Đúng một tuần sau, chúng tôi lại gặp nhau ở Café Ladino. Chúng tôi đã không nói chuyện cả tuần vừa rồi và tôi thấy mình thực sự trông đợi buổi tụ họp lần này. Tôi băn khoăn không biết Itamar có bỏ công tìm hiểu về điều bí ẩn đó không và cậu ta có phát hiện ra thông tin gì hay không, hay là sự hào hứng của cậu ta đã nguội dần trong mấy ngày qua.
Khi tôi đến quán cà phê thì thấy Jerome đang đợi bên ngoài. Hắn kẹp một tờ báo dưới cánh tay và mặc một chiếc áo sơ mi, có lẽ là kinh dị nhất mà tôi từng thấy: một chiếc áo có cảnh rừng rú loang lổ màu in hình Kofi Anan, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, đang chuyền cành từ cây nọ sang cây kia.
Quán vắng tanh, còn Fabio thì đang đợi chúng tôi với cánh tay giang rộng. Chúng tôi ngồi xuống chiếc bàn quen thuộc trong “hang.”. Mười phút sau, Itamar xuất hiện, đóng bộ một bộ vest tối màu, thanh lịch cùng một chiếc cà vạt lụa màu vàng sáng, trông có vẻ đắt tiền.
“Jerome này, đây mới là kiểu chúng ta nên mặc,” tôi phát biểu, mắt vẫn không rời khỏi Itamar.
“Trông cậu bảnh lắm,” Jerome nhận xét, “nhưng tớ nghĩ bộ này cần thêm một chút màu sắc nữa… có lẽ là điểm thêm vài vệt hồng hồng, xanh xanh thì đẹp hơn.”
“Hôm nay tớ phải đi dự một buổi hội đàm,” Itamar giải thích vẻ hối lỗi. Cậu ta ngồi xuống ghế và rút ra một đống giấy tờ, sách vở từ trong túi.
“Các cậu nghĩ sao,” cậu ta bắt đầu bằng một vẻ mặt rất thỏa mãn, “nếu tớ nói rằng cả tuần vừa qua, tớ chẳng làm việc gì cả? Tớ giữ bí mật tất cả những gì có thể các cậu muốn biết về ‘Bí ẩn Trí thông minh của người Do Thái.’” Cậu ta bắt đầu bới tung đống giấy tờ.
Itamar kích động đến nỗi thậm chí không thèm hỏi xem tình hình chúng tôi ra sao như các lần khác. Cậu ta tiến thẳng đến chủ đề mình đang theo đuổi, muốn ngay lập tức kể cho chúng tôi nghe những điều cậu ta đã tìm hiểu được.
“Trong lúc ở chỗ nha sĩ thứ sáu tuần trước ấy,” cậu ta bắt đầu, “tớ đã suy nghĩ về vấn đề này từ nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, người Do Thái là những người sống sót. Họ đã trải qua bao nhiêu điều bất công trong lịch sử? Họ đã phải chịu đựng bao nhiêu cuộc tàn sát? Đã bao nhiêu lần họ bị đẩy ra khỏi đất nước, buộc phải lang thang khắp thế giới để tìm một nơi trú chân mới, để rồi lại bị ném đi một lần nữa khi đã ổn định mọi thứ ở nơi mới? Babylon, Tây Ban Nha, châu Âu. Họ đã sống sót qua những Tòa án Dị giáo, những cuộc tàn sát và, qua tất cả những điều này, dân tộc Do Thái vẫn phát triển lớn mạnh. Làm thế nào họ giữ được những điều đó? Những dân tộc khác hùng mạnh hơn dân tộc Do Thái nhiều, với những nền văn hóa ấn tượng kỳ vĩ, đã không làm được điều đó. Người Ai Cập cổ đại, dân tộc đã xây dựng nên những kim tự tháp vĩ đại, nay đâu rồi? Người Hy Lạp phát minh ra nền dân chủ và sản sinh ra cho thế giới những Plato, những Aristoste nay đâu rồi? Người La Mã với thời hoàng kim của công nghệ tiên tiến nay đâu rồi? Tất cả những dân tộc đó đều đã sụp đổ như những tòa tháp xếp bằng những quân domino, chỉ còn lại là những đổ nát và chỉ còn tồn tại trong ký ức…” Cậu ta dừng lại giữa câu khi cô bé bồi bàn đến để ghi đồ uống.
Itamar gãi cằm suy nghĩ và gọi một tách espresso. “Một latte,” tôi gọi. Còn Jerome chọn cappuccino.
“Người Do Thái đã sống sót,” Itamar tiếp tục dòng suy nghĩ, “mà không có sự hỗ trợ của bất cứ đội quân hùng mạnh hay thế lực nào, mà họ cũng chưa từng sở hữu sức mạnh nào như thế. Họ thành công trong việc giữ gìn truyền thống của mình trong những điều kiện bất khả thi là bởi vì họ đã học được cách sử dụng trí óc trong những hoàn cảnh thay đổi không ngừng. ‘Bộ óc’ đó cho phép họ không chỉ sống sót mà còn có ảnh hưởng đến môi trường khắc nghiệt quanh mình và phát triển những kỹ năng ghi nhớ để giúp họ truyền miệng toàn bộ bản Torah từ thế hệ này sang thế hệ khác.” Cậu ta dừng lại một lát. “Dù sao, đó chính là điểm khởi đầu cho nghiên cứu của tớ.”
“Và đây chính là điều làm cho người Do Thái thông minh hơn những dân tộc khác sao?” tôi hỏi.
“Chờ một lát đã,” Itamar ngắt lời tôi, giọng cậu ta hơi lưỡng lự một chút. Cậu ta ngừng lại, tìm một từ thật chính xác. “Nghe này… thực sự… tớ đã tìm hiểu nguyên nhân và phương thức của sự hình thành bí ẩn về Trí thông minh Do Thái. Câu hỏi của cậu, nếu đúng là họ có thông minh hơn, rất khó trả lời. Chúng ta không thể kết luận một câu chung chung như thế. Dân tộc nào cũng có kẻ yếu, người mạnh, kẻ xấu, người tốt, kẻ ngu đần, người thông minh. Tất nhiên, có những người Công giáo, người Hồi giáo, người Hindu thông thái hơn và thành đạt hơn rất nhiều người Do Thái mà tớ biết.”
