Lần đầu tiên Clary thấy Học Viện, nó giống một nhả thờ bị hư hại trầm trọng, mái sập xệ, sợi dây giới hạn hiện trường của cảnh sát màu vàng ố được dán ngoài cánh cửa đóng kín. Giờ cô không phải tập trung đế đánh tan ảo ảnh nữa. Thậm chí từ bên kia đường cô cũng có thể thấy rõ, đó là một nhà thờ mang phong cách Gothic cao cao với những tháp canh đâm toạc bầu trời xanh đen như những lưỡi đao vậy.
Chú Luke im lặng. Chỉ cần nhìn qua nét mặt cũng đủ biết chú đang đấu tranh tư tưởng ghê gớm. Khi bước lên những bậc thềm, Jace với tay vào trong áo như một thói quen, nhưng khi anh rút tay ra, bàn tay anh chẳng có gì. Anh cười nghe chẳng lấy gì làm vui vẻ. “Quên. Bà Maryse đã lấy chìa khóa của cháu trước khi cháu bỏ đi rồi.”
“Tất nhiên.” Chú Luke đang đứng ngay trước cửa Học Viện. Chú nhẹ nhàng chạm lên những biểu tượng khắc trên gỗ, ngay bên dưới khuôn cửa. “Những cánh cửa này giống y hệt những cánh cửa trong Phòng Hội Đồng ở Idris. Chú không bao giờ nghĩ mình lại được nhìn thấy chúng lần nữa.”
Clary cảm thấy khá tội lỗi khi phải cắt đứt mạch cảm xúc của chú Luke, nhưng rõ ràng họ đang có những vấn đề quan trọng trước mắt. “Nếu như chúng ta không có chìa khóa…”
“Không cần thiết. Cánh cửa Học Viện sẽ mở ra cho bất cứ một Nephilim nào không có ý làm hại tới những người cư ngụ trong đấy.”
“Nhưng nếu những người trong đấy muốn làm hại tới chúng ta thì sao?” Jace lẩm bẩm.
Chú Luke hơi nhếch mép. “Chú không nghĩ có gì khác biệt.”
“Có chứ, hội Clave luôn bày binh bố trận chiếm ưu thế cho họ mà.” Giọng Jace có vẻ ngọng nghịu – môi dưới của anh sưng vều, mi mắt trái tím bầm.
Sao anh âý không tự chữa trị cho mình nhỉ? Clary tự hỏi. “Bà ấy tước mất luôn thanh stele của anh rồi à?”
“Anh bỏ đi không cầm gì theo,” Jace nói. “Anh không muốn mang theo bất cứ thứ gì nhà Lightwood cho.”
Chú Luke nhìn Jace lo ngại. “Bất cứ một Thợ Săn Bóng Tối nào cũng cần có một thanh stele bên mình.”
“Vậy cháu sẽ kiếm cái khác,” Jace nói và đặt tay lên cửa Học Viện. “Nhân danh hội Clave,” anh lên tiếng, “tôi yêu cầu được bước vào thánh địa này. Và nhân danh Thiên thần Raziel, tôi cầu mong được chúc phúc trong những nhiệm vụ chống lại…”
Cánh cửa bật mở. Clary có thể nhìn thấy bên trong nhà thờ, ánh nến trên những giá cắm nến bằng sắt cao cao soi tỏa đôi chỗ trong bóng tối thâm u.
“Ha, tiện thật,” Jace nói. “Cháu nghĩ xin được ban phước dễ hơn mình tưởng. Có lẽ cháu nên yêu cầu phù hộ lần cháu chống lại tất cả những kẻ mặc đồ trắng sau Ngày Quốc tế Lao động.”
“Thiên Thần biết cháu có nhiệm vụ gì,” chú Luke nói. “Cháu không cần phải nói lớn lên đâu, Jonathan.”
Trong thoáng chốc Clary nghĩ mình đã thấy được biểu hiện nào đó thoảng qua mặt Jace – bối rối, ngạc nhiên – hay thậm chí là an tâm nhỉ? Nhưng anh chỉ nói. “Đừng gọi cháu bằng cái tên đó. Đó không phải tên cháu.”
Họ đi qua tầng trệt nhà thờ, đi qua những hàng ghế dài và ngọn đèn cháy vĩnh cửu trên bệ thờ. Chú Luke tò mò nhìn quanh, và thậm chí còn ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc thang máy, giống như một cái lồng chim mạ vàng, xuất hiện để đưa họ lên cao. “Đây hẳn là ý tưởng của Maryse,” chú nói khi bước vào trong. “Đúng phong cách cô ta yêu thích.”
