Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Bà Amoret

Đường đi tới Lâu Đài Gương thật dài và thật khó tìm, nhưng sau chuyến hành trình lần cuối tới đó, Ông cậu Paton đã lập ra bản đồ của lộ trình. Con đường men theo dòng sông rồi thì, tại một ngã tư cách ngoại ô thành phố năm dặm, họ rẽ vô một con đường dọc theo bờ biển. Ngài Otus chưa bao giờ thấy lâu đài đó mặc dù ngài đã nghe nói về nó rất nhiều.

“Người ta nói đó là lâu đài đẹp diệu kỳ nhất thế giới,” giọng người khổng lồ khẽ rù rì từ thùng xe đằng sau. “Borlath, hoàng tử cả, ghen tị với Amadis tất cả mọi thứ, lại thêm cái bóng châm thêm lửa vào lòng ghen tị của hắn. Tất cả mọi thứ Borlath không thể có, hắn hủy hết.”

Một quãng dừng thật lâu sau, Charlie hỏi, “Ngài đã sống ở đâu ạ, ngài Otus?”

Người khổng lồ cười khà khà. “Ta sinh ra trong một ngôi nhà xây bằng cây thông đỏ còn sống nguyên. Cha ta dựng một cái lều ở giữa một khu rừng cổ. Nó cần những cây thông đỏ to rộng nhưng chỉ vài khúc gỗ đan qua giữa chúng là thành những bức tường quây kín nhà chúng ta. Phía trên chúng ta có một mái nhà che đầu, kết bằng những cành cây cao nhất. Chúng ta không bao giờ đụng tới lá hay trái của chúng bởi vì chúng rất độc, nhưng chúng có thể đuổi cho bọn sói tránh xa.”

“Yewbeam,” Charlie lẩm bẩm. “Thảo nào, và đó là khởi nguồn của cái họ này1.”

“Đồng ý,” người khổng lồ nói.

“Ồ, thế mà tôi không bao giờ tìm ra được điều đó trong suốt bao năm nghiên cứu của mình,” Ông cậu Paton thốt lên, “Thú vị quá. Vậy vợ của ngài đã sống trong ngôi nhà thông đỏ đó?”

“Không,” ngài Otus hình như hơi phẫn nộ. “Ta đã xây cho bà Amoret một ngôi nhà xinh xắn bằng đá và gỗ thông, có tường tẩy trắng và sàn nhà lát đá phiến.”

“Dĩ nhiên.” Ông cậu Paton khẽ ho lên một tiếng biết lỗi.

Sau đấy thì tất cả họ rơi vào im lặng và Charlie lăn ra ngủ. Khi nó tỉnh giấc thì họ đang lái xe qua một thung lũng. Hai bên lối mòn, những ngọn núi vút cao, đen lù lù và thẳng đứng, chìm khuất vô làn mây đẫm ánh trăng. Một chớp sáng màu trắng đập vào mắt Charlie và nó nhìn vô gương chiếu hậu. Tim nó hụt mất một nhịp, bởi vì đằng đó, phản chiếu trong gương là một con ngựa trắng. Ngồi trên lưng con ngựa trắng đang phi là một hiệp sĩ mặc giáp trụ.

“Họ đang ở đây,” Charlie thông báo. “Hoàng hậu và Hiệp sĩ Đỏ. Họ đi theo chúng ta.”

“Con chắc không?” Ông cậu Paton nhíu mày liếc nhìn gương. “À, đúng, Charlie, con nói đúng.”

“Hoàng hậu?” Ngài Otus hích người tới ô cửa sổ nhỏ ở một cánh cửa sau, chiếc xe moóc rung lắc và chao đi. “Ta không thấy hoàng hậu nào hết, nhưng có một hiệp sĩ cưỡi ngựa.”

