Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Vũ Khí Bóng Đêm 2: Thành Phố Tro Tàn

Chương 20: Phần kết

Tác giả: Cassandra Clare

“Clary!” mẹ Simon mặt mũi ngời ngời khi thấy cô đứng ngoài cửa. “Lâu lắm rồi bác không gặp con. Bác cứ lo là con với Simon cãi nhau.”

“Dạ không có đâu ạ,” Clary nói. “Dạo gần đây cháu bị ốm thôi ạ.” Kể cả khi bạn được chữa trị bằng chữ rune trị thương, nhưng bạn không phải là vạn bệnh bất xâm. Cô không ngạc nhiên khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau trận chiến mà đầu đau như búa bổ và lên cơn sốt; cô nghĩ mình bị cảm lạnh – ai lại không bị chứ, sau khi chết cóng trong quần áo ướt giữa không gian mênh mang trời nước trong nhiều giờ? – nhưng Magnus bảo cô kiểu như bị kiệt sức sau khi đã tạo ra chữ rune hủy diệt cả con tàu của Valentine.

Mẹ Simon tặc lưỡi thương cảm. “Chắc con cũng sốt virus giống Simon nhà bác hồi tuần trước rồi. Thằng bé còn chẳng rời giường nổi cơ mà.”

“Nhưng giờ bạn ấy đỡ rồi chứ ạ?” Clary nói. Cô biết là thế nhưng cô muốn nghe lại.

“Ừ. Thằng bé đang ở ngoài vườn sau. Cháu cứ đi qua cổng nhé.” Bác gái mỉm cười. “Gặp cháu nó mừng lắm đấy.”

Những dãy nhà gạch đỏ trên khu phố nhà Simon cách nhau bởi những hàng rào sắt uốn sơn trắng đẹp đẽ, với một cánh cổng dẫn ra một khu vườn nhỏ sau nhà. Bầu trời trong xanh còn không khí hơi lạnh, dù mặt trời lên rực rỡ. Clary cảm nhận thấy sắp có tuyết rơi rồi.

Cô đóng cổng lại sau lưng và đi tìm Simon. Quả là cậu đang ở sau vườn, nằm trên chiếc ghế dài cùng một cuốn truyện tranh mở trong lòng. Cậu bỏ nó sang bên khi thấy Clary và ngồi thẳng dậy cười toe toét. “Ê, bé yêu.”

“Bé yêu?” Cô ngồi xuống bên. “Cậu đùa mình à?”

“Mình chỉ thử thôi. Không được à?”

“Không được,” cô khẳng định và nhoài sang hôn lên môi bạn. Khi cô ngồi dậy, những ngón tay Simon còn nán lại trên tóc cô, nhưng ánh mắt lại tràn ngập ưu tư.

“Mình mừng vì cậu sang,” Simon nói.

“Mình cũng vậy. Đáng ra tớ tới sớm hơn, nhưng…”

“Cậu bị ốm. Mình biết.” Cô mất cả tuần nằm trên ghế dài nhà chú Luke, trùm trong chăn và nằm xem phần chiếu lại của bộ phim truyền hình CSI và nhắn tin cho bạn. Thật vui vẻ khi được sống trong một thế giới mọi điều khúc mắc đều có một câu trả lời khoa học, hợp lý.

“Giờ mình đỡ hơn rồi.” Cô liếc nhìn xung quanh và rùng mình, kéo chiếc áo cardigan trắng sát người hơn. “Sao cậu lại nằm ngoài nhà trong thời tiết này chứ? Cậu không lạnh à?”

Simon lắc đầu. “Giờ mình không còn thấy lạnh hay nóng nữa. Hơn nữa,” đôi môi Simon cong lên thành một nụ cười – “tớ muốn hưởng thụ càng nhiều thời gian dưới ánh mặt trời càng tốt. Mình vẫn buồn ngủ vào ban ngày, nhưng mình đang chống chọi lại.”

Cô vuốt ve má cậu. Má cậu được mặt trời sưởi ấm, nhưng dưới đó da vẫn lạnh. “Nhưng mọi chuyện khác vẫn… vẫn vậy chứ?”

“Cậu nói mình vẫn là ma cà rồng hả? Ừ. Hình như là vậy. Vẫn muốn uống máu. Vẫn không có nhịp tim. Và mình phải tránh bác sĩ, nhưng vì ma cà rồng không bị ốm…” Cậu nhún vai.

“Và cậu đã nói chuyện với Raphael? Anh ta cũng không biết sao cậu ra ngoài vào ban ngày được hả?”

“Ừ. Và anh ta hình như cũng bực vụ ấy lắm.” Simon ngái ngủ chớp mắt với cô, như thể bây giờ là hai giờ sáng chứ không phải hai giờ chiều. “Mình nghĩ mình làm anh ta bực vì những thứ tưởng chừng như quy luật lại bị phá vỡ. Hơn nữa, anh ta sẽ phải gặp nhiều khó khăn hơn để bắt mình lang thang vào đêm trong khi mình cứ thích đi chơi vào ban ngày đấy.”

“Cậu nghĩ anh ta sẽ mừng bấn lên mà.”