“Nó bằng tuổi cháu đấy,” Jace nói, khi cánh cửa đóng sập đằng sau họ. Chỉ một lúc là họ lên tới nơi, nhưng trong suốt chặng đường ngắn ngủi đó không ai nói với ai một lời. Clary lo lắng nghịch mép khăn quàng cố. Cô thấy hơi tội lỗi vì đã bảo Simon về nhà đợi cô gọi điện sau. Cô đã thấy sự tức giận đè trĩu trên vai cậu khi cậu đi xuống đường Canal mà cảm thấy như bị hắt hủi. Nhưng cô vẫn không thể tưởng tượng cảnh cậu – một người thường – ở đây trong khi chú Luke thay Jace cầu xin Maryse Lightwood; như vậy tình huống sẽ sống sượng thêm thôi.
Thang máy dừng khựng lại và chú mèo Church đã đợi họ ngay ngoài, trên cổ đeo chiếc nơ đỏ cũ kỹ. Jace cúi người xoa đầu con mèo. “Mẹ Maryse đâu rồi cưng?”
Church thốt lên trong họng, nửa như rừ rừ nửa như gầm gừ, và dẫn họ xuống hành lang. Họ đi theo, Jace im lặng, chú Luke liếc nhìn với sự tò mò không thèm giấu giếm. “Chủ chưa bao giờ nghĩ mình sẽ được thấy bên trong nơi này.”
Clary hỏi, “Nó có giống như chú nghĩ không?”
“Chú từng tới thăm các Học Viện ở Luân Đôn và Paris; nơi này không phải là không giống đâu. Nhưng có gì đó…”
“Có cái gì đó sao cơ ạ?” Jace đi trước vài bước.
“Lạnh lẽo hơn,” chú Luke kết luận.
Jace không nói gì. Họ đã tới thư viện. Church ngồi xuống như ám chỉ rằng cu cậu không định đi thêm nữa. Có những giọng nói vang lên đằng sau cánh cửa gỗ dày, nhung Jace đẩy cửa bước vào mà không thèm gõ báo trước.
Clary nghe thấy có tiếng reo ngạc nhiên. Trong chốc lát tim cô thắt lại khi nghĩ tới bác Hodge, người cả đời chỉ sống trong căn phòng này. Bác Hodge, với giọng nói khều khào, cùng con quạ Hugin, gần như là người đồng hành trên mọi nẻo đường – và là con vật, đã theo lệnh bác Hodge, sém chút đã mổ thủng mắt cô ra.
Nhưng tất nhiên người có mặt trong phòng này không phải là bác Hodge. Đằng sau cái bàn gỗ dày to đùng đặt trên lưng hai thiên thần đá trong tư thế quỳ gối là một người phụ nữ trung niên với mái tóc đen huyền của Isabelle và thân hình dong dỏng của Alec. Bà ta mặc một bộ vest đen gọn gàng, đơn giản, đối lập với những chiếc nhẫn màu sắc sặc sỡ sáng lóa trên mấy ngón tay.
Bên cạnh bà là một người nữa: một thanh niên dong dỏng, người mảnh dẻ, với mái tóc đen loăn xoăn và làn da bánh mật. Khi anh ta quay lại nhìn họ, Clary không thể ngăn nổi thốt lên ngạc nhiên. “Raphael?”
Trong tích tắc gã trai kia cũng giật mình. Đoạn hắn mỉm cười để lộ hàm răng rất sáng và sắc – cũng chẳng có gì là ngạc nhiên, vì hắn là ma cà rồng cơ mà. “Dios[1],” hắn ta nói rồi nhìn Jace. “Có chuyện gì với cậu thế, người anh em? Trông cậu như bị cả một đàn sói cào xé vậy.”
[1] Tiếng Tây Ban Nha nghĩa là Chúa ơi. (ND)
“Hoặc đấy là lời đoán đại đúng không ngờ,” Jace nói, “hoặc có lẽ anh đã biết về chuyện xảy ra.”
Nụ cười mỉm của Raphael ngoác ra thành một nụ cười nham nhở. “Tôi có nghe ngóng một số chuyện.”