Tôi lại nhớ đến lần gặp cô Lippman.
“Mà còn chưa kể đến nhé, chúng ta đang nói đến loại người Do Thái nào? Gốc Đức? Gốc Tây Ban Nha? Do Thái chính thống? Cải cách? Mỹ? Nga? Chẳng lẽ tất cả đều là những nhà khoa học kiệt xuất sao? Sự khác biệt ở đây lớn lắm. Theo như tớ biết thì câu hỏi ai thông minh hơn ai là một câu hỏi hoàn toàn không hợp lý. Mục đích của tớ là hiểu được tại sao người Do Thái, với tư cách là một con người cụ thể, lại được cho là người thông minh, và làm thế nào mà điều bí ẩn, hay đặc trưng này, lại được gắn với họ. Cậu biết người ta thường nói đấy, ‘không có lửa làm sao có khói.’ Cái khói đó có thể đưa tớ đến với một sự thật cụ thể nào đó. Đó mới là cái tớ muốn tìm hiểu.” Itamar kết luận suy nghĩ của mình và quay trở lại với việc sục sạo đống giấy tờ.
Qua khe mắt, tôi để ý thấy Jerome đang đọc mục tin thể thao dưới gầm bàn. Khổ thân Jerome. Cuộc thảo luận nho nhỏ của chúng tôi không hề lấy được của hắn một chút xíu hứng thú nào. Nhận ra mình bị “bắt quả tang,” hắn gập nhanh tờ báo lại và để nó ngay ngắn trên bàn.
“Các cậu có biết Real Madrid đã mua Louis Figo với giá năm mươi sáu triệu đô-la không?” Hắn cố phân bua về điều đã thu hút sự chú ý của hắn hơn cuộc đối thoại bên bàn.
“Thế thì hơi quá đà, phải không?” tôi trả lời, giọng pha chút ngạc nhiên.
Itamar nhướn mắt lên và nhìn Jerome vẻ không đồng tình.
“Chúng ta đang nói về một điều rất thú vị, và đây là cái đã khiến cậu mất tập trung hả? Một cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha kiếm được hàng triệu đô-la chỉ vì hắn ta biết cách đá một quả bóng sao? Niềm ham học hỏi tri thức của cậu nằm ở đâu vậy?”
Jerome cười toét đến tận mang tai. “Itamar à! Cậu biết Louis Figo là người Bồ Đào Nha cơ đấy! Tớ sốc nặng rồi!”
Itamar liếc mắt nhìn lại và cười ngượng nghịu. “Tớ tình cờ xem một chút hồi Euro 2000,” cậu ta thú nhận. Đến tôi còn phải ngạc nhiên vì điều này. Tôi không bao giờ nghĩ Itamar có thể xem một trận bóng đá; cậu ta lúc nào cũng lớn tiếng phản đối thể thao.
“Điều quan trọng ở đây là,” Itamar nối lại dòng suy nghĩ vừa bị đứt đoạn của mình trong khi rút một trang ra khỏi đống giấy tờ, “người Do Thái lúc nào cũng thích cái tiếng tăm hơi quá cường điệu đó về sức mạnh và trí tuệ của mình. Tiếng tăm này bắt nguồn từ rất nhiều thứ – nỗi sợ hãi, lòng đố kị, sự thù ghét và, thật đáng ngạc nhiên, cả các số liệu thống kê thực tế nữa, cái này tớ sẽ cho các cậu xem ngay đây.” Cậu ta lấy ra một trang khác và xem xét nó. “Kết luận đầu tiên tớ rút ra được về bí ẩn này đi liền với con số những người Do Thái nổi tiếng trên thế giới. Các cậu cứ thử nghĩ mà xem, những cái tên Do Thái luôn nằm trên đầu các danh sách ở hầu hết mọi lĩnh vực – những cái tên có ảnh hưởng đến toàn nhân loại: Moses, Maimonides, Spinoza, Sigmund Freud, Albert Einstein. Thậm chí cả Karl Marx và chúa Jesus cũng là người Do Thái.
“Tớ có cả một bản danh sách những người Do Thái nổi tiếng và quyền lực nhất trong các lĩnh vực khác nhau,” Itamar tiếp tục. “Trong văn học chẳng hạn – Shai Agnon, Shalom Aleichem, Isaac Bashevis Singer, Franz Kafka, Isaac Asimov, Joseph Heller, Philip Roth, Herman Wouk, Harold Robbins. Tất cả đều là người Do Thái.”
“Còn nhạc cổ điển nữa – Yascha Heifetz, Daniel Burnbaum, Isaac Stern, Arthur Rubinstein, còn nhiều nhiều nữa…” cậu ta lật lật qua các trang giấy.
“Còn cả một loạt những người hoạt động trong ngành giải trí này. Barbara Streisand, Mandy Patinkin, Billy Joel, Simon & Garfunkel, Paul Anka, Jerry Seinfeld, Jackie Mason, Marcel Marceau , – diễn viên kịch câm người Pháp, Larry King, ảo thuật gia David Copperfield, và thậm chí cả William Shatner và Leonard Nimoy, thường được biết đến dưới cái tên Thuyền trưởng Kirk và Ngài Spock trong Star Trek.”
“David Copperfield là người Do Thái hả?” Jerome ngạc nhiên hỏi. “Mẹ tớ sẽ lăn đùng ra chết mất nếu cụ biết điều này.”
“Trong ngành công nghiệp điện ảnh thì tràn ngập người Do Thái,” Itamar lại tiếp tục, một lần nữa phớt lờ câu nhận xét nho nhỏ của Jerome. “Các cậu có biết diễn viên nào người Do Thái không?”