“Ma cà rồng không thích thay đổi. Họ rất truyền thống.” Simon cười với Clary, và cô nghĩ, Cậu ấy sẽ mãi thế này. Khi mình năm mươi hoặc sáu mươi, cậu ấy vẫn trông như mười sáu. Không hề vui chút nào. “Nhưng mà, thế cũng tốt cho sự nghiệp âm nhạc của mình. Nếu như bà Anne Rice[1] đúng chỗ nào, thì đó là chuyện ma cà rồng có thể trở thành những ngôi sao nhạc rock cự phách.”

[1] Anne Rice: tiểu thuyết gia người Mỹ (1941), thành công với cuốn sách lấy đề tài về ma cà rồng Vampires Chroconicle, sau này được dựng thành 2 bộ phim Interview with the Vampire: The Vampire Chronicle (1994) và Queen of the Damned (2002)

“Tớ không nghĩ thông tin đó đáng tin.”

Cậu dựa người vào ghế. “Cái đó hả? Tất nhiên, ngoài cậu ra làm gì còn thứ gì đáng tin.”

“Đáng tin á? Cậu nghĩ về mình vậy hả?” cô chế giễu hỏi. “Không lãng mạn tí nào.”

Mặt cậu bạn tối đi. “Clary…”

“Cái gì? Giờ là gì thế?” Cô nắm lấy tay Simon. “Cậu đang sử dụng giọng báo tin buồn rồi.”

Cậu không nhìn cô nữa. “Mình không biết có phải tin buồn hay không.”

“Không buồn thì vui thôi,” Clary nói. “Cứ nói với mình là cậu ổn đi.”

“Mình ổn,” Simon đáp. “Nhưng… tớ không biết bọn mình còn nên gặp nhau nữa không.”

Clary suýt rơi xuống ghế. “Cậu không muốn làm bạn với mình nữa sao?”

“Clary…”

“Vì chuyện lũ quỷ ư? Vì mình khiến cậu thành ma cà rồng à?” Giọng cô càng lúc càng lên cao. “Mình biết mọi chuyện gần đây khá điên rồ, nhưng mình có thể giúp cậu tránh xa những chuyện đó. Mình có thể…”

Simon nhăn mặt. “Cậu bắt đầu nói nghe giống cá heo rồi đấy, cậu biết không? Ngừng lại đi.”

Clary ngừng.

“Mình vẫn muốn chúng ta là bạn,” cậu nói. “Chỉ là mình không chắc về chuyện khác kia.”

“Chuyện khác nào?”

Simon bắt đầu đỏ mặt. Cô không biết ma cà rồng cũng đỏ mặt được. Trông đối lập kỳ lạ với nước da trắng xanh của cậu bạn. “Chuyện bạn trai bạn gái ấy mà.”

Clary im lặng một lúc lâu, cố tìm lời để nói. Cuối cùng, cô mở lời: “Ít nhất cậu cũng không dùng từ ‘chuyện hôn hít’. Mình sợ cậu sẽ gọi thế.”

Simon nhìn xuống hai bàn tay hai người, đang đan vào nhau trên ghế nhựa. Những ngón tay cô thật nhỏ nhắn giữa tay cậu, nhưng lần đầu tiên, da cô sẫm màu hơn. Simon lơ đãng dùng ngón tay cái vuốt ve những đốt khớp ngón tay cô và nói, “Mình sẽ không bao giờ gọi vậy đâu.”

“Mình tưởng đó là điều cậu muốn,” cô nói. “Mình tưởng cậu nói rằng…”

Simon ngước lên nhìn cô qua hàng lông mi đen. “Rằng mình yêu cậu ư? Mình vẫn yêu cậu. Nhưng đó không phải mọi chuyện.”

“Vì Maia ư?” Răng cô đập vào nhau lập cập, nhưng lạnh chỉ là một phần. “Vì cậu thích cô ấy?”

Simon ngần ngừ. “Không. Ý mình là có, mình thích cô ấy, nhưng không phải theo cách cậu nghĩ. Chỉ là khi ở cạnh cô ấy – mình biết cảm giác có ai đó yêu thích mình vì chính bản thân mình là như thế nào. Và không hề giống như khi mình ở cạnh cậu.”

“Nhưng cậu không yêu cô ấy…”

“Có thể một ngày mình sẽ yêu.”

“Có thể một ngày nào đó mình cũng sẽ có thể yêu cậu.”

“Nếu có ngày đó,” cậu nói, “hãy tới và nói cho mình biết. Cậu biết phải tìm mình ở đâu.”

Răng cô bắt đầu va vào nhau lập cập lớn hơn. “Mình không thể mất cậu, Simon ạ. Mình không thể.”

“Không bao giờ. Mình không bỏ rơi cậu đâu. Nhưng mình thà là chúng ta vẫn giữ nguyên mối quan hệ bây giờ, rất chân thật và quan trọng, hơn là buộc cậu phải vờ vịt khác đi. Khi mình ở bên cậu, mình muốn biết mình đang ở với chính cậu, với Clary thật sự kìa.”

Cô dựa đầu vào Simon, nhắm mắt lại. Cậu vẫn cho cô cảm giác của Simon, dù cho mọi chuyện đã xảy ra; vẫn có mùi vị của Simon, giống như bột giặt. “Có lẽ mình cũng không biết Clary thực sự là ai.”

“Nhưng mình biết.”