Người phụ nữ ngồi sau bàn đứng dậy. “Jace,” bà nói, giọng không giấu nổi sự căng thẳng. “Có chuyện gì xảy ra sao? Vì sao con về sớm thế? Ta nghĩ con sẽ ở cùng…” Bà nhìn sang Luke và Clary “Còn hai người là ai?”
“Em gái Jace ạ.” Clary nói.
Ánh mắt Maryse dừng lại ở Clary. “Ừ, ta có thể thấy thế. Trông cháu giống Valentine lắm.” Bà lại nhìn Jace. “Con mang em gái tới đây cùng à? Thêm cả một người thường nữa sao? Lúc này bất kỳ ai ở đây đều không an toàn. Đặc biệt là một người thường…”
Chú Luke, với nụ cười nhàn nhạt trên môi, cất tiếng, “Nhưng tôi thì không phải một người thường.”
Sự biểu hiện trên gương mặt Maryse dần chuyển từ lúng túng sang choáng váng khi nhìn chú Luke – thực sự nhìn chú – lần đầu tiên kể từ khi chú đặt chân vào đây. “Lucian à?”
“Chào Maryse,” Luke nói. “Lâu lắm rồi nhỉ.”
Gương mặt bà Maryse không biểu hiện gì, và trong khoảnh khắc đó trông bà đột nhiên già hẳn đi, già hơn cả chú Luke. Bà cẩn trọng ngồi xuống. “Lucian,” bà lại lên tiếng, hai bàn tay ép lên mặt bàn. “Lucian Graymark.”
Raphael, nãy giờ đang quan sát mọi diễn tiến bằng đôi mắt sáng lấp lánh ánh tò mò của loài chim, quay sang chú Luke. “Ông đã giết Gabriel.”
Gabriel là ai? Clary bối rối nhìn chú Luke. Chú hơi nhún vai đáp lại. “Đúng, cũng như hắn đã giết sói đầu đàn trước hắn. Đó là cung cách làm việc của người sói mà.”
Maryse ngước lên nhìn. “Sói đầu đàn?”
“Nếu giờ ông là thủ lĩnh, đã đến lúc chúng ta phải nói chuyện với nhau,” Raphael nói, duyên dáng nghiêng đầu về hướng chú Luke, mặc dù đôi mắt vẫn rất dè chừng. “Nhưng có lẽ đây không phải thời điểm thích hợp nhất.”
“Tôi sẽ cho người sang lo liệu,” chú Luke bảo. “Dạo này chúng tôi gặp nhiều chuyện quá. Có lẽ tôi lo không xuể những chuyện vặt.”
“Có lẽ vậy,” Raphael chỉ nói thế. Nói rồi hắn ta quay sang Maryse. “Việc của chúng ta ở đây xong chưa nhỉ?”
Bà Maryse cố hết sức để cất tiếng. “Nếu cậu nói Những Đứa Con của Màn Đêm không liên quan tới những vụ sát hại gần đây, vậy tôi sẽ tin lời cậu. Buộc phải thế thôi, trừ khi những bằng chứng mới được đưa ra ngoài ánh sáng.”
Raphael nhíu mày. “Ra ngoài ánh sáng sao?” hắn ta nói. “Đấy không phải cụm từ tôi thích.” Sau đó hắn ta quay người, và Clary chợt nghĩ là mình có thể nhìn xuyên qua Raphael, như thể hắn là một tấm hình bị nhòe ở viền ngoài. Tay trái hắn trong suốt, và xuyên qua đó cô có thể thấy quả địa cầu bằng kim loại to lớn mà bác Hodge luôn để trên bàn. Cô nghe thấy mình kêu nho nhỏ ngạc nhiên khi sự trong suốt ấy lan từ tay trở lên vai, rồi từ vai xuống ngực của hắn, nhoáng cái hắn đã biến mất, như một hình vẽ bị tẩy khỏi bản phác thảo. Bà Maryse thở dài nhẹ nhõm.
Clary há hốc mồm đầy kinh ngạc. “Anh ta chết rồi à?”
“Cái gì, Raphael á?” Jace nói. “Có vẻ là không. Đây chỉ là ảnh chiếu thôi. Hắn ta không thể bước vào Học Viện trong hình hài hữu cơ được.”
“Vì sao?”