Charlie nhận ra rằng, với ngài Otus, hiệp sĩ cưỡi ngựa là cảnh tượng trông thấy thường ngày. “Đây không phải là con ngựa bình thường đâu ạ,” Charlie nói, và rồi nó giải thích sự việc lão Ezekiel Bloor đã vô tình mang Hoàng hậu Berenice trở về cuộc đời trong diện mạo là con ngựa yêu quý của bà như thế nào. “Lão chẳng phải là một thầy pháp tài cán cho cam,” Charlie tiếp. “Chủ ý của lão là mang Bolath về lại thế giới.”

“Cảm ơn sai lầm đó,” ngài Otus lầm bầm.

Suốt phần còn lại của cuộc hành trình, Charlie cứ hết lơ mơ ngủ rồi lại thức, và mỗi lần trong lúc nó thức, hiệp sĩ cưỡi ngựa trắng luôn ở đó; nếu nó không thấy ngài ở trong gương chiếu hậu thì cũng nghe thấy tiếng vó ngựa, cách không xa đằng sau. Khi mặt trăng lên đến đỉnh cao nhất của nó, họ đậu xe bên cạnh một vách đá, và ăn hết giỏ đồ ăn do ngoại Maisie chuẩn bị. Sau đó Ông cậu Paton ngủ một chút, trước khi lái tiếp những dặm đường còn lại.

Họ rời bỏ con đường chính vào lúc bình minh và đậu xe trên một lối mòn dẫn ra biển.

“Ta tin đó là nơi này,” Ông cậu Paton nói. Ông leo ra khỏi xe, duỗi vai và hít một hơi không khí biển.

Charlie nhảy ra rồi chạy tới mở cửa cho ngài Otus. Nó nhận thấy người khổng lồ vẫn đang ngủ say sưa. Người đàn ông to lớn nằm co ro dưới sàn xe, một bên má áp vô hai bàn tay.

“Ngài Otus!” Charlie lay lay bàn chân người khổng lồ.

Ngài Otus mở choàng mắt, ngồi lên và nở với Charlie một nụ cười rộng. “Ta nghĩ ngày hôm nay sẽ tốt đẹp với chúng ta đó, Charlie,” ngài nói, đoạn hích người ra khỏi chiếc xe moóc. Và rồi, ngài nhìn thấy làn nước màu xanh da trời đằng xa vách đá, ngài chạy ra mép nước trong khi Ông cậu Paton vội thét bảo ngài hãy cẩn thận. Ngài Otus là người có trọng lượng nặng nề, mà vách đá đã lún chìm nhiều chỗ.

“Lâu đài đâu?” ngài Otus la to. “Ta không thấy nó.”

Charlie đến đứng bên cạnh ngài. Một làn sương nhẹ như lông tơ bao phủ lấy mặt biển, và Charlie sực nhớ sự việc này cũng xảy ra vào lần trước. “Đó nó kìa, con hứa với ngài, ngài Otus. Khi mặt trời thiêu cháy màn sương, thì chúng ta sẽ trông thấy nó.”

“Nó đang hiện ra.” Ông cậu Paton đã đến đứng cùng với họ, và vài phút sau, tất cả họ đều thấy một hòn đảo nhô lên mặt biển kéo dài chừng nửa dặm. “Hòn đảo của hàng ngàn dải xanh da trời,” Ông cậu Paton nói. “Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ thấy đỉnh chóp của nó.”

Người khổng lồ ôm lấy lồng ngực. Tim ngài đập nhanh và to đến nỗi Charlie sợ nó ngừng mất. Từ từ, màn sương bốc hơi và những mảng nhỏ loang loáng trong ánh sáng. Khi mặt trời lên cao hơn, những lọn sương cuối cùng tan đi và lâu đài thủy tinh lấp lánh hiện ra.

“Ááá!” người khổng lồ nín thở. “Nó kia.” Ngài bắt đầu bước xuống lối mòn nguy hiểm dẫn ra bờ biển, trong khi Charlie và ông cậu trượt tuốt luốt và loạng choạng đi theo dấu chân ngài.

“Có một chiếc thuyền, được cất giữ trong một cái hang,” Ông cậu Paton nói. “Nhưng…” ông nhìn người khổng lồ, “tôi không chắc nó có chịu nổi trọng lượng của ngài không, ngài Otus.”