“Có chứ, làm gì có ai không biết?” tôi trả lời. “Woody Allen, anh em nhà Marx, Billy Crystal…”
“Cậu nói đúng.” Itamar lại lục tung đống giấy tờ. “Còn có Steven SpeilbergSpielberg, dĩ nhiên rồi, Bette Midler, Harrison Ford, Mel Brooks…”
“Frankeinstein,” Jerome lại xen vào mà mắt vẫn dán vào tờ báo.
Itamar nhìn chằm chằm vào hắn, vẻ sững sờ tột độ. “Frankeinstein hả?!”
“Phải, đó là một cái tên Do Thái mà, chẳng phải sao?” Jerome cười toe toét, cuối cùng cũng nhấc mắt ra khỏi tờ báo một lát.
“Nói thế thì cũng có khác gì bảo Gấu Yogi hay Pokemon là người Do Thái vậy,” tôi đùa.
“Cậu nói cái quái gì thế?” hắn ra thế đề phòng. “Ai mà chả biết Pokemon là của Nhật. Cậu cứ nhìn tên bọn nó xem: Pikachu này, Jigglypuff này, Butterfree này… những cái tên truyền thống của Nhật từ thời nhà Minh đấy.”
“Nhà Minh là ở Trung Quốc chứ,” tôi sửa lại lời hắn.
“Còn về kinh doanh thì sao?” Itamar chẳng thèm để ý gì đến cuộc tranh luận bên lề của chúng tôi và quay trở lại với chủ đề chính. “Có gia đình Rothchild, Reichman, Bronfman, Estee-Lauder, Max Factor, George Soros, Ralph Lauren, Levi Strauss, Ben Cohen và Jerry Greenfield (chủ của hãng kem ‘Ben and Jerry’), Adam Citroen (trong hãng xe của Pháp)… Nói cách khác, danh sách này dài lắm.”
“Kissinger là người Do Thái,” tôi thốt ra.
“Chính xác,” Itamar xác nhận. “Về chính trị…” Cậu ta đảo mắt vào những trang giấy. “Phải, có Kissinger, Disreali, Thủ tướng Áo Bruno Kreisky, Thủ tưởng Pháp Pierre Mendes-France, Thủ tướng Na Uy Grew Brondenvald… và danh sách này vẫn còn nữa,” cậu ta kết luận.
“Gấu Yogi là Ấn Độ, tớ nghĩ thế,” Jerome chia sẻ điều đang làm đầu óc hắn bận tâm. “Nó xuất phát từ yoga. Trong tiếng Sanskrirt, tên của nó có nghĩa là ‘chú gấu bay.’” Hắn mỉm cười có vẻ thỏa mãn.
Cô bồi bàn quay lại và mang cho chúng tôi những thứ chúng tôi đã gọi, cẩn thận đặt những chiếc cốc ở giữa bàn.
“Vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, Do Thái có lẽ là dân tộc giàu có nhất nếu tính đến tài năng,” tôi kết lại. “Với danh sách những người Do Thái xuất chúng như thế, thảo nào mới sinh ra điều bí ẩn đó. Những cái tên Do Thái luôn đứng đầu mọi thứ.”
“Hoàn toàn sai,” Itamar khiến tôi ngạc nhiên bằng câu trả lời cụt lủn của cậu ta. “Danh sách này là một thứ ảo tưởng, nó dẫn người ta đến những kết luận sai lầm.” Cậu ta đặt lại những tờ giấy lên bàn và đưa mắt nhìn chúng tôi. “Các cậu có biết Newton, Copernic, Mahatma Gandhi, Leonardo da Vinci, Michelangelo, Abraham Lincoln and Muhammed có điểm gì chung không?” cậu ta hỏi.
“Tất cả đều là đường một chiều ở London,” Jerome nhận xét hài hước.
“Chẳng ai trong số họ là người Do Thái,” tôi nêu ý kiến, nhận ra điều mà Itamar đang dẫn dắt chúng tôi.
“Chẳng ai trong số họ là người Do Thái,” cậu ta nhắc lại. “Nhưng, mỗi người trong số họ đều để lại dấu ấn đối với thế giới, không hề nhỏ hơn so với bất cứ ai khác trong lĩnh vực của mình. Vậy danh sách này và danh sách kia có gì khác nhau?”
Jerome cuối cùng cũng bỏ tờ báo xuống khi tôi và hắn cùng đợi câu trả lời sắp tới.
“Không đi quá sâu vào vấn đề này,” Itamar bắt đầu, giải phóng chúng tôi khỏi cảnh chờ đợi, “người ta biết đến một người Do Thái có tài không chỉ vì những thành tựu của người đó mà còn vì thực tế rằng anh ta cũng là một người Do Thái. Tớ nhớ đã từng đọc ở đâu đó rằng người ta đã hỏi nhà văn Saul Bellow rằng ông ấy cảm thấy thế nào khi là một người Do Thái và ông đã trả lời bằng một câu châm biếm đại loại là, ‘tôi biết mình là một người Do Thái, và mình là một người Mỹ, và mình là một nhà văn. Tuy vậy, tôi còn là một fan nhiệt thành của môn khúc côn cầu, một thực tế mà chưa ai nhắc tới bao giờ.’ Nói cách khác, những người Do Thái tài năng nổi bật bởi vì thực tế họ là người Do Thái. Lấy ví dụ chẳng hạn, chẳng ai lại đi chỉ vào Stephen Hawkings và bảo, ‘Nhìn một thiên tài người Công giáo này!’ Thực tế rằng ông ấy là người Công giáo không hề liên quan đến những khả năng của ông ấy, điều đó hoàn toàn khác với những nhận thức của mọi người về người Do Thái.”
“Đúng vậy,” Jerome mỉm cười đồng tình.
“Điều quan trọng nhất,” Itamar tiếp tục, “là người Do Thái ‘được’ PR tốt hơn và nhận được sự chú ý đặc biệt bởi vì bản chất Do Thái của họ, chứ không phải lúc nào cũng tương xứng với khả năng thực sự của họ trong đám đông. Đây là một trong những lý do làm lan truyền bí ẩn đó.”
“Cậu nói ‘khả năng thực sự của họ trong đám đông’ nghĩa là sao?” tôi hỏi.
