Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

1984

Chương 4

Tác giả: George Orwell

Trong quán ăn thấp trần ở tít dưới hầm, đuôi người đợi cơm tiến từng đợt chậm chạp. Căn phòng đã đông nghẹt người và ồn ào điếc tai. Hơi món canh hầm tỏa ra từ chấn song quầy hàng với một mùi chua đanh đanh không át hẳn được hơi rượu Gin Chiến Thắng. Ở phía cuối phòng có một quầy rượu nhỏ chỉ gọn là một lỗ hổng trong tường, nơi đó có thể mua được rượu gin với giá mười xu một hụm lớn.

“Đúng người tôi đang kiếm đây”, có tiếng nói vậy sau lưng Winston.

Anh ngoảnh mặt lại. Đó là Syme, bạn anh, làm việc tại Cục Khảo Cứu. Có lẽ “bạn” không phải là danh từ đúng. Ngày nay không ai có bạn, chỉ có đồng chí thôi: nhưng có những đồng chí mình ưa gần gũi hơn đồng chí khác. Syme là một nhà ngôn ngữ học, một chuyên viên về Ngôn Mới. Thực vậy, anh là một người trong đại đội chuyên gia hiện được giao việc soạn thảo Bản Từ Điển Ngôn Mới Thứ Mười Một. Anh là một người nhỏ bé, nhỏ hơn Winston, có tóc đen và cặp mắt lồi to vừa buồn bã vừa riễu cợt có vẻ như dò xét kỹ càng gương mặt người anh đang nói chuyện với.

“Tôi muốn hỏi liệu anh có dao cạo không”, anh ta nói.

“Không một con nào !”, Winston vội vàng trả lời một cách ngượng ngập. “Tôi đã thử mọi nơi. Không đâu còn dao cạo nữa”.

Ai cũng dò hỏi về dao cạo. Thật ra Winston có hai con mới, được anh nâng niu như của quý. Từ mấy tháng nay có nạn khan hiếm dao cạo. Lúc nào cũng thiếu một nhu yếu phẩm mà các cửa hàng Đảng không cung cấp nổi. Khi thì nút áo, khi thì len dùng để mạng áo, khi thì dây giầy, bây giờ thì dao cạo. Chỉ kiếm được các thức đó, nếu kiếm được, bằng cách lùng lọi lén lút trên thị trường “tự do”.

“Tôi vẫn dùng một con từ sáu tuần nay”, Winston nói dối thêm vào.

Đuôi người giật một bước tiến lên. Khi ngừng tiến, Winston quay mình giáp mặt lại với Syme. Mỗi người nhấc lên một cái mâm bằng kim khí dính mỡ từ một chồng để ở cuối quầy.

“Hôm qua anh có đi xem treo cổ tù nhân không ?” Syme hỏi.

“Lúc đó tôi bận việc”, Winston hờ hững đáp.”Chắc tôi sẽ được xem cảnh ấy trên màn ảnh.”

“Một đại thế không mấy thích đáng”, Syme nói.

Đôi mắt riễu cợt phớt qua mặt Winston. “Tôi biết anh”, đôi mắt hình như nói “Tôi nhìn xuyên qua anh. Tôi rất rõ tại sao anh không đi xem treo cổ mấy tù nhân ấy.” Về một mặt trí tuệ, Syme là một kẻ chính thống độc địa. Anh chàng có thể nói chuyện một cách thích thú hớn hở khó chịu về các cuộc trực thăng oanh tạc làng mạc địch, về những vụ đấu tố và tra khảo tội phạm tư tưởng, về những cuộc hành hình trong Bộ Tình Yêu. Nói chuyện với anh là phần nhiều phải kiếm cách dụ anh lảng xa những đề tài trên, và lôi anh vào những vấn đề kỹ thuật trong Ngôn mới, một sở trường hấp dẫn của anh. Winston khẽ ngoảnh đầu để tránh cặp mắt to xoi mói.

“Màn treo cổ khá ngoạn mục”, Syme ngẫm lại. “Theo tôi nó mất phần hay khi chân họ bị đem buộc vào nhau. Tôi thích xem họ dãy dụa. Và trên hết lúc cuối khi lưỡi họ thè ra, xanh thật là xanh. Loại chi tiết đó kích thích tôi.”

“Xin người sau !”, viên dân đen cầm môi, khoác tạp dề trắng, hét lên.

Winston và Syme đẩy mâm dưới chấn song. Mỗi mâm được chất nhanh với phần cơm quy định — một bát canh hầm hồng xám bằng kim khí, một khúc bánh mì, một vuông phó mát, một chén Cà Phê Chiến Thắng không sữa bằng kim khí, và một thỏi đường tinh.

“Có một bàn trống đằng kia, dưới máy truyền hình”, Syme nói. “Trên đường mình sẽ mua ít gin.”

