Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Lịch Sử Việt Nam – Từ Nguồn Gốc Đến Năm 1884

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1975)

Tác giả: Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn

I. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời

1. Tình hình Việt Nam sau Cách Mạng Tháng Tám

Sau khi Cách Mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ Lâm Thời ra mắt nhân dân. Vừa được thành lập là Chính phủ Lâm Thời đã phải đương đầu với nhiều khó khăn về các mặt chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế. Để đối phó với tình hình ấy, Chính phủ đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách phải giải quyết: chống nạn đói, chống nạn mù chữ, tổ chức Tổng tuyển cử, giáo dục nhân dân thực hiện cần-kiệm-liêm-chính, bỏ một số thuế, ra tuyên bố tự do tín ngưỡng và đoàn kết lương giáo. Chính phủ phát động chiến dịch tăng gia sản xuất, quyên góp gạo để cứu đói, phát động phong trào bình dân học vụ  để cấp tốc xóa nạn mù chữ trong nhân dân.

Chính phủ còn phải đối phó với các mưu đồ xâm lược của các cường quốc. Tại Nam Bộ, quân đội Anh vào giải giới quân Nhật đã giúp thực dân Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ. ở miền Bắc quân đội Tưởng Giới Thạch vào giải giới quân Nhật đem theo những tổ chức tay sai của chúng vào Việt Nam để mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Trước tình hình ấy, Chính phủ Lâm thời phản đối việc quân Pháp kéo vào Việt Nam và kêu gọi toàn dân sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu.

Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu được đổ chức trên khắp đất nước. Tất cả công dân trai gái từ 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, dòng giống. Kết quả cuộc Tổng tuyển cử là 333 đại biểu được bầu vào Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất là 98,4% phiếu bầu. Tổng tuyển cử thắng lợi biểu dương sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, quyết tâm xây dựng chế độ mới.

Sáng ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I họp kỳ họp đầu tiên tại Nhà hát thành phố Hà Nội, gần 300 đại biểu đã về dự. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội bầu làm chủ tịch nước và danh sách chính phủ chính thức được thông qua.

2. Nam bộ kháng chiến

Mùa hè năm 1945, ngay sau khi Nhật đầu hàng phe Đồng Minh, chính phủ Pháp dùng nhiều biện pháp để quay trở lại Đông Dương. Một đạo quân viễn chinh được thành lập do tướng Leclerc chỉ huy. Đô đốc d’Argenlieu làm Cao ủy Pháp tại Đông Dương.

Vào những ngày đầu của tháng 9 năm 1945, quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn với danh nghĩa Đồng Minh để tước khí giới Nhật nhưng kỳ thật mở đường cho Pháp trở lại Việt Nam. Ngày 23/9/1945 với sự giúp sức của quân Anh, quân Pháp chiếm được trụ sở UBND Nam Bộ rồi mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Campuchia và miền Nam Trung Bộ. Nhân dân miền Nam lại bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính phủ phát động trên khắp cả nước phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam. trong một thời gian ngắn, những đoàn quân Nam tiến từ các miền của đất nước lên đường vào Nam chiến đấu. Chiến tranh du kích diễn ra khắp Nam Bộ. Quân Pháp bị đánh phá nhiều nơi.

3. Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946)

Sau khi đem quân đánh chiếm nhiều nơi ở Nam Bộ, để thực hiện việc chiếm lại toàn cõi Việt Nam, thực dân Pháp ký với Tưởng Giới Thạch một hiệp ước cho phép quân Pháp thay thế quân Trung Quốc ở Bắc Bộ. Tuy thế quân Trung Quốc vẫn chưa thi hành hiệp ước này. Trước tình hình đó, Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí chủ trương “hòa để tiến” để có thời gian chuẩn bị lực lượng đối phó, đồng thời loại bớy một kẻ thù là quân phiệt Tưởng Giới Thạch. Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đại diện cho Chính phủ Việt Nam và Sainteny, đại diện cho chính phủ Pháp, ký hiệp định Sơ bộ, công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Nước Việt Nam có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng. Sự thống nhất đất nước sẽ do trưng cầu dân ý quyết định. Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào thay thế quân Tưởng rút về nước. Số quân Pháp này phải đóng ở những nơi quy định và phải rút khỏi Việt Nam trong 5 năm. Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí đóng quân. Hai bên thực hiện ngừng bắn tại Nam Bộ.