“Đơn giản thế này nhé,” cậu ta đáp lời, “cứ thử hỏi một người Mỹ hay một người châu Âu bình thường xem trên thế giới có bao nhiêu người Do Thái và họ chiếm bao nhiêu phần trăm dân số thế giới đi, chắc chắc cậu sẽ nhận được câu trả lời là trong khoảng vài trăm triệu người, độ từ 15% đến 50% dân số thế giới,” cậu ta giải thích.
“Làm gì có chuyện, không thể đến 50% được. Nói thế thì hơi quá, tớ thì nghĩ người Do Thái chiếm khoảng 10% đến 15% dân số thế giới,” Jerome ước tính.
“Đấy, vấn đề là ở chỗ đó đấy,” Itamar cười hả hê. “Ngay đến chúng ta còn không nhận thức được!”
Itamar rút một tờ giấy khác ra, tờ này trên đầu trang có ghi chữ “Số liệu.” “Số liệu chính xác của năm 2000,” cậu ta đọc to, “những ông bạn thân mến của tôi ạ, tổng số người sống trên hành tinh này là sáu tỉ người, mười ba triệu trong số đó là người Do Thái. Thế đấy! Chúng ta thực chất đang nói đến 0,25% dân số thế giới thôi. Không phải 10%, cũng chẳng phải 15%. Chỉ có một phần tư của một phần trăm thôi! Chỉ có vậy. Đó là tất cả số người Do Thái sống trên hành tinh này.”
“Thú vị thật,” tôi lẩm bẩm.
“Thật đáng kinh ngạc,” Jerome reo lên. “Cậu có tính đến những nhà du hành vũ trụ người Nga gốc Do Thái đang ở trên trạm vũ trụ của Nga không đấy?”
“Có chứ, bao gồm cả cháu gái tớ mới sinh tuần vừa rồi nữa ấy chứ,” Itamar cười rạng rỡ đầy tự hào.
“Bỏ qua Jerry Springer và Geraldo Rivera đi,” Jerome buột miệng mỉa mai. “Hai người đó không được tính.” Itamar bới đống giấy và lôi ra một tờ màu vàng ghi chi chít những con số.
“Trước khi cho rằng điều bí ẩn này thực ra chỉ là một ảo tưởng sai lầm, để tớ cho các cậu biết một điều ngạc nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà điều bí ẩn to lớn này được dựng lên xung quanh bộ óc và sự thông minh của người Do Thái đâu. Những số liệu thống kê đã cho thấy rằng mặc dù số lượng ít nhưng tài năng của họ lại tỉ lệ nghịch với số lượng ít ỏi đó.”
Itamar đưa cho chúng tôi mỗi người một bản phô-tô trang giấy mà cậu ta đang cầm.
“Trong năm tập của bộ sách đồ sộ Toàn cảnh lịch sử khoa học, George Sarton đã miêu tả sự phát triển của khoa học xuyên suốt thế kỷ XIV,” Itamar bắt đầu như kiểu lời mở cho một buổi lên lớp. “Trong phần nói về thời Trung đại, Sarton không chỉ nghiên cứu sự phát triển khoa học và tri thức trong thời kỳ này mà ông còn so sánh những thành tựu của những dân tộc khác nhau. Nghiên cứu của ông đã đề cập đến rất nhiều lĩnh vực bao gồm có giáo dục, công nghệ, toán học, vật lý học, hóa học, y học…
“Thưa giáo sư,” Jerome ngắt lời, “vào vấn đề chính đi thôi.”
“Vấn đề chính,” Itamar hơi ngượng – “17,6% trong số những nhà khoa học hàng đầu của thời Trung đại là người Do Thái,” cậu ta kết luận.
“Và vào thời kỳ đó, họ chiếm bao nhiêu phần trăm dân số nói chung?” tôi hỏi đầy vẻ tự hào.
“Một phần trăm,” Itamar trả lời. “Nói cách khác, số nhà khoa học người Do Thái nhiều gấp mười tám lần con số người ta thường nghĩ, đấy là nói về mặt số liệu. Thực tế thậm chí còn thú vị hơn nếu chúng ta so sánh thành tựu của những nhà khoa học người Do Thái tại các quốc gia riêng rẽ. Như Tây Ban Nha chẳng hạn,” cậu ta tiếp tục những lý luận của mình. “41% trong số các nhà khoa học hàng đầu của Tây Ban Nha thời Trung đại là người Do Thái, mặc dù người Do Thái thực tế chỉ chiếm khoảng 2,7% dân số. Số nhà khoa học Do Thái cao gấp hai mươi lăm lần số nhà khoa học người Tây Ban Nha không theo đạo Do Thái.”
“Thời hoàng kim của Do Thái,” tôi nhớ lại tên của thời kỳ lịch sử này.
Itamar ngừng một chút để suy nghĩ rồi tiếp tục. “Ở đây,” cậu ta ra hiệu về phía Jerome, “sao cậu không đọc to những con số này lên và cho biết cậu nghĩ gì về chúng nhỉ.”
Jerome cầm lấy tờ giấy và bắt đầu đọc.
“Khoảng những năm từ 1819-1835, người Do Thái nắm giữ 20% nền kinh tế của Đức mặc dù họ chỉ chiếm chưa đầy 1% dân số.”
“Vào năm 1952, 24% số sinh viên theo học tại trường Đại học Harvard là người Do Thái, tại Cornell là 23% và Princeton là 20% cho dù người Do Thái chiếm chưa đến 3% dân số.”
“Quá nhiều phần trăm,” Jerome có vẻ hơi bực mình.
“Đọc tiếp đi,” Itamar giục.
“Một phần ba số triệu phú Mỹ là người Do Thái.”
“20% số giáo sư tại các trường đại học hàng đầu của Mỹ là người Do Thái.”
“40% số luật sư làm việc trong các hãng luật hàng đầu của Mỹ là… các cậu không đoán được đâu. Để tớ gợi ý nhé. Họ không theo đạo Phật, và họ không theo chủ nghĩa vô thần.”
