn thế. Nhưng ngài nên gặp một người trước khi ngài quay về.”

Charlie dụi mắt và đứng lên. “Ý bạn muốn nói đến tổ tiên của tôi, người khổng lồ. Có lẽ bạn nên cho tôi biết làm sao tôi có thể tới được tòa tháp của ngài ấy, bởi vì tôi biết nó ở xa đây hàng nhiều dặm.”

“Không phải nhiều dặm đâu, Charlie. Ngài ấy đang ở ngay tại đây.”

“Ở đây?” Charlie nhớ lại lời của Matilda. “Có phải ý bạn là tôi bị hút về phía tổ tiên mình?”

“Dĩ nhiên.” Cô bé nhoẻn với nó một nụ cười tinh thông.

“Ngài ấy ở đâu?”

“Trong hầm ngục. Tôi sẽ chỉ cho ngài lối vào, nhưng tôi không dám đi với ngài.” Cô bé nhìn ngọn nến. “Tôi có thể đưa cho ngài một ngọn nến, nhưng nó sẽ bị nhìn thấy mất.”

“Tôi không cần ánh sáng.”

“Thế thì đi với tôi.”

Charlie theo ngọn nến lung linh của Matilda đi qua hành lang ắng lặng. Chắc hẳn bây giờ đã khuya lắc khuya lơ rồi, nó nghĩ, bởi vì những ngọn đèn bấc đã tắt và những vì sao giả cũng mất độ sáng. Nó nghĩ ngay cả lão thầy bùa cũng cần ngủ.

Những hành lang trở nên tối hơn. Những bức tường bây giờ toàn đá tảng và đá phiến, mặt đất rải đá cuội. Một giọng nói réo rắt vang dội những hành lang và khi chúng rảo bước nhanh hơn, Charlie có thể nhận ra từ “Amoret!”

“Tổ tiên của tôi,” Charlie thì thầm.

“Giờ tôi có thể nghe thấy tiếng của người khổng lồ rồi. Mới đầu chỉ có Billy mới nghe thấy tiếng của ngài ấy thôi. Chúng ta đang tới gần hơn đó.”

Chúng đi tới một rào chắn gỉ sét hình bán nguyệt và giơ ngọn nến lên, Matilda nói, “Ở dưới đó!”

Charlie thấy một cầu thang lởm chởm, xoáy trôn ốc dẫn đi xuống màn đen.

“Tôi chúc ngài mạnh giỏi, Charlie Bone,” Matilda nói thầm.

“Cảm ơn.” Charlie hy vọng chúng sẽ gặp lại nhau. Cô bé là một bé gái xinh đẹp nhất nó từng thấy. Cô bé đó là ai? Cô bé có một vị trí nào trong gia phả rối rắm những hậu duệ của Vua Đỏ không?

“Gấp gấp lên!” Matilda nhìn trần nhà nơi một vì sao bắt đầu nhấp nhánh sáng lên. “Thầy bùa đang thức giấc.”

“Tạm biệt, Matilda!” Charlie chạm tay cô bé và Matilda nhìn vào chỗ tay Charlie chạm vô như nhìn một kỳ quan.

“Tạm biệt, Charlie Bone!”

Charlie thả một chân xuống bậc thang đầu tiên và bắt đầu đi xuống. Đó là cầu thang dốc nhất, đen tối nhất mà nó từng đi và nó mừng là có ánh sáng của Claerwen. Nó lo lắng tiếng chân thịch thịch của nó sẽ đánh thức bọn lính mà chắc chắn đang canh chừng ngục của người khổng lồ.

Ở đáy cầu thang một khúc cua gắt đẩy Charlie vô một không gian hẹp, nơi có một dáng người đang ngồi gục bên một chiếc bàn. Một đống nến để trên bàn trong khi một ngọn nến cháy trong cái giá cắm nến bằng đồng. Nhưng chính nhờ ánh sáng của Claerwen mới chỉ cho Charlie xà lim có thanh chắn nặng nề bên kia tên lính canh và gương mặt hốc hác của người khổng lồ đang từ đó nhìn ra.