Chiếc xe bán tải mới cóng của chú Luke đang ở chế độ chờ bên lề đường khi Clary rời nhà Simon, đóng cổng lại sau lưng.

“Chú đã đưa cháu đến. Chú không cần phải đón cháu đâu mà,” cô vừa nói vừa vào ngồi bên cạnh chú. Cô biết ngay rằng chú Luke sẽ thay chiếc xe cũ bị hỏng toàn phần bằng chiếc mới y như xe trước thôi mà.

“Bỏ qua cho chú vì chú quá lo lắng như một bậc phụ huynh nhé,” chú Luke đưa cho cô một cốc cà phê giấy. Cô nhấp một ngụm – không sữa và thật nhiều đường, đúng kiểu cô thích. “Dạo gần đây chú cứ chộn rộn mỗi khi không thấy cháu trong tầm mắt.”

“Ồ thế ư?” Clary cầm chặt cốc cà phê để nó không sánh ra khi họ va phải ổ gà. “Chú nghĩ tình hình này sẽ kéo dài trong bao lâu nào?”

Chú Luke nghĩ ngợi một lúc. “Không lâu đâu. Năm sáu năm gì đó thôi.”

“Trời chú Luke!”

“Chú định để cho cháu hẹn hò khi ba mươi tuổi, nếu được.”

“Thực ra cháu thấy ý tưởng đó không tồi đâu. Có thể tới khi ba mươi tuổi cháu mới sẵn sàng.”

Chú Luke liếc nhìn sang. “Cháu và Simon…?”

Cô vẫy bàn tay không cầm cốc. “Đừng hỏi.”

“Hiểu rồi.” Có lẽ chú hiểu thật. “Cháu có muốn chú cho cháu về nhà không?”

“Chú định vào bệnh viện ạ?” Cô có thể nhận ra sự căng thẳng dưới câu nói đùa của chú. “Cháu sẽ đi cùng chú.”

Họ đang chạy qua cầu, và Clary nhìn ra dòng sông, trầm ngâm đong đưa cốc cà phê. Cô chưa bao giờ chán quang cảnh này, dòng sông hẹp chạy giữa những bức tường sừng sững của Manhattan và Brooklyn. Dòng nước lấp lánh dưới ánh mặt trời trông như một mặt giấy tráng bạc. Cô tự hỏi vì sao mình chưa bao giờ thử vẽ cảnh này nhỉ. Cô nhớ từng hỏi mẹ vì sao mẹ không dùng cô làm người mẫu, không bao giờ vẽ con gái mình. “Vẽ một cái gì đó giống như muốn nhốt nó lại mãi mãi,” mẹ Jocelyn nói khi ngồi trên sàn, tay cầm chiếc bút lông đang nhỏ mực catmi xanh xuống quần bò. “Nếu con thực sự thích một cái gì đó, con sẽ không cố giữ nó trong hình dáng đó mãi mãi. Con phải để nó tự do thay đổi.”

Nhưng con ghét thay đổi. Cô hít một hơi sâu. “Chú Luke ơi,” cô nói. “Valentine nói gì với cháu khi cháu lên thuyền, về chuyện…”

“Cứ bắt đầu với cụm từ ‘Valentine nói’ đều không hay ho gì cả,” chú Luke lầm bầm.

“Có lẽ không thật. Nhưng hắn nói về mẹ và chú. Hắn nói chú yêu mẹ cháu.”

Im lặng. Họ mắc kẹt giữa dòng xe cộ trên cầu. Cô nghe có tiếng tàu Q chạy rầm rầm qua. “Cháu có nghĩ vậy không?” cuối cùng chú Luke hỏi.

“Ừm.” Clary nhận ra bầu không khí có mùi căng thẳng nên cố chọn từ ngữ cho cẩn thận. “Cháu không biết. Cháu muốn nói là, trước đây hắn đã từng đề cập đến nhưng cháu chỉ bỏ qua vì nghĩ hắn hoang tưởng hay hận thù gì đó thôi. Nhưng lần này cháu nghĩ kỹ hơn, và ờm… cũng khá lạ khi chú luôn luôn ở quanh mẹ con cháu, với cháu chú như một người bố, chúng ta đã sống cùng nhau trong trang trại vào mùa hè, và cả mẹ cháu lẫn chú đều chẳng hẹn hò ai khác hết. Vì thế cháu nghĩ có thể…”

“Cháu nghĩ có thể gì hả?”

“Rằng có thể hai người đã hẹn hò với nhau bao nhiêu năm vậy nhưng không nói với cháu. Có thể chú nghĩ cháu còn quá nhỏ nên không hiểu. Có thể chú sợ cháu hỏi về bố cháu. Nhưng cháu không còn nhỏ dại nữa. Chú có thể nói với cháu. Cháu nghĩ vậy đấy. Chú có thể nói với cháu mọi điều.”

“Có thể không phải mọi điều.” Lại im lặng khi chiếc xe tải nhích thêm từng chút một trên đoạn đường tắc. Chú Luke nheo mắt nhìn mặt trời, những ngón tay gõ gõ trên vô lăng. Cuối cùng, chú nói. “Cháu nói đúng. Chú yêu mẹ cháu.”