“Vì đây là nơi ở của thần thánh,” bà Maryse nói. “Còn hắn thì bị nguyền rủa.” Ánh mắt băng giá của bà chẳng vơi đi chút lạnh lùng nào khi quét sang chú Luke. “Anh, là sói đầu đàn vùng này à?” bà hỏi. “Tôi thấy mình chẳng cần phải ngạc nhiên làm gì. Quả đúng như cung cách của anh thôi, phải không?”
Chú Luke lờ tịt giọng điệu đay nghiến của Maryse. “Raphael tới đây vì vụ sói con bị giết trong ngày hôm nay à?”
“Vụ đó, và vụ một pháp sư bị sát hại,” bà Maiyse đáp. “Được tìm thấy trong khu trung tâm, cách đây hai ngày.”
“Nhưng sao Raphael lại ở đây?”
“Tay pháp sư đó bị hút cạn máu,” Maryse nói. “Có vẻ kẻ nào đó giết người sói đã bị người khác phá ngang trước khi hắn kịp hút máu nạn nhân, nhưng lẽ đương nhiên mối nghi ngờ rơi vào Những Đứa Con của Màn Đêm. Ma cà rồng tới đây để đảm bảo vói tôi rằng người của họ không liên quan tới vụ này.”
“Mẹ tin hắn không?” Jace hỏi.
“Giờ ta sẽ không bàn chuyện của hội Clave với con, Jace – đặc biệt là trước mặt Lucian Graymark.”
“Giờ mọi người gọi tôi là Luke,” chú Luke điềm đạm nói. “Luke Garroway.”
Maryse lắc đầu. “Tôi gần như không nhận ra anh. Anh trông như một người thường.”
“Vâng, ý tưởng là thế mà.”
“Chúng tôi đều nghĩ là anh đã chết.”
“Hy vọng chứ,” chú Luke vẫn nói với cái giọng điềm đạm như cũ. “Hy vọng là tôi đã chết.”
Bà Maryse trông như thể vừa nuốt phải một vật gì đó sắc bén. “Có lẽ mọi người cũng nên ngồi xuống đi,” cuối cùng bà lên tiếng, và chỉ vào hàng ghế trước bàn. “Nào,” bà Maryse nói khi họ đều đã ổn định chỗ ngồi, “có lẽ anh nên nói cho tôi vì sao anh ở đây.”
“Jace đây,” chú Luke nói, không rào trước đón sau, “muốn được xét xử trước hội đồng Clave. Tôi sẵn lòng làm chứng cho cậu ấy. Tôi đã có mặt ở nhà Renwick vào đêm đó, khi Valentine để lộ danh tính. Tôi đã đánh nhau với hắn và chúng tôi suýt nữa đã tiêu diệt lẫn nhau. Tôi có thể xác nhận mọi điều Jace nói đều là sự thực.”
“Tôi không chắc,” Maryse phản đối, “rằng lời nói của anh đáng tin.”
“Tôi có thể là một người sói đấy,” Luke bảo, “nhưng tôi đã từng là một Thợ Săn Bóng Tối. Tôi sẵn lòng được tra xét bằng Kiếm, nếu cần thiết.”
Bằng Kiếm ư? Nghe có vẻ tệ thật. Clary nhìn sang Jace. Bề ngoài anh khá bình tĩnh, những ngón tay đan vào nhau đặt trên đùi, nhưng rõ ràng toàn thân anh đang căng thẳng đến rùng cả mình, như thể chỉ một li nữa thôi là anh sẽ nổ tung. Thấy Clary nhìn, anh vội nói, “Thanh kiếm Linh hồn. Báu vật thứ hai trong Bảo Bối Thiên Thần. Được dùng trong các phiên xét xử để xác định xem các Thợ Săn Bóng Tối có đang nói dối hay không.”
“Anh không phải Thợ Săn Bóng Tối,” Maryse nói vói chú Luke, như thể Jace chưa hề nói lời nào. “Anh đã không tuân theo Luật lệ của Hội Clave từ quá, quá lâu rồi.”
“Cũng có một thời gian chính cô cũng không sống theo Luật,” chú Luke nói. Màu đỏ chạy rần rật lên má bà Maryse. “Tôi cứ nghĩ,” chú Luke nói tiếp, “giờ ắt cô đã phải vượt qua được chứng không được tin một ai rồi chứ.”