“Ai đó?” ngài Otus hỏi khẽ.

Charlie nhìn cái thân hình đang ngủ. Một chùm chìa khóa đặt trên đùi hắn. Cái nào để mở xà lim? Charlie cần phải chọn thật nhanh. Nó kiễng chân lại gần tên lính đang ngủ khèo. Và rồi nó trông thấy ngón cái to xụ, quái dị. Giật chùm chìa khóa, Charlie cố tra chiếc đầu tiên vô ổ khóa cửa xà lim. Cái này không vừa.

Người khổng lồ nhìn chùm chìa khóa bơi bơi trong không khí mà kinh ngạc. “Ai đó?” ngài hỏi lại.

“Là con, Charlie, hậu duệ của ngài,” Charlie thì thầm. “Con tới để đưa ngài đi tìm vợ của ngài.”

“Amoret?” người khổng lồ lắc đầu. “Mi nói dối. Bà ấy chết rồi.”

Tiếng lách cách trên ổ khóa sắt chắc hẳn đã đánh thức tên quỷ lùn, bởi vì, bất giác, hắn mở mắt ra và ngó trân trối chùm chìa khóa trên không. Xồ tới, hắn thét. “Gì thế, người khổng lồ? Ngươi định dùng phép thuật hả?”

Người khổng lồ lùi xa ra, vẫn lắc đầu, và Ngón Cái Dị giằng lấy chùm chìa khóa. Hắn nhìn chúng một cách nghi ngờ. Charlie nắm chặt lấy chúng, nhưng Ngón Cái Dị giơ nắm đấm bự xự lên và thụi vô bụng Charlie. Charlie khụy xuống với một tiếng hự.

“Đúng là mày,” quỷ lùn nói. “Đồ vô lại. Mày sẽ không thắng nổi Ngón Cái Dị bằng sự vô hình đâu, tao nói cho mà biết.”

Cái gì xui khiến con trăn ra tay hành động vào lúc đó, Charlie không bao giờ biết. Có lẽ Claerwen đã có lời vô tai nó, cho nên bất ngờ con trăn khổng lồ hiện hình. Từ trên vai Charlie, nó quăng thân tới Ngón Cái Dị, ràn rạt như ấm nước sôi kêu. Tên quỷ lùn, trợn mắt muốn lòi ra khỏi đầu, giơ hai tay lên và chùm chìa khóa bay lên không.

Một âm thanh ghê hồn vọt ra từ Ngón Cái Dị và hắn chạy lên cầu thang, loạng chạng, rền rĩ khiếp vía.

Charlie lẹ làng chụp lấy chùm chìa khóa. Chiếc thứ hai tra vừa ổ khóa và cửa xà lim mở ra, kêu ken két.

“Chúng ta phải nhanh lên,” Charlie bảo người khổng lồ. “Không thì Ngón Cái Dị đem quân tiếp viện trở lại.”

“Là con, Charlie Bone,” người khổng lồ nói. “Ta biết giọng của con. Nhưng chúng ta sẽ làm gì? Làm sao ta thoát khỏi nơi này?”

“Trước hết, con trăn sẽ làm cho ngài vô hình. Sau đó… sau đó chúng ta sẽ đi tìm vợ của ngài trước khi bà chết và ngài sẽ ở bên bà ấy.”

Con trăn lần này không cần chỉ thị. Nó dường như biết, theo bản năng, phải làm gì. Ngài Otus thấy mình biến mất với cảm giác vừa thất kinh vừa hài lòng. Chỉ khi Charlie bắt đầu ra lện cho con bướm trắng thì Charlie mới nhận ra rằng chúng sẽ phải trở về theo cách mà chúng tới đây: qua bức tranh xứ Badlock.

Con trăn tự quấn quanh vai người khổng lồ và Charlie bấu chặt cánh tay của tổ tiên mình. Claerwen xòe đôi cánh bạc và bùng cháy phía trên đầu Charlie, cô nàng bắt đầu đưa họ đi xuyên thời gian.

Bình luận