“Tuyệt quá,” Clary nói, cố tỏ vẻ nhiệt tình ủng hộ, dù cho ý tưởng những người bằng tuổi mẹ cô và chú Luke hẹn hò với nhau nghe ghê ghê thế nào.

“Nhưng,” chú nói hết, “mẹ cháu không biết.”

“Mẹ cháu không biết hả?” Clary hất mạnh tay. May là cốc cà phê đã cạn. “Sao mẹ cháu lại không biết chứ? Sao chú không nói?”

“Thật ra,” chú Luke nói khi đạp chân ga cho xe tiến lên, “là không.”

“Vì sao không?”

Chú Luke thở dài và mệt mỏi xoa xoa cái cằm lởm chởm râu ria. “Vì,” chú nói. “Dường như chẳng lúc nào là phù hợp cả.”

“Thật là lý do vớ vẩn, chú thừa biết rồi.”

Chú Luke khụt khịt gì đó nghe vừa giống tiếng cười khúc khích vừa giống tiếng rên rỉ vì khó chịu. “Có thể, nhưng đó là sự thực. Khi lần đầu tiên chú nhận ra mình có tình cảm với mẹ Jocelyn của cháu, chú bằng tuổi cháu. Mười sáu tuổi. Và lúc đó hai chúng ta vừa gặp Valentine. Chú không thể nào so sánh với hắn ta. Chú thậm chí còn hơi mừng vì mẹ cháu không muốn chú, mà muốn một người thực sự xứng đôi với mẹ cháu.” Giọng chú đanh lại. “Khi chú ý thức được mình đã sai lầm đến thế nào thì đã quá muộn rồi. Khi bọn chú chạy trốn khỏi Idris, và lúc đó mẹ cháu đang có cháu, và chú đã đề nghị cưới mẹ cháu, để chăm sóc cho mẹ cháu. Chú nói chú không quan tâm cha đứa bé là ai, chú sẽ nuôi nó như nuôi con đẻ của mình. Mẹ cháu nghĩ chú thương hại mẹ con cháu. Chú không thể thuyết phục mẹ cháu rằng chú là một người ích kỷ. Mẹ cháu bảo rằng mẹ cháu không muốn trở thành gánh nặng cho chú, vì như thế là quá đáng với bất cứ một ai. Sau khi mẹ cháu bỏ chú lại tại Paris, chú trở lại Idris nhưng chú luôn bồn chồn lo lắng không yên, không bao giờ vui vẻ được. Chú luôn có cảm giác như một phần trong chú bị mất, phần đó là Jocelyn. Chú đã mơ rằng mẹ cháu ở nơi nào đó cần chú giúp, đang gọi chú mà chú không nghe thấy. Cuối cùng chú đi tìm mẹ cháu.”

“Cháu nhớ là mẹ cháu rất hạnh phúc,” Clary nói nhỏ. “Khi chú tìm thấy mẹ cháu.”

“Có và không. Mẹ cháu mừng vì gặp lại chú, nhưng đồng thời với mẹ cháu, chú lại là biểu trưng cho cái thế giới mẹ cháu đã chạy trốn, và mẹ cháu không muốn phần nào của nó. Mẹ cháu cho phép chú ở lại khi chú hứa từ bỏ mọi liên hệ với đàn, tới Hội đồng Clave, Idris, tất cả mọi thứ. Lẽ ra chú đã đề nghị dọn tới ở cùng cả hai mẹ con, nhưng Jocelyn nghĩ việc chú biến hình khó lòng giấu nổi cháu, và chú phải đồng ý. Chú đã mua một hiệu sách, lấy tên mới, giả vờ là Lucian Graymark đã chết. Mà quả thực, Lucian đã chết thật.”

“Chú thực sự đã làm rất nhiều điều vì mẹ cháu. Chú đã từ bỏ cả đời mình.”

“Chú sẽ làm nhiều hơn nữa,” chú Luke thành thực nói. “Nhưng mẹ cháu quá cương quyết không muốn liên quan gì tới Hội đồng Clave hay Thế Giới Ngầm, và dù chú vờ thế nào, chú vẫn là một người sói. Chú là bằng chứng sống cho tất cả. Còn mẹ cháu thì không muốn cháu biết chút nào. Cháu biết đấy, chú chưa bao giờ đồng tình với việc mẹ cháu thỏa thuận với Magnus, để xóa trí nhớ hay Tâm Nhãn của cháu, nhưng vì đó là điều mẹ cháu muốn nên chú đành đồng ý, nếu chú ngăn cản, mẹ cháu sẽ đuổi chú đi. Và không còn cách nào – không còn cách nào mẹ cháu cho chú kết hôn cùng mẹ cháu, trở thành bố cháu mà không nói cho cháu biết về bản chất của chú. Và nếu điều đó xảy ra thì công sức bao lâu nay, bao bức tường mỏng manh mẹ cháu dựng lên giữa mẹ cháu về Thế Giới Vô Hình đều sụp đổ hết. Chú không thể làm vậy. Vì thế chú giữ im lặng.”

“Chú muốn nói là chú chưa bao giờ nói cho mẹ cháu biết về cảm xúc của chú ư?”