“Có những điều anh không bao giờ quên,” bà Maryse đáp. Giọng bà hàm chứa sự dịu dàng nguy hiểm. “Anh cho rằng Valentine giả vờ chết là lời nói dối lớn nhất mà hắn đã nói với chúng ta sao? Anh nghĩ nét quyến rũ cũng tương tự với lòng thật thà ư? Tôi cũng từng nghĩ vậy. Tôi đã nhầm.” Bà đứng dậy và chống hai bàn tay mảnh khảnh lên bàn. “Hắn bảo chúng ta rằng hắn ta sẽ cống hiến cả cuộc đời cho Hội Kín và mong chúng ta cũng làm vậy. Và chúng ta ắt sẽ làm theo thôi – tất cả chúng ta ấy – tôi biết chứ. Tôi đã suýt làm theo lời hắn ta.” Bà nhìn khắp lượt qua Jace và Clary rồi xoáy thẳng vào Luke. “Anh có nhớ,” bà nói, “cách hắn bảo chúng ta rằng vụ Nổi Loạn chẳng là gì, nó còn chẳng phải một trận chiến, chỉ là một vài đại sứ không tấc sắt trong tay chống lại cả Hội Kín hùng mạnh. Tôi đã chắc mẩm tin vào cái chiến thắng nhanh gọn ấy của chúng ta, đến nỗi khi đi đến Alicante tôi đã bỏ Alec nằm nôi ở nhà. Tôi nhờ Jocelyn chăm sóc thằng bé trong khi tôi đi vắng. Cô ta từ chối. Giờ tôi hiểu vì sao rồi. Cô ta đã biết – và anh cũng biết. Nhưng anh đã không hề cảnh báo cho chúng tôi.”
“Tôi đã cố cảnh báo mọi người về Valentine,” chú Luke nói. “Nhưng cô không nghe.”
“Tôi không nói về Valentine. Tôi đang nói về vụ Nổi Loạn kia! Khi chúng ta đến nơi, chỉ có năm mươi người trong hội chúng ta chống lại năm trăm kẻ thuộc Thế giới Ngầm…”
“Cô sẵn sàng giết chết những kẻ tay không tấc sắt đó khi cô nghĩ họ chỉ có năm người,” chú Luke vẫn giữ thái độ bình thản.
Bà Maryse siết chặt lấy cạnh bàn. “Chúng tôi mới là những kẻ bị sát hại. Giữa lúc chém giết hỗn loạn đó, chúng tôi mong chờ Valentine lãnh đạo chúng tôi. Nhưng hắn không có đấy. Đến lúc đó thì Hội đồng Clave đã bao vây Phòng Hiệp Ước. Chúng tôi tưởng Valentine đã chết, và đã chuẩn bị tâm lý tử vì đạo rồi. Nhưng rồi tôi nhớ tới Alec – nếu tôi chết, chuyện gì sẽ xảy đến với cậu con trai bé bỏng của tôi đây?” Giọng bà nghẹn lại. “Vì thế tôi hạ vũ khí và nộp mình cho Hội đồng Clave.”
“Cô đã làm đúng, Maryse,” chú Luke nói.
Maryse quay sang chú Luke, mắt tóe lửa. “Đừng tỏ ra kẻ cả với tôi, người sói. Nếu không phải do anh…”
“Đừng hét vào mặt chú ấy!” Clary cắt lời, gần như nhảy bật dậy khỏi ghế. “Cơ bản thì đấy là lỗi của bà vì đã tin Valentine…”
“Cô nghĩ ta không biết điều đó sao?” Giờ trong giọng nói Maryse bắt đầu chất chứa sự tức giận. “Ồ, Hội đồng Clave đã tử tế khi cho tôi thấy điều đó khi họ thẩm vấn chúng tôi – họ cầm trong tay Thanh Kiếm Linh Hồn và họ biết khi nào chúng tôi nói dối, nhưng họ không thể bắt bọn tôi mở miệng – không gì có thể bắt chúng tôi mở miệng, cho tới khi…”
“Cho tới khi sao?” Luke là người cất tiếng. “Tôi không hề biết. Tôi luôn tự hỏi họ đã nói gì để khiến cô quay lưng với hắn ta.”