Jerome phẩy tay thả mảnh giấy rơi xuống bàn, quay tròn.
“Vậy,” Itamar hỏi, “các cậu có thể rút ra kết luận gì từ những điều này? Và cố gắng nghiêm túc đi, một lần này thôi.”
“Kết luận về cái gì?” Jerome mang một vẻ mặt ngạc nhiên. “Chuyện gì vừa mới xảy ra à? Tớ đang ở đâu vậy?” Hắn nhìn quanh mình như kiểu vừa mới tỉnh dậy sau một giấc mơ giữa ban ngày. Hắn lại nhặt tờ giấy lên và liếc nhanh qua những dòng chữ ghi trên đó.
“À… mình nghĩ,” hắn nói to thành lời suy nghĩ của mình, “tài liệu trước mặt chúng ta cho thấy rằng… để xem nào… hừm… mình biết.” Hắn ngồi thẳng người lại. “Nó chỉ rõ ra rằng 45% những người nông dân trồng khoai tây ở Idaho thích đọc Harry Potter, 17% số người New York không bao giờ đi nghỉ, 22% số người Ailen uống Guinness và 115% dân số Pháp là những kẻ hợm hĩnh – rắc rối đây… và, mặt khác, ‘người Do Thái, Ach, diese Juden!” Hắn nói bằng giọng mũi, bắt chước Charlie Chaplin trong bộ phim Tên độc tài. “Người Do Thái, nếu để so sánh, là những người cực kỳ thông minh, thành đạt, xinh đẹp, mạnh mẽ và (khá phát triển, nếu nói về mặt sinh lý) – có cần thiết không nhỉ? Hai cậu muốn gì ở tớ nào?” hắn cười toét vẻ xấu hổ khi mắt đảo hết từ bên này sang bên kia giữa hai chúng tôi.
“Mà nhân tiện,” hắn tiếp, “những số liệu này chứng tỏ, không một chút hoài nghi nào, rằng tớ không phải là người Do Thái. Ở đây chẳng có chỗ nào giải thích tại sao người Do Thái nào cũng là tỉ phú với chỉ số IQ lên đến 3000 trong khi tớ lại chỉ sống trong một căn hộ hai phòng chật chội, chỉ có bằng trung học và lái một chiếc Toyota đời 82.”
Lôi dưới đống giấy tờ trên bàn ra tờ báo của Jerome, tôi đưa cho hắn. “Thôi, đọc tiếp đi, anh bạn,” tôi gợi ý.
“Tớ đọc hết rồi.”
“Thì xem lại bài báo về Figo ấy,” tôi trấn an. “Tớ chắc chắn là cậu chưa xem kỹ đâu, và sẽ thật đáng tiếc nếu bỏ qua một thông tin giá trị như thế trong biển kiến thức kỳ vĩ của cậu.”
Jerome mở tờ báo ra và bắt đầu đọc. “Đội đấu kiếm của Israel luyện tập cả tuần tại Đan Mạch.”
“Được đấy chứ,” tôi nhận xét, “cậu tìm thấy ngay một bài báo hấp dẫn để đọc đấy còn gì.”
“Ít nhất thì trong đó cũng không có bất cứ số liệu phần trăm nào,” hắn thở ra vẻ mệt mỏi.
Itamar mỉm cười và gật đầu đồng tình. Cậu ta ra hiệu cho cô bé bồi bàn, cô bé đang hối hả bước về phía bàn chúng tôi.
“Cho tôi một Coca-Cola,” cậu ta gọi. Cô bé bồi bàn gật đầu và liếc mắt về phía tôi.
“Hai anh có dùng gì thêm không ạ?” cô bé hỏi tôi và Jerome.
“Ừm, tôi thì không,” tôi trả lời.
“Heineken,” Jerome hào hứng. “Heineken không phải Do Thái, mình hy vọng thế.”
Cô bé bồi bàn dọn mấy cái tách của chúng tôi và chúng tôi nhìn cô bước đi. Khi cô đã vào trong bếp, Itamar vươn vai, duỗi người, còn Jerome thì quay trở lại với tờ báo.
Đột nhiên, Itamar nhặt chiếc túi lên và sục sạo khắp một lượt. “Đâu rồi nhỉ?” cậu ta lẩm bẩm. “Đây rồi.” Cậu ta cầm lên một tờ giấy khác. “Cậu có muốn xem một số liệu ấn tượng nữa không?” Cậu ta hướng câu hỏi về phía tôi.
“Chắc chắn là có rồi.”
“Giải Nobel vì Hòa bình.”
“Ừ, nó làm sao?”
“Giải này được trao hàng năm cho những người thể hiện tài năng kiệt xuất so với phần còn lại của thế giới, đúng không?”
“Theo tớ hiểu thì là thế,” tôi đồng tình.
“Vậy, nếu chúng ta nói đến đội ngũ những nhà trí thức cấp cao, những người đã có nhiều cống hiến giá trị cho nhân loại thì chúng ta nên xem bao nhiêu người Do Thái đã được nhận giải này, cậu nghĩ có đúng không?”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói lớn.
Cậu ta chỉ vào một dòng hơi mờ trên trang giấy. “270 người đã được nhận giải này kể từ khi nó được bắt đầu vào năm 1901. Cậu nghĩ có bao nhiêu người trong số đó là người Do Thái?” Cậu ta đưa chiếc tách về một bên miệng để thì thầm câu trả lời với tôi mà không để Jerome nghe thấy. “102. Tức là 34% đấy – thực ra là 37%.”
“Thật đáng ngạc nhiên, đúng không?” cậu ta buột miệng kêu to làm Jerome giật mình và nhìn lên.
“Cái gì đáng ngạc nhiên thế?” hắn hỏi, giọng hắn mang chút vẻ hờn dỗi vì bị bỏ ngoài cuộc.
“Cậu không tin được đâu!” tôi thốt lên với giọng nhiệt tình giả tạo.
Itamar gật đầu ngưỡng mộ. “Cậu không thích những thứ như thế này mà, đúng không?” cậu ta tiếp.