Người khổng lồ há miệng vuột ra một tiếng cười và nói vang, “Thuyền ư? Ta không cần thuyền, ông Paton à,” rồi không thêm một lời nào nữa ngài chạy ào xuống biển. Tiếng cười sảng khoái của ngài dội âm ngược lại bờ khi ngài lướt đi qua những làn sóng, và khi ngài sải bước, cái đầu trắng của ngài nhấp nhô giữa những con mòng biển đang trôi bập bềnh trên đầu sóng.

“Chúng ta lấy thuyền mau,” Ông cậu Paton nói.

Con thuyền vẫn ở tại nơi lần trước Charlie tìm thấy nó: ở cuối một cái hang sâu. Họ khẩn trương leo lên thuyền, Ông cậu Paton, lưng quay về phía lâu đài, ra sức chèo hết tốc lực trong khi Charlie chỉ hướng. Khi họ áp sát hòn đảo. người khổng lồ đang ngồi trên bãi biển đầy vỏ sò, và đang dốc nước ra khỏi đôi giày của ngài.

Ông cậu Paton ở lại thuyền, trong khi Charlie dẫn ngài Otus đi tới lâu đài. Mặt trời đã lên cao, khiến Charlie và người khổng lồ không thể nhìn vô mặt gương chói lóa khi họ khó nhọc bước qua mặt đất đầy bụi rậm, sỏi đá bao quanh lâu đài. Họ bước chếch về hướng bắc, nơi mặt trời không thể chạm đến những bức tường tráng gương, và người khổng lồ lại phá lên cười to hết cỡ trước hình phản chiếu cảu họ, người này to gấp đôi kích thước của người kia.

Không có cửa vô. Họ phải ép mình qua một đường hầm hẹp dẫn bên dưới những bức tường. Hai lần người khổng lồ bị kẹt cứng, để rồi tiếng cười của ngài càng vang to hơn khi ngài cố vẫy vùng và dướn mình thoát ra được. Cuối cùng họ đứng trong một cái sân rộng, lát sỏi sáng loáng. Ở giữa sân có một cầu thang dẫn lên một cánh cửa ăn vào tháp: một cái tháp cao hình vuông.

“Những bức tường lịch sử ở trên đó.” Charlie chỉ lên đỉnh tháp.

“Và đó là nơi chúng ta sẽ nói lời từ biệt,” ngài Otus nói.

Những bậc thang được làm bằng thủy tinh nhám giúp họ leo lên tới cánh cửa mà không bị trơn trượt. Căn phòng họ bước vô có tường chìm hẳn vô trong những miếng thủy tinh dài mờ đục hình chữ nhật, và hình phản chiếu của họ trở thành những mảnh vỡ sắc màu dập dờn, rẽ hướng bất cứ khi nào họ di chuyển.

Bên cạnh cánh cửa là một cầu thang dẫn lên đỉnh tháp. “Để con đi trước cho,” Charlie nói. “Phải leo rất là lâu đấy à.”

Người khổng lồ mỉm cười và vỗ vai Charlie. “Dẫn đường đi, Charlie.”

Những bậc thang hẹp và khấp khểnh khiến Charlie tự hỏi làm sao người khổng lồ xoay xở đi được khi cầu thang uốn khúc hướng lên trên. Claerwen bay ra khỏi túi áo Charlie và chiếu sáng đường đi, nếu không thể thì chắc chắn họ phải leo trong bóng tối. Charlie có thể nghe thấy tiếng thở hì hụi và tiếng bước chân ì ạch của người khổng lồ khi ngài cố hích người lên những bậc thang bằng thủy tinh thô nhám, và rồi, cuối cùng, họ vô một căn phòng khác thường ở trên đỉnh tháp, nơi ánh sáng của Claerwen được phản chiếu lên một ngàn lần, dội từ bức tường này qua bức tường kia, rồi lại phản chiếu tiếp, xuyên qua lớp gương chói lóa.

“Amoret đâu?” ngài Otus thì thầm.