“Mẹ cháu không ngốc đâu, Clary,” chú Luke nói. Chú bình tĩnh, nhưng trong giọng nói có chút đay nghiến. “Mẹ cháu hẳn phải biết chứ. Chú đã đề nghị kết hôn cùng mẹ cháu cơ mà. Dù mẹ cháu từ chối chú kiểu gì đi nữa, chú vẫn biết một điều: Mẹ cháu biết chú cảm thấy thế nào, và mẹ cháu không có cùng cảm xúc với chú.”

Clary im lặng.

“Không sao đâu,” chú Luke cố tỏ như không có gì. “Chú đã chấp nhận từ lâu rồi.”

Những dây thần kinh trong đầu Clary đột nhiên căng thẳng mà cô nghĩ không phải do cốc cà phê không hề mang lại. Cô gạt đi những suy nghĩ về đời mình. “Chú đề nghị kết hôn với mẹ cháu, nhưng chú có nói là vì chú yêu mẹ cháu không? Cháu không nghe thấy đoạn đó.”

Chú Luke im lặng.

“Cháu nghĩ chú nên thú thật với mẹ cháu. Cháu nghĩ chú đã sai về cảm xúc của mẹ cháu rồi.”

“Chú không sai đâu Clary.” Giọng chú Luke dứt khoát: Đủ rồi.

“Cháu nhớ có lần cháu hỏi vì sao mẹ cháu không hẹn hò,” Clary nói, lờ tịt âm giọng chỉ thị của chú. “Mẹ cháu nói vì trong tim mẹ cháu có một hình bóng. Cháu nghĩ mẹ cháu muốn nói tới bố, nhưng giờ… giờ cháu không dám chắc.”

Chú Luke thực sự kinh ngạc. “Mẹ cháu nói vậy sao?” Chú trấn tĩnh rồi nói tiếp, “Có lẽ mẹ cháu thực sự muốn nói tới Valentine.”

“Cháu không nghĩ vậy.” Cô liếc nhìn chú. “Hơn nữa, chú không thấy bực sao? Khi không bao giờ nói ra cảm nhận của mình ấy?”

Lần này họ im lặng mãi tới khi xuống cầu và bon bon chạy trên đường Orchard, hai bên đường là những cửa hàng và nhà hàng với những tấm bảng hiệu có những chữ tiếng Hoa đẹp đẽ cong cong màu vàng và đỏ. “Đúng, chú bực lắm chứ,” chú Luke nói. “Nhưng lúc đó, chú lại nghĩ thà cứ có những gì chú đang có với mẹ cháu còn hơn không có gì. Nhưng nếu cháu không thể nói sự thực với người mà cháu yêu thương nhất, thì rồi dần dà cháu sẽ không còn để cho bản thân mình biết sự thực đó nữa.”

Có tiếng như tiếng nước chảy trong tai Clary. Nhìn xuống, cô thấy mình đã bóp chiếc cốc giấy thành khối tròn xấu xí.

“Đưa cháu tới Học Viện,” cô nói. “Đi chú.”

Chú Luke ngạc nhiên nhìn cô. “Chú tưởng cháu muốn tới bệnh viện mà?”

“Cháu sẽ gặp chú ở đó khi xong việc,” cô nói.

“Cháu có việc phải làm trước đã.”

Tầng dưới Học Viện tràn ngập ánh nắng mặt trời và những hạt bụi sáng màu li ti bay trong nắng. Clary chạy trong hành lang hẹp giữa hai hàng ghế, phóng vào thang máy rồi nhấn nút. “Thôi nào, thôi nào,” cô lầm bầm. “Thôi…”

Chiếc cửa vàng mở toang. Jace đang đứng trong thang máy. Mắt anh mở lớn khi thấy cô.

“… Nào,” Clary nói hết câu và hạ tay xuống. “Ô. Chào.”

Anh nhìn cô trân trối. “Clary à?”

“Anh cắt tóc,” cô nói không kịp nghĩ. Đúng thật – những lọn tóc vàng óng ánh không còn rủ xuống mặt anh, mà đã cắt bằng gọn ghẽ. Trông anh lịch lãm hơn, và có phần hơi già dặn hơn. Anh cũng ăn mặc gọn ghẽ, áo len xanh đen và quần bò. Có gì đó màu bạc lấp lánh trên cổ anh, ngay dưới cổ áo.

Anh giơ tay. “À đúng rồi. Maryse cắt đấy.” Cánh cửa thang máy đóng lại; anh giữ cửa. “Em có cần lên trên Học Viện không?”

Cô lắc đầu. “Em muốn nói chuyện với anh thôi.”

“À.” Nghe thế Jace hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn bước ra khỏi thang máy, để cánh cửa đóng cạch sau lưng. “Anh đang định tới tiệm Taki mua ít thức ăn. Không ai muốn nấu nướng gì hết…”

“Em hiểu,” Clary nói rồi ước gì mình không mở mồm. Nhà Lightwood thích hay không thích nấu ăn có liên quan gì tới cô đâu.

“Chúng ta nói chuyện ngoài này cũng được,” Jace nói. Anh đi tới cửa rồi dừng lại nhìn cô. Khi đứng giữa hai hàng nến cháy, ánh sáng phủ ánh vàng nhạt lên tóc và da, trông anh giống như một bức tranh thiên thần vậy. Tim cô thắt lại. “Em đi hay không?” anh hơi sẵng giọng, nghe không giống một thiên thần tí nào.