Tuy thế, sau khi ký Hiệp ước Sơ bộ, thực dân Pháp vẫn tiếp tục tăng áp lực quân sự tại Nam bộ và lập chính phủ Nam Kỳ tự trị để tách Nam bộ khỏi Việt Nam. Hội nghị Fontainebleau họp tại Pháp từ tháng 6 đến tháng 9 nhằm giải quyết việc quan hệ giữa hai nước và vấn đề Nam bộ nhưng không đi đến kết quả. Để tỏ thiện chí hòa bình của Việt Nam và để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến, Hồ Chủ tịch đã dàn xếp ký bản Tạm ước vào ngày 14/9/1946. Hai bên thỏa thuận đình chỉ các cuộc xung đột; Pháp cam kết thi hành các quyền tự do dân chủ ở Nam Bộ và trả lại tự do cho một số nhà yêu nước; Việt Nam đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi kinh tế và văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam. Các điều khoản của bản Tạm ước chỉ có tính cách tạm thời.

1. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ

Việt Nam đã áp dụng biện pháp nhân nhượng với đối phương khi ký Hiệp ước sơ bộ và Tạm ước, nhưng thực dân Pháp không tôn trọng các thỏa ước ấy, ngày càng lấn tới, ráo riết đánh chiếm nhiều nơi. Đầu tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ”, nêu rõ phương hướng cơ bản và nhiệm vụ chủ yếu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngày 18/12/1946 thực dân Pháp gửi  tối hậu thư đòi tước vũ khí lực lượng Tự Vệ Thủ Đô. Khả năng hòa hoãn với thực dân đã chấm dứt. Đêm 19/12/1946 cuốc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cho tắt điện cả thành phố Hà Nội làm hiệu lệnh chiến đấu trong toàn thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” động viên toàn thể đồng bào đứng lên đánh đuổi thực dân cứu nước.

Phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến là lâu dài, phải dựa vào sức mình là chính và huy động sức mạnh toàn dân. Sau khi tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận quân Pháp, quân Việt Nam rút ra khỏi các thành phố, thị xã, thực hiện phương châm bảo toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài. Một bộ phận vũ trang nhỏ được gài lại để làm nòng cốt cho chiến tranh du kích trong vùng tạm chiếm. Nhân dân triệt để áp dụng chiến thuật “vườn không nhà trống” và xây dựng làng chiến đấu.

2. Chiến dịch Việt Bắc (1947)

Sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chính phủ và Hồ Chủ tịch rút về căn cứ địa Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc trung du Bắc bộ) và lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ. Quân Pháp chiếm được các thành phố, thị trấn và kiểm soát các tuyến đường giao thông quan trọng. Thực dân Pháp muốn tiến nhanh, đánh nhanh, nhưng gặp phải sức kháng cự của nhân dân và quân đội Việt Nam, nên vẫn phải kéo dài cuộc chiến. Tháng 3/1947 d’Argenlieu bị triệu hồi về Pháp, Emile Bollaert thay thế, xúc tiến việc lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại, cắt đứt mọi đàm phán với chính phủ Việt Nam và lập kế hoạch tấn công Việt Bắc.

Tháng 10/1947, 12.000 quân Pháp mở cuộc tiến công qui mô vào vùng giải phóng Việt Bắc. Một bộ phận quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn, Chợ Mới vào ngày 7/10. Đồng thời quân Pháp tiến vây Việt Bắc từ nhiều phía. Quân dân ta đánh trả quyết liệt. Trên sông Lô, hải quân Pháp bị phục kích, nhiều tàu chiến, ca nô bị đánh chìm. Quân nhảy dù xuống Bắc Cạn bị bao vây, bắn tẻ. Sau hai tháng kịch chiến, quân và dân ta loại khỏi vòng chiến hơn 6.000 địch, bắn hạ 16 máy bay, hàng trăm xe tăng bị phá, 11 tàu chín và canô bị đánh chìm. Cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến vẫn được an toàn. Bộ đội chủ lực giành được nhiều vũ khí của địch. Quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc.

3. Chiến dịch Cao Bắc Lạng (1950)

Sau khi thất bại tại Việt Bắc, thực dân Pháp thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, dùng chiến tranh nuôi chiến tranh”. Chúng tăng cường đóng đồn bót ở nhiều nơi, tiến hành càn quét các vùng giải phóng, sử dụng Việt gian để đánh phá lực lượng kháng chiến. Tuy thế, cơ sở kháng chiến vẫn phát triển, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, các phong trào chống đi lính, chống nộp thuế vẫn diễn ra quyết liệt. Để đối phó, quân Pháp thiết lập “hành lang Đông Tây” nhằm cắt đứt liên lạc của căb cứ địa Việt Bắc với đồng bằng. Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động chiến dịch Cao Bắc Lạng để tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