Charlie muốn bảo người khổng lồ hãy kiên nhẫn nhưng nó không sao thốt nên lời. Nó cảm thấy lo âu thấp thỏm. Giả sử những bức tường đã mất đi ký ức của chúng rồi thì sao? Giả sử không còn gì ở đó? Mình có thể chu du, nó tự nhủ, và Claerwen là cây đũa phé của ngài Mathonwy.

Sâu bên trong tấm gương sáng lóa trước mặt nó, một dải màu lay động, một dải màu đỏ nhạt. Một đường vân màu xanh lá cây xuất hiện, nối theo là những đường vân màu nâu và một đường màu vàng dịu. Và giờ thì có thể nhìn thấy ngài Amadis tóc trắng trong bộ giáp màu xám bạc.

Vẫn nhìn xoáy vô bức tường, Charlie chìa bàn tay trái của nó ra lần tìm ngài Otus. Những ngón tay của ngài Otus đan vào những ngón tay nó. Chìa tiếp bàn tay phải ra, Charlie nói. “Claerwen, dwi isie mynd mewn.”

Con bướm trắng lướt đến đậu trên ngón tay trỏ của Charlie và Charlie bắt đầu nhích gần hơn và gần hơn đến những hình thù và màu sắc đang trêu ngươi; qua một màn sương mù, không khí ngột ngạt, rồi xuyên qua thời tiết bão tố, và đi tiếp, đi tiếp, mặt nó bây giờ ấm nóng ánh mặt trời, rồi lại bị tuyết quất vô. Nó có thể cảm thấy những ngón tay của người khổng lồ bóp chặt ngón tay nó, và rồi, như thể xuyên thủng qua bề mặt của một cái hồ đóng băng, Charlie thấy mình lại ở trong căn phòng cổ xưa.

Họ đang ngồi bên bàn, hệt như lần trước: hoàng tử Amadis ngồi ở đầu bàn, vợ ngài và con gái ngài đang nhìn sững vô Charlie. Một đứa trẻ khác ngồi quay lưng lại Charlie; đứa trẻ thứ ba, có mái tóc trắng như tuyết, quay lại nhìn nó. Và rồi, Charlie trông thấy bà Amoret – bà đang đứng bên cạnh ngài Amadis, mái tóc đen của bà ôm lấy gương mặt phiền muộn.

Cao phía trên đầu, Charlie nghe thấy tiếng gọi “Amoret!”

Bà ngước lên và một nụ cười ngạc nhiên thắp sáng gương mặt bà.

Charlie cảm thấy những ngón tay của người khổng lồ tuột ra khỏi tay nó và nó biết mình phải trở về. “Chúng ta đi nào,” nó nói, nâng Claerwen lên sát mặt. “God ni fynd.”

Trong khi trôi ra khỏi khung cảnh ấy, Charlie thấy một người đàn ông trẻ ôm bà Amoret vô vòng tay ngài. Ngài nhấc bổng bà lên và quay tròn, vạt váy màu đỏ của bà luộn cuộn phớt qua bàn tay ngài. Bà vùi đầu vào vai ngài và ngài phá lên cười hạnh phúc. Người đàn ông đó có mài tóc màu hạt dẻ, gương mặt đẹp như tạc, mạnh mẽ. Ngài cao, rất cao – thật ra là một người khổng lồ.

Trước khi Charlie khuất tầm mắt khỏi họ, người khổng lồ bắt gặp mắt nó và những lời bị chẹt vỡ òa qua những làn sóng thời gian. Ta cảm ơn con.

Và rồi Charlie trơ trọi mọt mình trong căn phòng nơi những bức tường lịch sử sáng loáng lưu giữ những bí mật của chúng. Đáng lý ra nó phải cảm thấy phấn chấn. Nó phấn chấn thật, nó tự nhủ, bởi vì nó đã thành công, tuy nhiên, khi chệch choạc đi xuống cầu thang hẹp, một cảm giác thất bại ập trùm lên niềm hạnh phúc của nó. Lần cuối cùng ở Lâu Đài Gương này, có Billy đi cùng với nó.