“À, có. Em đi đây.” Cô vội vàng đuổi theo.

Khi họ đi tới cửa hàng Taki, Clary cố tránh những đề tài liên quan tới cô, Jace hay cô và Jace. Thay vào đó cô chỉ hỏi chuyện của Isabelle, Max và Alec.

Jace ngần ngừ. Họ đi qua Đại lộ Số Một và cơn gió lạnh thổi qua. Trời trong xanh, một ngày mùa thu đậm chất New York.

“Em xin lỗi.” Clary nhăn mặt vì sự ngu ngốc của mình. “Chắc giờ họ phải đau khổ lắm. Những người họ biết đều chết cả.”

“Thợ Săn Bóng Tối khác lắm,” Jace nói. “Bọn anh là chiến binh. Bọn anh đón chào cái chết theo cái cách em…”

Clary không thể ngăn tiếng thở dài. “ ‘Những người thường các em không thấy vậy.’ Anh định nói thế đúng không?”

“Ừ,” anh thừa nhận. “Thi thoảng anh khó lòng biết em thực sự là gì.”

Họ dừng lại trước cửa hàng Taki’s bên dưới mái hiên nhô ra và mặt tiền không có lấy một ô cửa kính. Quỷ lửa bảo vệ cửa nhìn họ bằng cặp mắt đỏ ngờ vực.

“Em là Clary,” cô nói.

Jace nhìn xuống. Gió lạnh thổi tóc cô bay bay. Cậu vươn tay kéo tóc cô lại, gần như vô thức. “Anh biết.”

Bên trong, họ thấy một bốt đặt trong góc và chui vào. Quán gần như chẳng có ai: Kaelie, tiên phục vụ đang dựa người vào quầy, đôi cánh trắng xanh lười nhác rung động. Cô ta và Jace từng có một thời gian hẹn hò. Một cặp người sói ngồi trong một góc khác. Họ đang ăn những đùi cừu sống và tranh cãi về việc ai thắng trong trận chiến giữa Dumbledore trong Harry Potter và Magnus Bane.

“Chắc chắn cụ Dumbledore sẽ thắng,” gã đầu tiên nói. “Ông ấy biết Thần chú Tử Vong sức mạnh ghê gớm.”

Người sói thứ hai ghi điểm. “Nhưng Dumbledore không có thực.”

“Tôi cũng không nghĩ Magnus Bane có thực,” người sói thứ hai phản đối. “Anh gặp ông ta bao giờ chưa?”

“Lạ nhỉ,” Clary ngồi xuống và hỏi. “Anh có nghe họ nói không.”

“Không, nghe trộm là mất lịch sự.” Jace đang xem xét thực đơn, và thế là Clary có cơ hội xem xét anh. Em chưa bao giờ nhìn anh, cô đã nói với anh như vậy. Câu đó đúng, hoặc ít nhất cô chưa bao giờ nhìn anh theo cách cô muốn, bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ. Cô luôn bị mất tập trung vì một chi tiết: đường cong của xương gò má, hàng lông mi tuyệt đẹp, hình dáng khóe miệng anh.

“Em đang nhìn anh,” cậu nói và không buồn nhìn lên. “Sao em lại nhìn anh thế? Sao vậy?”

Nhờ Kaelie tới bàn mà Clary tránh được câu trả lời. Cô để ý, chiếc bút của cô nàng là bút lông ngỗng màu bạc. Cô nàng tò mò xem xét Clary bằng đôi mắt chỉ độc màu xanh. “Cô biết mình cần gì chưa?”

Chưa chuẩn bị gì nên Clary gọi đại vài món trong thực đơn. Jace gọi một đĩa khoai lang rán và một số món được gói mang về cho Lightwood. Kaedie rời đi, để lại một mùi hương hoa nhàn nhạt.

“Nói với Alec và Isabelle là em rất tiếc vì những chuyện vừa qua,” Clary nói khi Kaedie ngoài tầm nghe. “Và nói với Max là lúc nào em cũng sẵn lòng đưa nó tới Fobidden Planet.”

“Chỉ có người thường mới nói họ rất tiếc khi họ muốn nói ‘tôi chia sẻ nỗi buồn với bạn’,” Jace nhận xét. “Em chẳng có lỗi gì hết, Clary.” Mắt cậu đột nhiên bừng lên nỗi thù hằn. “Đó là lỗi của Valentine.”

“Em không thấy…?”

“Ông ta ở đâu? Không. Anh đoán ông ta đã đục lỗ chui vào đâu đó để tiếp tục cái kế hoạch ông ta định làm với Thanh Kiếm rồi. Sau đó…” Jace nhún vai.

“Sau đó thì sao?”

“Anh không biết. Ông ta là một kẻ điên. Khó mà đoán một kẻ điên sẽ làm gì tiếp.

Nhưng cậu tránh ánh nhìn của Clary, và Clary biết cậu đang nghĩ gì: Chiến tranh. Đó là thứ Valentine muốn. Cuộc chiến với Thợ Săn Bóng Tối. Và ông ta sẽ có nó. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi ông ta chọn địa điểm tấn công đầu tiên. “Nhưng, anh không nghĩ em sẽ tới chỉ để nói chuyện qua loa với anh nhỉ?”