Đầu tháng 9 năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn thể Vệ Quốc Đoàn, bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân tích cực tham gia chiến dịch. Ngày 16/9, chiến dịch bắt đầu. Bộ đội Việt Nam đánh chiếm Đông Khê, Pháp buộc phải bỏ Cao Bằng để một mặt đem quân đánh chiếm Thái Nguyên bằng cuộc hành quân Phoque, mặt khác mở cuộc hành binh Thérèse từ Lạng Sơn rút lui theo đường số 4 của Pháp bị phá vỡ, chiến dịch Cao Bắc Lạng kết thúc thắng lợi, khôi phục được 5 tỉnh và nhiều nơi quan trọng. Chiến thắng này chứng tỏ quân dân Việt Nam đã dành được thế chủ động tiến công và giúp cho bộ đội, nhân dân nhiều kinh nghiệm để tiến tới các chiến thắng quyết định sau này.

4. Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)

a. Kế hoạch Navarre

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam tiếp tục một cách kiên cường. Lực lượng kháng chiến càng ngày càng phát triển vì huy động được sức mạnh toàn dân. Các vùng giải phóng được mở rộng diện tích không ngừng tạo được thế liên hoàn ở các vùng đồng bằng và trung du bắc bộ. Vùng Tây Bắc lại được giải phóng vào năm 1952, phá tan ý đồ lập “xứ Thái tự trị” của Pháp. Đến năm 1953, bộ đội Việt Nam đã lớn mạnh về chất cũng như về số lượng, có khả năng chủ động trên chiến trường.

Trong khi ấy lực lượng quân Pháp bị tiêu hao rõ rệt. Trên ba trăm nghìn quân Pháp bị diệt, vùng bị Pháp chiếm càng ngày càng bị thu hẹp lại. Chính phủ Pháp bèn dựa vào viện trợ Mỹ để đối phó. Tháng 5/1953 Đại tướng Henri Navarre được chính phủ Pháp cử làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương với sự thỏa thuận của Mỹ. Henri Navarre nổi tiếng là có tài, đã từng được đào tạo tại trường quân sự Saint Cyre từ năm 18 tuổi, là Trung đoàn trưởng của quân đội Pháp trong Thế chiến thứ hai và là tham mưu trưởng Lục quân Trung Âu trong khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO). Navarre vạch kế hoạch bình định Đông Dương trong vòng 18 tháng.

b. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ

Thực hiện kế hoạch này, quân Pháp ra sức càn quét tại miền Nam và xây dựng tập đoàn cứ điểm tại Điện Biên Phủ để giữ thê 1phòng ngự tại miền Bắc. Điện Biên Phủ là một châu l»§a châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu, cách Hà Nội 480km về phía Tây Bắc, nằm gần biên giới Việt Lào. Địa hình Điện Biên Phủ rất hiểm trở. Vùng núi cao có diện tích 200.000 ha, chiếm 65% diện tích huyện Điện Biên Phủ ngày nay. đỉnh cao nhất là Pú Huồi (2.178m). Điện Biên có một lòng chảo với các đồi nhỏ bao quanh. Vùng lòng chảo này có diện tích 25.700 ha ruộng, đặc biệt có cánh đồng Mường Thanh, nổi tiếng là vùng nông nghiệp lúa nước giàu có của khu Tây Bắc.

Sau khi phát hiện Đại đoàn 316 của quân đội Việt Nam hành quân lên Tây Bắc, ngày 20.11.1953 Navarre mở cuộc hành quân Castor, cho 6 tiểu đoàn tinh nhuệ lê dương nhảy dù chiếm đóng Điện Biên. Sau bốn tháng chiếm đóng, Pháp biến Điện Biên thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Lực lượng của Pháp ở đây có đến 16.000 quân gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh với 40 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng 10 chiếc, 1 đại đội xe vận tải hàng trăm chiếc, 1 phi đội không quân.

Navarre đưa ra những tuyên bố rất lạc quan: “Điện Biên Phủ là một pháo đài không thể công phá”, hoặc “Việc đánh bại Việt Minh, dĩ nhiên là điều chắc chắn”. Còn De Castries, Tư lệnh trực tiếp chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lại cho rải truyền đơn thách thức tướng Võ Nguyên Giáp.

c. Các diễn tiến của chiến dịch Điện Biên Phủ

Ngay từ khi quân Pháp mới lập cứ điểm Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh họp vào ngày 6.12.1953 quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, thành lập Bộ chỉ huy và Đảng ủy mặt trận do tướng Võ Nguyên Giám làm Chỉ huy trưởng và Bí thư Đảng ủy mặt trận. Một Hội đồng cung cấp mặt trận cũng được thành lập, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch.