Charlie bước vô căn phòng nơi nó đã gặp người đàn ông mà nó tưởng là ba mình. “Tại sao ba không bao giờ ở đây, hả ba?” Nó nói với hình phản chiếu của nó trong những bức tường gương.

Claerwen bay ra phía cửa và Charlie theo sau, đi xuống những bậc thang thủy tinh nhám, băng qua cái sân lấp lánh và vô đường hầm ở dưới chân tường.

Ông cậu Paton đang ngồi trên một phiến đá, sát bên chiếc thuyền. Vừa trông thấy Charlie đi một mình, ông liền đứng dậy và vẫy tay gọi, “Thế là con thành công rồi.”

Charlie gật đầu.

“Trông như con không chắc lắm nhỉ,” Ông cậu Paton nói khi Charlie hướng tới con thuyền. “Mọi thứ không đúng như kế hoạch à?”

“Đúng chứ. Thật diệu kỳ. Người khổng lồ đã trẻ lại và bà Amoret đang mỉm cười.”

“Giỏi quá.” Ông cậu vỗ vai nó. “Ta cần phải thú thật là ta đã có những nghi ngờ. Đó là một sứ mệnh phi thường. Ta nghĩ là con mệt rồi.”

“Hơi hơi thôi,” Charlie nói.

Họ leo vô thuyền và Ông cậu Paton bắt đầu chèo ra khỏi hòn đảo. Họ chưa đi xa thì một con sóng khổng lồ vỗ ầm vào mạn thuyền, xô nó nghiêng một cái thật nguy hiểm. Mặt trời vụt biến mất và bầu trời tối sầm lại với những đám mây đen giận dữ. Một tràng sấm nổ ran, kéo theo một trận mưa như trút nước.

Dagbert không đi theo chúng ta đấy chứ?” Charlie nhìn những con sóng dữ tợn.

“Có thể là kẻ khác, cha của nó. Mụ Tilpin và cái bóng luôn luôn hợp lực, không nghi ngờ gì.”

Và bọn chúng sẽ điên tiết về việc mình vừa mới làm, Charlie nghĩ.

Những con sóng tung cao hơn nữa, những bức tường nước sừng sững thảy con thuyền mỏng manh lên và quật nó xuống như thể nó là một món đồ chơi.

“Đáng lý ra ta nên nghĩ tới áo phao,” Ông cậu Paton kêu to qua tiếng nước thét gào.

Con sóng kế tiếp hất con thuyền lật qua bên. Charlie tuột tay bám và cảm thấy mình bị quăng xuống biển. Hắn ta đừng hòng quét mình đi được bằng cái này, Charlie nghĩ, khi những con sóng sắp dìm đầu nó đến nơi. Nhưng ít nhất mình đã làm xong một việc.

“Charlie! Charlie, Bám lấy!”

Khi nó dướn người lên hớp không khí, Ông cậu Paton tóm lấy cổ tay nó. “Cố lên, cố lên Charlie. Đừng buông,” ông thét. “Chúng ta sắp tới bờ rồi, đừng bỏ cuộc!”

Charlie cảm thấy hai bàn tay của ông cậu lôi đằng sau cái áo jacket của nó, nhưng sóng cứ tiếp tục tràn qua đầu nó và nó biết thứ sóng này muốn nhận chìm nó. Bỗng nhiên, nước bắt đầu nâng nó lên bên dưới bàn chân nó. Rồi một dòng nước mạnh ôm chặt lấy cẳng chân nó, giữ cho nó thăng bằng. Từ từ thân người nó được nâng lên và, khi nó còn đang loáy hoáy tìm cách bám cho được con thuyền, thì nó đã được đẩy gọn gàng vô bên trong.

Ông cậu Paton chụp lấy đôi mái chèo và mỉm cười xuống với Charlie, đang nằm dưới đáy thuyền. “Chúng ta tới rồi, bạn à,” ông nói.