“Tôi chỉ nói sự thật mà thôi,” Maryse nói, đột nhiên nghe mỏi mệt. “Rằng Valentine không chết tại Phòng Hiệp Ước. Hắn đả bỏ chạy – để chúng tôi ở lại bỏ mạng mà không có hắn. Chúng tôi nghe nói, sau đó Valentine mới chết cháy trong chính căn nhà của hắn. Điều Tra Viên cho chúng tôi thấy mấy khúc xương của hắn. Tất nhiên, đó chỉ là một lời nói dối khác…” Giọng Maryse lạc đi, và khi bà lên tiếng lại, giọng bà khô khốc: “Nhưng thôi, đến lúc đó thì chúng tôi đã tan đàn xẻ nghé hết rồi. Cuối cùng chúng tôi, những người còn lại trong Hội Kín, đã nói chuyện với nhau. Trước trận chiến, Valentine đã kéo tôi sang một bên, nói với tôi rằng, trong tất cả những người thuộc Hội Kín, tôi là người hắn ta tin tuởng nhất, là cánh tay phải đắc lực nhất của hắn. Khi Hội đồng Clave thẩm vấn chúng tôi, tôi mới biết rằng với ai, hắn cũng nói vậy.”
“Ôi đàn bà khi lên cơn thịnh nộ,” Jace lầm bầm, rất khẽ chỉ mình Clary nghe thấy.
“Hắn không chỉ dối gạt hội đồng Clave mà còn nói dối chúng tôi nữa. Hắn lợi dụng lòng trung thành và tình cảm của chúng tôi. Cũng như khi hắn đưa con hắn tới cho chúng ta,” Maryse nhìn thẳng vào Jace. “Và giờ hắn trở lại, nắm giữ chiếc Cốc Thánh trong tay. Hắn đã lên kế hoạch cho tất cả mọi chuyện này hằng bao nhiêu năm trời, từ hồi nảo hồi nào, ngay từ đầu rồi. Ta không thể tin còn được, Jace. Ta xin lỗi.”
Jace không nói gì. Mặt anh vô cảm, nhưng càng lúc càng tái đi theo từng lời của Maryse , những vết bầm tím mới trên hàm và má anh nổi bật lên sống động.
“Vậy thì sao?” Luke hỏi. “Vậy cô muốn thằng bé làm gì nữa nào? Cậu ta phải đi đâu về đâu đây?”
Bà nhìn Clary một lúc. “Sao lại không tới chỗ cô em gái mà ở chứ?” đoạn nói. “Gia đình…”
“Isabelle là em gái Jace,” Clary xen ngang. “Alec, Max là anh và em trai của anh ấy. Bà sẽ nói gì với họ đây? Họ sẽ ghét bà tới chết vì bà đã ném Jace ra ngoài đường.”
Mắt bà Maryse nhìn sang cô. “Cô thì biết gì nào?”
“Cháu biết Alec và Isabelle,” Clary đáp. Ý nghĩ về Valentine bỗng trờ đến, không mời mà tới; cô gạt nó sang bên. “Gia đình không chỉ là máu mủ. Valentine không phải bố cháu. Mà chính là chú Luke. Cũng như Alec, Max và Isabelle là gia đình của Jace. Nếu bà dứt bỏ anh ấy ra khỏi gia đình bà, bà sẽ để lại trong lòng mọi người một vết thương không bao giờ liền miệng.”
Chú Luke nhìn cô với vẻ tôn trọng trong ngạc nhiên. Có cái gì đó thoáng hiện trong mắt bà Maryse – bối rối chăng?
“Clary,” Jace nhẹ nhàng nói. “Đủ rồi.” Anh có vẻ đã hoàn toàn buông xuôi. Clary quay sang Maryse.
“Thanh Kiếm thì sao ạ?” cô hỏi.
Bà Maryse nhìn cô với vẻ bối rối thấy rõ. “Thanh Kiếm gì?”
“Thanh Kiếm Linh Hồn,” Clary nói. “Cái thứ bà bảo có thể dùng để kiểm tra xem Thợ Săn Bóng Tối có nói dối hay không ấy. Bà có thể dùng nó với Jace.”
“Ý hay đấy.” Có chút hứng khởi trong giọng Jace.
“Clary, cháu có ý tốt, nhưng cháu không biết Thanh Kiếm có thể kéo theo những hệ lụy gì đâu,” chú Luke nói. “Người duy nhất có thể sử dụng kiếm là Điều Tra Viên.”
Jace nhoài người lên. “Vậy hãy gọi bà ấy tới. Hãy gọi Điều Tra Viên tới. Con muốn kết thúc chuyện này.”
“Không,” chú Luke nói, nhưng Maryse đang nhìn Jace.