“Các cậu đang nói về cái gì thế?” Jerome bắt đầu mất kiên nhẫn.
“Bao giờ đội đấu kiếm sẽ trở về từ Đan Mạch thế?” tôi hỏi Jerome. Hắn làm mặt giận, thừa biết rằng chúng tôi chỉ trêu hắn tí thôi.
“Giải Nobel Hòa bình. Hóa ra đã có rất nhiều người Do Thái được trao giải thưởng cao quý này. Và thêm vào đó là sức ép mà một người được nhận giải phải chịu,” cậu ta lại quay sang phía tôi, “ở đây còn có một mảnh ghép khác nữa.”
“Chưa kể đến,” Itamar lại bới trong đống giấy tờ của mình, “có một lĩnh vực mà những cái tên Do Thái nổi trội hơn bất cứ lĩnh vực nào khác. Tớ đang nói đến một lĩnh vực mà có lẽ là có đóng góp lớn nhất vào điều bí ẩn mà ta đang tìm hiểu… ngành truyền thông đại chúng Mỹ,” cậu ta thốt lên, giọng đầy chất kịch.
“Để ý mà xem,” cậu ta lại cầm một tờ giấy khác trong tay, “hầu hết các trường quay lớn nhất ở Hollywood – Disney, Touchstone, Universal, MCA, Caravan, Dreamworks… – được điều hành vởi những người như Michael Eisner, David Geffen, Steven SpeilbergSpielberg, Jeffrey Katzenburg, Edgar Bronfmann, và Arnon Milchin, đấy mới chỉ là kể một số thôi. Ba mạng truyền hình lớn, ABC, NBC và CBS được điều hành bởi những người Do Thái. Những ấn phẩm tin tức như Time, Newsweek, The Washington Post, The New York Times, and The Wall Street Journal thuộc sở hữu của người Do Thái, với những biên tập viên và phụ trách chuyên trang người Do Thái.
“Người Do Thái cũng điều hành những công ty thu âm hàng đầu, những đài phát thanh, nhà xuất bản lớn. Danh sách vẫn còn dài lắm. Nói tóm lại, kể từ khi thế giới này trở thành một ngôi làng toàn cầu nhỏ bé nằm dưới ảnh hưởng của ngành truyền thông – kẻ thống trị mọi suy nghĩ và khía cạnh của cuộc sống con người, dường như người Do Thái và ảnh hưởng của họ đã có mặt ở mọi nơi.” Cậu ta kết thúc bài phát biểu bằng một nụ cười giả tạo rộng đến mang tai.
“Tớ không muốn nói cho cậu biết trông cậu giống cái gì đâu,” tôi lẩm bẩm.
Itamar mở to mắt. “Nói đi,” cậu ta gật đầu khích lệ.
“Cậu cứ như một kẻ cực đoan chính trị ấy,” tôi giễu. “Điều cậu vừa nói giống như kiểu tuyên truyền bài Do Thái vậy.”
“Chính xác!” Itamar reo lên và đập tay xuống mặt bàn. “Tớ lấy những thông tin này trên trang web bài Do Thái mà.”
“Và mục đích của cái này là…?”
“Chủ nghĩa bài Do Thái là một trong những lời giải thích mang ý nghĩa tiêu cực đằng sau bí ẩn này,” cậu ta giải thích, giọng đầy hân hoan.
“Cứ cho là những số liệu thống kê chúng ta vừa điểm qua là đúng đi. Chúng ta chẳng thể làm gì để thay đổi điều đó được, nhưng thực tế đúng là có rất nhiều người Do Thái nắm giữ những vị trí quan trọng trong ngành truyền thông Mỹ. Đó là sự thật! Vấn đề thực chất ở đây là những tổ chức bài Do Thái xuyên tạc những thực tế như vậy vì mục đích riêng của họ,” cậu ta nói giọng chán nản.
“Trong lịch sử, những người bài Do Thái đều luôn thành công trong việc truyền bá vào đầu óc công chúng suy nghĩ rằng người Do Thái là những người nguy hiểm. Chẳng thiếu gì những học thuyết tuyên bố rằng người Do Thái mang tham vọng làm bá chủ thế giới. Khả năng lập luận của người Do Thái là vũ khí duy nhất chống lại được những kẻ thù ghét mình,” cậu ta khẳng định.
“Sự thật là,” tôi nhẹ nhàng thay đổi quan điểm của mình, “khi thấy quá nhiều người Do Thái nắm giữ hầu hết những vị trí quan trọng nhất trong ngành truyền thông, người ta có thể cho rằng người Do Thái có ảnh hưởng quá lớn.”
“Tớ không nghĩ thế.”
“Tại sao lại không chứ? Nhìn mà xem. Truyền thông là một thứ máy tẩy não. Người Do Thái kiểm soát ngành truyền thông. Còn kết luận nào logic hơn nữa chứ? Người Do Thái thực sự kiểm soát suy nghĩ của chúng ta! Cậu biết điều tớ nói là đúng mà,” tôi nhoài về phía cậu ta với một vẻ mặt tự mãn.
Itamar giơ tay lên và vẫy về một bên, như kiểu định gạt đi những nhận xét của tôi, và lắc đầu không đồng tình.
“Đầu tiên,” cậu ta bắt đầu, “một người giữ quan điểm như thế rõ ràng là ý thức về lòng tự trọng rất tệ.” Cậu ta nhìn chằm chằm vào tôi, mắt mở to.
“Thứ hai, đã bao giờ cậu xem một bộ phim hay một chương trình TV, kiểu chương trình Do Thái, mà cảm thấy chương trình đó đang cố gắng tẩy não người xem bằng những đức tin Do Thái chưa, dù là rõ ràng hay tinh vi đi chăng nữa? Chẳng hạn, tớ không nhớ là Người ngoài hành tinh (E.T) có cảnh nào miêu tả lễ minyan(8) buổi sáng dù rằng ‘cha đẻ’ của nó là Stephen SpeilbergSpielberg, một người Do Thái. Tớ cũng chưa thấy có lần nào Clint Eastwood hôn lên chiếc mezuzah(9) trên cửa mỗi lần anh ta bước vào phòng, hay cầu nguyện trước khi nhảy lên ngựa và phi nước đại trong bóng hoàng hôn hết.” Một nụ cười rộng ngoác nở trên khuôn mặt cậu ta.