Hích người cố ngồi dậy, Charlie thấy họ đang lướt qua một con đường nước rộng êm ả, yên bình ngay trên biển. Hai bên thuyền, những con sóng vẫn réo gào, tung lên rớt xuống với những cột nước đáng sợ, nhưng dường như chúng không thể nào chạm được đến con thuyền.

Vùng biển xung quanh con thuyền lóng lánh trong ánh mặt trời và, cũng trong những tia nắng rực rỡ đó, Charlie thình lình thấy một dáng người ở trên vách đá. Tấm áo chùng của ngài tung bay trong gió, với chùm lông chim trông như một làn mây đang cháy.

“Hiệp sĩ Đỏ,” Charlie thét lên.

“Cái gì?” Ông cậu Paton nói to, ra sức guồng mái chèo; áo khoác của ông ướt đẫm, Charlie nhận thấy như vậy.

“Là hiệp sĩ. Hiệp sĩ Đỏ. Con nghĩ ngài đã cứu chúng ta.”

Ông cậu Paton ngoái nhìn qua vai. “Ta thấy ngài ấy rồi. Có lẽ con nói đúng đấy, Charlie.”

Mình biết chắc chắn mà, Charlie nghĩ. Hiệp sĩ Đỏ đã cứu ông cháu mình.

Từ đó trở đi, họ lướt qua hành lang nước một cách hanh thông. Họ bước lên bãi đá cuội và kéo con thuyền cất vô trong hang. Charlie cảm thấy mình sẽ không bao giờ đi nốt nổi quãng đường vách đá dựng đứng, nhưng với giọng thuyết phục của Ông cậu Paton thúc giục liên hồi, cuối cùng nó cũng lảo đảo lăn ình xuống bãi cỏ ướt ở trên đỉnh dốc.

Hiệp sĩ Đỏ đã đi rồi.

“Sao chúng ta không thấy con ngựa của ngài vậy?” Ông cậu Paton tự hỏi to thành lời.

“Bà không thể nhìn hòn đảo nơi các con của bà chết,” Charlie bảo với ông cậu nó.

Ông cậu Paton nhíu mày, “Làm sao con biết điều đó?”

“Billy hiểu lời bà nói.”

“À, Billy,” Ông cậu Paton thốt lên.

“Con ước gì có thể mang nó trở về, Ông cậu Paton, nhưng nó bị bỏ bùa rồi, con biết.”

“Bùa chú có thể giải được,” ông cậu nói.

Khi về đến chỗ đậu xe moóc họ hong khô quần áo và nghỉ ngơi một lát. Ông cậu Paton đưa bộ đồ đi đường của ông mà ông giữ ở trong xư cho Charlie mặc. Charlie xắn chiếc quần dài lên trên và đút chân vô đôi vớ len cũng dài không kém. Nó cột chặt áo sơmi lại bằng dây nịt, nhưng cái áo jacket dự trữ của Ông cậu Paton thì lùng thùng trên người nó như một cái áo khoác quá khổ.

“Được rồi đấy,” Ông cậu Paton nói. “Ít nhất là con khô ráo. Nếu chúng ta khởi hành bây giờ thì chúng ta có thể về đến thành phố vào giờ ăn tối.”

Đó không phải là điều Charlie mong ngóng. Nó nhớ người khổng lồ và nhớ Billy. Nhưng trên hết nó sợ trở về cái nơi mà sai lầm của nó đã gây nên một vụ chết đuối – một nơi mà nó sẽ không bao giờ còn thấy Tancred nữa.

Họ nghỉ chân tại một quán trọ miền quê và mua cá với khoai tây chiên. Charlie, trong bộ đồ thùng thình, nhận được những cái nhìn kỳ cục của dân địa phương, nhưng sự quan tâm của họ nhạt đi khi đèn đóm ở trên trần quán nổ tung, và Ông cậu Paton xin lỗi vì sự bất tiện này.

“Chỉ là do cúp điện thôi, thưa ngài,” chủ quán nói.