“Không.” Giờ đã đến lúc, nhưng Clary không biết phải nói thế nào. Cô thoáng thấy hình phản chiếu của mình trên miếng giữ khăn giấy màu bạc. Áo cardigan trắng, mặt trắng bệch, má đỏ lựng. Cô thấy mình như lên cơn sốt. Cô cũng hơi cảm thấy sốt. “Em đã muốn nói chuyện với anh từ mấy hôm trước…”

“Chắc em muốn lừa anh thôi.” Giọng cậu sắc lạnh bất thường. “Mỗi khi anh gọi điện cho em, chú Luke đều bảo rằng em ốm. Anh nghĩ em lại muốn tránh mặt anh. Một lần nữa.”

“Em không tránh mặt anh.” Cô cảm giác giữa hai người là cả một khoảng cách xa xôi, dù bàn không rộng lắm và họ không ngồi xa nhau nhiều. “Em muốn nói chuyện với anh. Em lúc nào cũng nghĩ về anh.”

Cậu khụt khịt ngạc nhiên và giơ tay sang bên kia bàn. Cô nắm lấy, và một con sóng yên ổn tràn sang người cô. “Anh cũng nghĩ về em.”

Bàn tay anh thật ấm, thật dễ chịu và cô nhớ cô đã lôi mảnh vỡ dính máu của Cổng Dịch Chuyển ra khỏi tay anh lúc ở Renwick’s như thế nào – đó là mảnh vỡ cuối cùng của cuộc sống trước đây của anh – và anh đã ôm cô ra sao. “Em thực sự bị ốm,” cô nói. “Em thề. Anh thừa biết lúc trên thuyền em đã suýt chết mà.”

Cậu thả tay cô ra, nhưng cậu nhìn chăm chú, như muốn khắc ghi khuôn mặt cô trong trí nhớ mình. “Anh biết,” cậu nói. “Mỗi lần em suýt chết là anh cũng suýt muốn chết theo em.”

Lời anh làm trái tim cô đập thình thịch như thể vừa uống một cốc đầy cà phê. “Jace. Em đến để nói với anh rằng…”

“Đợi đã. Để anh nói trước.” Cậu giơ tay như để ngăn lời nói tiếp theo của cô. “Trước khi em nói gì, anh muốn xin lỗi em đã.”

“Xin lỗi? Vì gì?”

“Vì đã không lắng nghe em.” Cậu dùng cả hai tay vuốt tóc và cô thấy một vết sẹo nhỏ, nhỏ xíu màu trăng trắng ở một bên cổ họng. Trước đây không có. “Em cứ mãi nói với anh rằng anh không thể có điều anh muốn từ em, và anh cứ dồn ép em mãi và không thèm nghe em nói. Anh chỉ muốn em mà không quan tâm xem người khác sẽ nói gì. Kể cả em.”

Miệng cô đột nhiên khô khốc, nhưng trước khi cô có thể nói gì, Kaelie đã quay lại, với đĩa khoai chiên của Jace và rất nhiều món khác cho Clary. Clary liếc nhìn những món cô gọi. Một cốc sữa lắc màu xanh, thứ gì đó trông giống thịt bò hamburger sống, và một đĩa dế nhúng sô cô la. Không vấn đề gì; vốn dạ dày cô đã đầy lên không thể ăn nổi rồi. “Jace,” cô nói, ngay khi người phục vụ bàn vừa đi. “Anh không hề sai. Em…”

“Không. Để anh nói hết đã.” Cậu nhìn xuống đĩa khoai rán như thể chúng chứa bí mật của cả vũ trụ. “Clary. Anh phải nói ngay bây giờ – hoặc sẽ không bao giờ nói được.” Lời cậu cứ thế tuôn trào: “Anh nghĩ mình đã mất cả gia đình. Anh không nói tới Valentine. Anh muốn nói tới nhà Lightwood. Anh nghĩ họ đã không cần anh. Anh nghĩ trên thế giới này anh chẳng còn ai ngoài em. Anh… anh điên lên vì những mất mát và anh đã khiến em mệt mỏi và anh xin lỗi. Em nói đúng.”

“Không. Em quá ngu ngốc. Em đã quá độc ác với anh…”

“Em có quyền như vậy.” Cậu ngước mắt nhìn cô và đột nhiên cô bỗng nghĩ về hồi bốn tuổi ở ngoài biển, cô đã khóc khi gió tới thổi bay lâu đài cô vừa xây xong. Mẹ đã nói rằng mẹ sẽ xây cho cô một lâu đài khác nếu cô muốn, nhưng cô không thể ngừng khóc vì điều cô nghĩ sẽ tồn tại mãi mãi hóa ra lại không mãi mãi, chúng chỉ là cát và sẽ biến mất ngay khi gió hay nước chạm tới. “Điều em nói là đúng. Chúng ta không thể sống hoặc yêu không thôi. Còn những người quan tâm tới chúng ta sẽ bị tổn thương, có thể chết, nếu họ để chúng ta cảm nhận điều chúng ta muốn cảm nhận. Ích kỷ như thế, nó sẽ… sẽ giống với Valentine.”

Cậu nói ra tên bố mình với sự dứt khoát như thể dộng cánh cửa vào mặt Clary.