“Thực ra, tớ nhớ một lần trong phim Phòng cấp cứu (E.R) George Clooney đã quấn bùa da lên cánh tay bệnh nhân,” Jerome nhảy vào. “…nhưng, giờ nghĩ lại, hình như đó là cái băng đo huyết áp thì phải,” hắn nhanh chóng tự sửa. “Trông chúng giống nhau lắm, các cậu biết mà.”
Itamar duỗi chân và bắt đầu gõ nhịp ngón tay lên mặt bàn.
“Được rồi, vậy có thể người Do Thái kiểm soát Hollywood, nhưng đạo Do Thái, hay tư tưởng Do Thái thì không,” cậu ta kết luận.
“Cậu đi mà nói điều đó với bọn 3K(10) ấy,” Jerome nói đúng câu tôi đang định nói khi hắn đứng lên khỏi bàn.
“Tớ đã thử rồi nhưng thính giác của những kẻ mũ trùm trắng đó có vẻ không được tốt lắm.”
“Xin lỗi, các quý ông,” Jerome nói và đi về phía nhà vệ sinh.
Itamar sắp xếp lại đống giấy tờ cho gọn gàng và đặt chúng trên bàn, ngay trước mặt tôi. “Cầm đi,” cậu ta nói. “Những thứ này dành cho chương đầu tiên.”
Tôi cầm lấy mớ giấy tờ và bỏ vào chiếc túi nhựa đựng cả ổ bánh mỳ đen vừa mới nướng mà sáng đó tôi đã mang theo.
“Nói tóm lại, bí ẩn đã được phổ biến dựa trên ba điểm cơ bản,” cậu ta bắt đầu thiết lập kết luận của mình.
“Những cái tên Do Thái nổi bật chiếm giữ nhiều vị trí quan trọng trong những lĩnh vực khác nhau, các số liệu thống kê cho thấy những thành công vĩ đại mà dân tộc nhỏ bé này đã đạt được, và cuối cùng là chủ nghĩa bài Do Thái.”
Tôi nhanh chóng ghi vội mọi điều cậu ta nói lên chiếc khăn giấy.
“Nhân tiện, điều thú vị ở đây là,” cậu ta nói thêm, “những người không theo đạo Do Thái có xu hướng gắn thành công của người Do Thái với sự sắc sảo trong trí tuệ của họ.”
“Nhưng điều đó cũng có lý mà, đúng không?” tôi nói to điều mình đang băn khoăn.
“Dù thế, nhưng vẫn còn những nguyên nhân khác nữa. Sự cần cù, động cơ, sự may mắn. Tuy vậy, rõ ràng trong trường hợp của người Do Thái, sự thành công của họ có thể coi là gắn liền với trí tuệ. Trong suốt lịch sử của mình, có quá nhiều điều chống lại họ, và chắc chắn là may mắn không hề đứng về phía họ. Cậu có nhớ cậu đã hỏi là liệu người Do Thái có thông minh hơn không? Câu trả lời là ‘Không.’ Họ không thông minh hơn. Nhưng rõ ràng, họ sử dụng trí thông minh của mình theo một cách khác! Và đó sẽ là bước tiếp theo trong cuộc tìm hiểu của chúng ta: những kỹ năng và phương pháp độc đáo, cơ bản mà người Do Thái đã sử dụng để phát triển trí tuệ.”
Itamar lôi trong túi áo sơ mi ra một tập giấy nhỏ, lật qua vài trang và ấn xuống để tập giấy mở đúng trang cậu ta muốn.
“Chúng ta sẽ xem xét điều này,” cậu ta mỉm cười.
“Xem xét cái gì cơ?” tôi thấy ngạc nhiên vì Itamar có thể bị thu hút bởi phần tiếp theo của cuộc thảo luận dễ dàng đến thế.
“Những nguyên tắc cơ bản.”
Tôi nheo mắt cố bắt kịp dòng suy nghĩ của cậu ta.
“Trước khi nói đến những phương pháp,” cậu ta lặp lại, “ta cần phải vạch ra một số nguyên tắc cơ bản.” Cậu ta ngẩng đầu nhìn tôi.
Tôi chậm rãi nhìn lại cậu ta, chờ đợi một lời giải thích mà biết sẽ chẳng bao giờ có. “Nói lại đi.” Tôi bắt đầu thấy khó chịu. “Có thể đến lần thứ ba tớ sẽ hiểu.”
“Tại sao?” Cậu ta băn khoăn. “Khi cậu mua một trò chơi điện tử trên máy tính,” cậu ta lập luận, “trước khi học tất cả những thứ về mặt kỹ thuật, những thủ thuật nho nhỏ và những thiết lập cậu có thể thay đổi để cải thiện khả năng của nó, đầu tiên cậu phải hiểu được những nguyên tắc cơ bản đã, đúng không?”
Lại một sự im lặng nữa bao trùm không khí khi tôi cố gắng hiểu những điều cậu ta nói, nhưng bất thành. Nếu Jerome là ví dụ điển hình của một người hơi chậm hiểu thì Itamar lại là kiểu người luôn bỏ qua những giải thích cần thiết. Cậu ta luôn cho rằng người khác có thể tự mình hiểu ra.
“Tất cả những điều này liên quan thế nào tới nhau,” tôi hỏi, không để lộ ra là thực tế tôi cũng chẳng hiểu chính xác ví dụ của cậu ta về trò chơi trên máy tính.
“Chắc chắn là phải có những đặc điểm hay hành vi mang tính đặc trưng, chỉ có duy nhất ở người Do Thái,” cậu ta ngẫm nghĩ. “Một điều gì đó cho họ những lợi thế hơn những dân tộc khác.”
“Có thể, nhưng làm thế quái nào mà tớ biết được chứ?”