Trên 200.000 dân công với hơn 10 triệu ngày công đã được huy động để phục vụ mặt trận Điện Biên. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với các đơn vị công binh để mở đường, phá bom nổ chậm của địch trên các tuyến giao thông. Hàng vạn xe đạp thồ, xe trâu, xe bò, xe ngựa, thuyền bè đã được dùng để vận chuyển lương thực và vũ khí ra mặt trận.

Chiến dịch Điện Biên Phủ gồm ba đợt tấn công như sau:

Đợt 1 (từ 13 đến 17.3.1954): Hai trung đoàn của Đại đoàn 312 tấn công vào phía Bắc, bắt đầu bằng cứ điểm Him Lam (Béatrice). Địch quân hoàn toàn bị bất ngờ vì chúng không thể tin rằng bộ đội có thể kéo pháo lên tận các mỏm núi cao và có thể ngụy trang mà không bị phát hiện. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, cứ điểm Him Lam bị xóa sổ. Ngày hôm sau, cứ điểm Độc Lập (Gabrielle) bị tiêu diệt. Ngày 17 đến lượt cứ điểm Bản Kéo (Anne-Marie) đầu hàng. Như vậy là phân khu phòng ngự hiểm yếu phía Bắc và Tây Bắc đã bị vô hiệu hóa. 2.000 địch quân bị diệt và bị bắt; 28 máy bay bị phá hủy.

Trong 10 ngày tiếp theo chiến thắng đầu tiên ấy, dưới hỏa pháo ác liệt của đối phương, bộ đội Việt Nam đào hơn 100km giao thông hào bao quanh khu trung tâm Mường Thanh để chuẩn bị cho đợt tấn công thứ hai.

Đợt 2 (từ ngày 30.3 đến 26.4): bộ đội tấn công các cứ điểm phía Đông. Đó là những cứ điểm cốt yếu nên trận chiến xảy ra vô cùng ác liệt nhất là tại đồi A 1 (Eliane 2), ta chiếm, địch lại phản công chiếm lại. Đến giữa tháng tư, bộ đội tiến đến được sân bay Mường Thanh, cắt đứt con đường tiếp tế bằng hàng không của địch. Hầu hết đạn dược, thực phẩm được thả dù tiếp tế cho quân Pháp đều rơi về phía bộ đội.

Đợt 3 (từ ngày 1.5 đến 7.5): bộ đội đánh chiếm các đồi còn lại ở phía Đông. Đồi A 1 và C 1 (Eliane 1) bị tiêu diệt hoàn toàn. Đến chiều ngày 7.5 với đợt tấn công cuối cùng, bộ đội tiến vào khu trung tâm. Một tiểu đội bộ binh thuộc Trung đoàn 209 tấn công vào sở chỉ huy Pháp, De Castries phải đầu hàng.

Sau 55 này đêm anh dũng chiến đấu, bộ đội Việt Nam làm chủ hoàn toàn Điện Biên Phủ, diệt được 16.200 địch quân, trong đó có một tướng, 16 tá, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan, 62 máy bay. Chính phủ Pháp vội vã triệu hồi H. Navarre để thực hiện việ rút quân.

5. Hiệp định Genève

Hội nghị Genève khai mạc vào ngày 26.4.1954 vào lúc bộ đội Việt Nam chuẩn bị đợt tấn công thứ ba của chiến dịch Điện Biên Phủ. Vào ngày 8.5 phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn đến hội nghị với tư thế của kẻ chiến thắng. Hội nghị có 9 phái đoàn tham dự. Ngoài phái đoàn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, còn có đại diện nước Pháp, Liên Xô cũ, Anh, Trung Quốc, Mỹ, Campuchia, Lào và Chính phủ Bảo Đại.

Sau gần ba tháng đàm phán, hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết vào ngày 20.7.1954 với nội dung chủ yếu như sau:

Nước Pháp và các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ như Việt Nam, Lào và Campuchia.

Ngừng bắn, ngừng chuyển quân tại Việt Nam và trên toàn Đông Dương. Lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời.

Pháp rút khỏi Đông Dương và mỗi nước Đông Dương sẽ tuyển cử tự do

Việt Nam sẽ thực hiện sự thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do tổ chức vào tháng 7.1956.

Sau gần 9 năm gian khổ, nhân dân Việt Nam đã đánh bại được cuộc xâm lăng của thực dân Pháp. Gần nửa triệu quân xâm lược của thực dân bị tiêu diệt. Nhà nước Pháp tiêu tốn 2/688 tỷ francs và 2,6 tỷ đô la của viện trợ Mỹ. Tám tổng chỉ huy quân đội Pháp lần lượt bị thua trận chiến trường Đông Dương. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu, đây là: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”.

Bình luận