“Giờ anh sẽ chỉ là anh trai của em thôi,” cậu nói và nhìn cô với một biểu hiện mong cô sẽ hài lòng, chỉ khiến cô muốn hét lên rằng anh đã làm tan nát trái tim cô và anh phải dừng lại ngay. “Đó là điều em muốn phải không?”

Cô mất một lúc rất lâu mới trả lời nổi, và khi cô nói, giọng cô như từ đâu đó xa xôi vọng lại. “Đúng,” cô nói và cô nghe thấy tiếng nước chảy rào rào trong tai, và mắt cô cay xè như thể bụi hay cát bay vào mắt. “Đó là điều em muốn.”

Clary đờ đẫn bước trên những bậc thang rộng dẫn lên cánh cửa trước bằng kính của bệnh viện Beth Israel. Cô mừng vì mình ở nơi này chứ không phải nơi nào khác. Cô chỉ muốn chui vào lòng mẹ mà khóc, kể cả khi cô không thể giải thích mình khóc vì gì. Từ khi cô không thể làm thế, thì ngồi bên cạnh giường mẹ và khóc dường như là giải pháp hữu hiệu thứ hai.

Cô đã kiềm chế rất tốt lúc ở quán Taki’s, kể cả khi ôm Jace chào tạm biệt. Cô không hề khóc cho tới khi lên tàu điện ngầm, rồi cô thấy mình khóc về mọi chuyện mình chưa từng khóc, về chuyện của Jace, Simon, chú Luke, mẹ cô và kể cả Valentine. Cô khóc lớn tới nỗi người đàn ông ngồi cạnh phải đưa khăn giấy cho cô và cô đã hét lên, Lão kia lão nghĩ mình nhìn gì chứ? vì đó là điều bạn sẽ làm ở New York. Sau đó cô thấy khá hơn đôi chút.

Khi gần đi hết bậc tam cấp, cô nhận ra có một người phụ nữ đứng đó. Bà ta mặc áo choàng đen dài ngoài váy, không phải kiểu bạn thường thấy trên đường phố Manhattan. Chiếc áo choàng làm bằng vải nhung đen và có mũ rộng hiện đang đội lên che kín khuôn mặt. Clary liếc nhìn quanh và thấy không ai đứng trước bệnh viện hay đứng cạnh cửa để ý tới người phụ nữ kỳ lạ này. Vậy bà ta đang dùng phép ẩn thân.

Cô tới bậc thang cao nhất và dừng lại, ngước nhìn người phụ nữ. Cô vẫn không nhìn ra khuôn mặt bà ta. Cô nói, “Nghe này, nếu cô tới tìm cháu, hãy nói cho cháu biết cô muốn gì. Cháu không có tâm trạng cho mấy vụ ẩn thân này và những bí mật đâu.”

Cô nhận ra mọi người xung quanh đang dừng lại nhìn cô gái điên đang nói chuyện một mình đây. Cô cố lắm mới không quay ra mắng chửi bọn họ.

“Được rồi.” Một giọng nói nhẹ nhàng, quen thuộc tới kỳ lạ vang lên. Người phụ nữ vươn tay bỏ mũ xuống. Mái tóc bạc rơi xuống vai như thác lũ. Đó là người phụ nữ Clary đã nhìn thấy khi cô ở ngoài sân của nghĩa trang Marble, người đã cứu họ khỏi lưỡi dao của Malik lúc ở Học Viện. Tới gần, Clary nhận ra bà ta có khuôn mặt rất góc cạnh, quá góc cạnh khó nói là xinh đẹp được, dù mắt bà ta khá to và mang màu hạt dẻ đẹp đẽ. “Tên cô là Madelein. Madelein Bellefleur.”

“Và…?” Clary nói. “Cô muốn gì ở cháu?”

Người phụ nữ – Madelein – hơi ngần ngại. “Cô biết mẹ cháu, Jocelyn,” bà ta nói. “Hồi ở Idris chúng ta là bạn.”

“Cô không thể tới gặp mẹ cháu,” Clary nói. “Không ai trừ người nhà được phép vào thăm bệnh nhân tới khi tình hình khá hơn.”

“Nhưng mẹ cháu sẽ không khá hơn.”

Clary cảm thấy như bị ăn tát. “Sao cơ?”

“Cô xin lỗi,” Madelein nói. “Cô không muốn làm cháu buồn. Chỉ là cô biết chuyện gì đã xảy ra với Jocelyn, và không một bệnh viện của người thường nào có thể cứu chữa cho mẹ cháu hết. Chuyện xảy ra với mẹ cháu – là do mẹ cháu tự làm, Clarissa ạ.”

“Không. Cô không hiểu rồi. Valentine…”

“Mẹ cháu đã tự làm trước khi Valentine bắt được mẹ cháu. Vì thế ông ta không thể có được thông tin từ mẹ cháu. Mẹ cháu đã lên kế hoạch như vậy. Đó là một bí mật, một bí mật mẹ cháu chỉ nói với duy nhất một người, và mẹ cháu cũng chỉ nói với duy nhất một người cách phá vỡ câu thần chú đó. Người đó là cô.”

“Cô muốn nói…”

“Đúng,” Madelein nói. “Cô muốn nói cô có thể chỉ cháu cách đánh thức mẹ cháu.”

Bình luận