“Ta nghĩ ông sẽ nhận ra không phải như vậy đâu.” Ông cậu Paton mỉm cười ấm áp với người đàn ông rồi ông với Charlie bước ra, cầm chắc cá và khoai tây chiên trong tay.

Khi họ ngồi trong xe thưởng thức món ăn nóng hổi, mê ly, Charlie hỏi ông cậu nó điều gì đã khiến ông dạo này hay phải đi xa và lại đi lâu đến thế.

“Ta đang lần theo một dấu vết,” Ông cậu Paton đáp, “Nó dẫn ta tới một nơi mà chưa bao giờ ta biết là có tồn tại, nhưng ta nghĩ ta đã khám phá ra một điều cực… cực kỳ choáng.”

Charlie nhìn lên chờ đợi. “Cái gì ạ?”

“Ta tin rằng Billy Raven đáng lý ra phải thừa kế toàn bộ gia sản của gia đình Bloor. Đó là một câu chuyện dài và phức tạp và ta biết chúng ta sẽ phải khó khăn gian khổ lắm mới chứng minh được điều đó. Nhưng ta say mê thách thức. Billy sẽ nhận lại được gia tài của nó.”

“Thế thì chúng ta sẽ phải đưa nó trở lại,” Charlie nói.

Ông cậu Paton nhìn đứa cháu trai của mình một cách trìu mến. “Ta tin chắc là con sẽ làm được, Charlie.”

Sau khi họ ăn xong, Charlie lăn ra ngủ mê mệt. Nó không thức dậy cho mãi đến khi họ về tới thành phố. Liếc nhìn qua gương chiếu hậu, nó thấy Hiệp sĩ Đỏ và con ngựa của ngài dừng lại ở đầu cây cầu đá. Và khi Ông cậu Paton rẽ khỏi con đường chính thì hiệp sĩ biến mất khỏi tầm nhìn.

“Chúng ta đang đi đâu đây?” Charlie ngồi dậy và nhìn ông cậu nó, bởi vì họ đang đi lên con đường dốc mà người ta gọi là đường Đồi Cao.

“Chúng ta vừa mới được mời dự một bữa tối,” Ông cậu Paton nói. “Họ đã gọi vào di động của ta. Ta được báo rằng đó là một dạ tiệc ăn mừng.”

“Ăn mừng cái gì?” Charlie hỏi.

“Ta tưởng tượn chúng ta sẽ biết ngay khi tới đó.”

Họ đi ngang qua nhà của gia đình Loom, nơi đèn trước xe của họ phản chiếu những đôi mắt hung tợn của hai con chó săn giống Rottweiler, đang trừng trừng nhìn qua cánh cổng có thanh chắn. Sau đó họ đi dọc theo bức tường của biệt thự Sage, nơi Lysander sống; đi tiếp nữa và tiếp nữa, lên, lên đồi cao, cho tới khi họ tới mảnh sân dẫn tới ngôi nhà liêu xiêu và chuồng gia súc, nơi Gabriel và gia đình nuôi vịt, ngỗng, dê và chuột kiểng. Charlie đinh đinh là ông cậu sẽ lại xe vô trong sân, nhưng ông vẫn đi lên tiếp trên con đường dốc cao, cho tới khi một khu rừng lọt vô tầm mắt.

Charlie có thể thấy cánh cổng dẫn tới Ngôi Nhà Sấm. Khi họ tiến tới gần hơn, đèn trước xe chiếu rõ bốn, không năm chứ, năm dáng người đang tựa người vô thanh chắn trên cùng. Lysander cao vổng lên hết cả bọn kia, nhưng Charlie nhanh chóng nhận ra những đứa còn lại: Gabriel, Fidelio, Olivia và Emma. Và rồi nó thấy đứa thứ sáu, ngồi chót vót ở đằng cuối cánh cổng, cánh tay anh vẫy lên rối rít, tấm áo jacket của anh cuồn cuộn trong một làn gió không có ngài trời và mái tóc vàng của anh sáng rực như đeo vương miện gắn ngôi sao.

“Tancred!” Charlie thét toáng lên sung sướng.

Bình luận
× sticky