“Cậu không cần phải biết. Thế thì chúng ta mới ngồi đây để nói về điều đó chứ,” cậu ta trả lời.
Chúng tôi ngồi im lặng một lúc cho đến khi tôi không thể chịu nổi nữa.
“Tớ chẳng hiểu gì hết. Không một chút gì,” tôi căng thẳng.
Đúng lúc đó, Jerome trở về từ nhà vệ sinh và ngồi xuống ghế. “Đang bàn chuyện gì vậy?”
“Bọn tớ đang cố tìm hiểu xem điều gì khiến cho người Do Thái khác với những dân tộc khác, để tìm ra một vài manh mối hoặc những nguyên nhân dẫn đến sự thông minh và trí tuệ đặc biệt của họ,” Itamar giải thích.
Jerome vỗ tay, đan những ngón tay vào nhau và gật gù cười tự mãn. “Lễ bris(11),” hắn tuyên bố mà không hề chớp mắt.
“Hiểu rồi.” Itamar chậm rãi ngẩng đầu lên. “Thế cái lễ đó thì có liên quan gì đến bộ óc chứ?”
Jerome nhắm mắt lại. Trông hắn cứ như đang chìm trong suy nghĩ để tìm kiếm câu trả lời vậy. Đột nhiên, hắn mở mắt và bắt đầu gật gù đầy quả quyết. “Cũng tương tự như những người bị tật nguyền vậy,” hắn khẳng định. “Khi một giác quan bị tổn thương, cơ thể sẽ đền bù lại bằng việc phát triển một giác quan khác mạnh mẽ hơn. Như người mù chẳng hạn, thính giác của họ phát triển hơn người bình thường rất nhiều. Đối với người Do Thái, cơ quan sinh dục của họ bị tổn thương nhẹ nên trí não của họ được đền bù.”
Chúng tôi cùng ngồi im lặng. Cả Itamar và tôi đều biết hắn đang giễu cợt chúng tôi nhưng không phải ngày nào hắn cũng… sáng láng thế.
“Vậy cậu giải thích đi, nếu được, là tại sao cậu cũng trải qua quy trình tương tự như thế mà lại chẳng được gì từ sự đền bù tự nhiên đó?” Itamar thách thức.
Và trong vòng 15 phút sau đó, chúng tôi tham gia vào cuộc thảo luận ngớ ngẩn về cơ thể con người, việc buôn bán quần áo của Jerome và, dĩ nhiên, cả đội tuyển đấu kiếm Israel nữa – một chủ đề mà từ trước đến giờ chưa từng có mặt trong những cuộc thảo luận của chúng tôi. Chúng tôi gọi thêm một lượt cà phê nữa, và đến khoảng 12 giờ 30 phút, chúng tôi quyết định dừng.
Trên đường đi ra, Itamar bỗng nhiên nhớ ra rằng chúng tôi chưa xác định nguyên tắc đầu tiên đằng sau trí tuệ Do Thái. “Ngoài lễ bris ra,” hắn khởi xướng, “hai cậu nghĩ điều gì thực sự khiến người Do Thái đặc biệt?”
“Họ đang đói,” tôi khẳng định, nghe tiếng bụng réo ùng ục khi giờ ăn trưa đang sắp đến. “Tuần sau chúng ta sẽ tìm hiểu sau.”
“Ôi, thôi nào,” cậu ta nằn nì. “Không cần phải là sáng kiến gì vĩ đại lắm đâu. Có lẽ là một điều gì đó mà người Do Thái làm khác những dân tộc khác. Có thể là cái gì đó mà họ sáng tạo ra. Một cái gì đó khác, đi nào?”
“Họ phát minh ra bánh vòng,” Jerome xen vào, thể hiện sự hưởng ứng với cơn đói của tôi.
“Không, nghiêm túc đấy.”
“Họ sáng tạo ra Chúa.” Fabio không biết từ chỗ nào bỗng nhiên xuất hiện.
Cả ba chúng tôi nhìn anh ta chằm chằm và băn khoăn không hiểu anh ta đột nhiên đến từ chỗ nào và làm sao mà anh ta biết chúng tôi nói về chuyện gì. Anh ta đọc được điều chúng tôi đang nghĩ và quay qua Itamar, “Anh muốn biết người Do Thái sáng tạo ra cái gì và nguồn gốc trí tuệ của họ, đúng không?” anh ta nói bằng giọng Achentina.
“Ờ, đúng,” Itamar lẩm bẩm, vẫn còn kinh ngạc.
“Đó là điều mà ba người thảo luận cả sáng nay, đúng không?”
Ba chúng tôi cùng gật đầu như những bọn trẻ con nghịch dại vừa bị bắt quả tang tại trận. Ở một khía cạnh nào đó, tôi còn cảm thấy hơi xấu hổ. Chúng tôi đã không nói chuyện kiểu những cuộc nói chuyện mà người ‘bình thường’ hay nói trong lúc uống cà phê sáng thứ sáu. Thậm chí lúc này, nói về đội tuyển đấu kiếm Israel có khi còn không làm tôi xấu hổ bằng.
“Người Do Thái có trí tưởng tượng đặc biệt,” Fabio tiếp tục trong khi tựa người vào chiếc máy tính tiền bên cạnh quầy thu ngân. “Họ phát triển khái niệm về Chúa với hình thức hiện tại. Thời của họ, khái niệm đó không tồn tại. Thời đó, chỉ có các pha-ra-ông và những vị thần nhưng không phải dành cho người Do Thái! Họ có kiểu chúa khác.” Anh ta giơ ngón trỏ lên trời. “Tôi muốn nói với các anh rằng họ đã tạo ra Chúa. Mọi thứ bắt nguồn từ đó.”
Tôi nhìn Itamar và mỉm cười, “Bingo(12)!”
“Bingo!” Itamar cười đáp lại, đầy mãn nguyện.
Jerome ôm lấy hai chúng tôi và hớn hở, “Thế quái nào mà bọn mình lại không nghĩ đến điều này nhỉ? Ai mà nghĩ… người Do Thái lại phát minh ra Bingo chứ!”