“Điều Tra Viên,” bà ngập ngừng, “đang trên đường tới…”
“Maryse.” Giọng chú Luke vỡ ra. “Nói cho tôi biết là cô đã không lôi bà ta vào vụ này đấy chứ!”
“Tôi không có! Anh nghĩ Hội đồng Clave sẽ không nhúng tay vào câu chuyện hoang đường những nào là binh đoàn những Kẻ Lầm Đường rồi Cổng dịch chuyển cùng những cái chết được dàn dựng ấy sao? Và sau những gì Hodge đã làm ấy? Giờ nhờ ơn Valentine, tất cả chúng tôi đều bị điều tra,” bà nói xong, nhìn sang vẻ mặt sững sờ trắng bệch của Jace. “Điều Tra Viên có thể bỏ tù Jace. Bà ta có thể tước đi các Ấn Ký trên người nó. Tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu…”
“Nếu Jace bỏ đi trước khi bà ta tới,” Luke tiếp lời. “Thể nào cô cứ đùng đùng đòi đuổi Jace đi ngay lập tức.”
“Điều Tra Viên là ai ạ?” Clary hỏi. Chức danh này khiến cô nghĩ tới hình ảnh về Tòa án dị giáo, về những đòn tra tấn, về roi da và bàn phanh thây. “Bà ta sẽ làm gì ạ?”
“Bà ta giúp Hội đồng Clave điều tra các Thợ Săn Bóng Tối,” chú Luke nói. “Bà ta đảm bảo các Nephilim không làm sai Luật. Bà ta điều tra toàn bộ thành viên thuộc Hội Kín sau vụ Nổi Loạn.”
“Bà ta đã nguyền rủa bác Hodge sao?” Jace nói. “Bà ta đưa mẹ tới đây sao?”
“Bà ta chọn nơi đày ải gia đình ta và hình phạt dành cho bác Hodge. Bà ta không yêu quý gì chúng ta, và căm ghét bố đẻ của con.”
“Con sẽ không đi,” Jace nói, gườn mặt vẫn tái xanh. “Bà ta sẽ làm gì mẹ nếu như bà ta tới đây còn con thì đã biến mất? Bà ta sẽ nghĩ mẹ âm mưu che giấu con. Bà ta sẽ trừng phạt mẹ – mẹ, Alec, Isabelle và cả Max nữa.”
Bà Maryse không nói gì.
“Maryse, đừng ngốc thế chứ,” chú Luke nói. “Bà ta sẽ quy tội cô nhiều hơn nếu cô thả Jace đi. Giữ cậu ta lại đây và đồng ý xét xử bằng Thanh Kiếm sẽ là bằng chứng về lòng trung thành.”
“Giữ Jace lại – chú nói đùa sao chú Luke!” Clary thốt lên. Cô biết việc sử dụng Thanh Kiếm là ý tưởng của mình, nhưng cô bắt đầu thấy hối hận vì đã gợi lên ý tưởng ấy. “Bà ta nghe có vẻ kinh khủng quá.”
“Nếu Jace bỏ đi,” chú Luke nói, “có thể cậu ấy sẽ không bao giờ về được. Sẽ không thể là Thợ Săn Bóng Tối nữa. Dù muốn dù không, Điều Tra Viên vẫn là cánh tay đắc lực của Luật pháp. Nếu Jace vẫn muốn là một phần trong Hộỉ đồng Clave, cậu ấy phải hợp tác với bà ta. Cậu ấy vẫn còn thứ hỗ trợ, thứ mà những thành viên của Hội Kín không có sau vụ Nổi Loạn.”
“Và đó là cái gì nào?”Maryse hỏi.
Chú Luke cười nhạt. “Không giống cô,” chú nói, “Jace đang nói sự thật”
Bà Maryse hít một hơi sâu rồi quay sang Jace. “Nói cho cùng, quyết định là ở con,” bà bảo. “Nếu con muốn được xét xử, con có thể ở lại tới khi Điều Tra Viên tới.”
“Con sẽ ở lại,” Jace nói. Giọng anh khẳng khái, không có lấy một chút tức giận, khiến Clary ngạc nhiên. Hình như anh đang nhìn xuyên qua bà Maryse, một tia sáng ánh lên trong đôi mắt anh, như thể phản chiếu ánh lửa. Trong giây phút đó, Clary không thế kìm được ý nghĩ rằng Jace trông giống hệt bố đẻ của anh ấy.