Rượu gin bán cho họ được rót vào chén không quai. Hai người chen lối qua căn phòng đông người và dọn mâm trên một cái bàn lót kim khí, tại một góc có một vũng nước canh do người đến trước để lại, một thứ nước nham nhở như một bãi mửa. Winston nâng chén gin lên, tập trung can đảm một lúc rồi nốc cạn chất lỏng có vị dầu. Gạt nước mắt xong, anh bỗng cảm thấy đói bụng. Anh bắt đầu nuốt hàng thìa canh, lõm bõm ở trong có vài vuông hồng sốp, chắc hẳn là thịt chi đó. Hai người không ai nói gì trước khi húp hết bát. Từ bàn bên trái Winston, hơi về phía sau lưng anh, có tiếng ai nói nhanh không ngừng, một giọng chói tai như tiếng vịt quạc, the thé giữa tiếng ồn ào bao quanh.

“Từ điển đi đến đâu rồi ?”, Winston nói to để đè tiếng ồn.

“Tà tà vậy thôi”, Syme nói. “Tôi đang soạn tĩnh từ. Mê luôn.”

Mặt anh chàng sáng lên tức thì khi nghe nhắc tới Ngôn Mới. Anh ta đẩy bát sang bên, yểu điệu cầm khẩu bánh mì và miếng phó mát mỗi thứ trên một tay, rồi ngả người qua bàn để có thể nói chuyện mà không phải hét to.

“Bản thứ mười một là bản quyết định,” anh chàng nói. “Chúng tôi đang quy ngôn ngữ vào thể cuối — cái thể sẽ là của nó khi không còn ai nói khác. Khi chúng tôi hoàn thành công việc, những người như anh sẽ phải học lại hết. Tôi dám nói rằng anh nghĩ việc chính của chúng là bịa đặt từ mới. Nhưng không phải thế chút nào ! Chúng tôi hủy chữ, hàng tá, hàng trăm chữ mỗi ngày. Chúng tôi gọt ngôn ngữ tới tận xương. Bản thứ mười một sẽ không chứa một chữ nào có thể trở thành hủ lậu trước năm 2050.”

Anh chàng ngấu nghiến cắn bánh mì, nuốt hai miếng lớn rồi tiếp tục nói với giọng hăng say của kẻ phô trương kiến thức. Gương mặt đen mỏng của anh linh động lên, đôi mắt anh mất vẻ riễu cợt và trở thành gần như mơ màng.

“Việc hủy từ thật là diệu. Cố nhiên thành phần cặn bã lớn là động từ và tĩnh từ, nhưng cũng có cả trăm danh từ bị loại. Không chỉ chữ đồng nghĩa thôi, mà cả chữ phản nghĩa. Vả lại, biện bạch sao được cho một chữ chỉ là đối nghịch của một chữ khác ? Mỗi từ chứa trong chính nó từ nghịch với nó. Ví như “tốt” chẳng hạn. Nếu anh có chữ “tốt”, cần gì phải có chữ “xấu” ? “Không tốt” cũng được chán, — còn hay hơn nữa, vì nó đúng là từ tương phản, trong khi từ kia không được vậy. Lại nữa, nếu anh muốn dùng một hình thức mạnh hơn của “tốt”, lẽ gì mà dùng một tràng từ vô dụng như “tuyệt hảo”, “rực rỡ” này khác ? “Tốt hơn” trùm đủ nghĩa, hay “tốt hơn bội” nếu anh muốn một từ mạnh hơn. Tất nhiên, những từ này đã được dùng rồi, nhưng trong bản Ngôn Mới cuối cùng sẽ không còn từ nào khác. Sau rốt mọi khái niệm tốt xấu sẽ được bao gồm trong có sáu từ — thật ra chỉ trong một từ. Anh có thấy cái diệu của điều đó không, Winston ? Dĩ nhiên, đấy nguyên là ý kiến Bác”, xong rồi anh nói thêm.

Một vẻ nồng nhiệt nhẹ thoáng qua mặt Winston khi Bác được nhắc tới. Tuy nhiên Syme nhận thấy ngay sự thiếu nhiệt thành của bạn.

“Winston, anh không thực thưởng thức Ngôn Mới,” anh chàng gần như buồn bã nói. “Ngay khi viết, anh vẫn nghĩ bằng Ngôn Cũ. Tôi thỉnh thoảng có đọc mấy bài anh viết trong Thời Báo. Bài cũng khá nhưng là văn dịch. Trong tâm anh, anh vẫn thích dùng Ngôn Cũ hơn, với mọi ý dạng mơ hồ vô dụng của nó. Anh không bắt được cái đẹp của sự hủy từ. Anh có biết rằng Ngôn Mới là ngôn ngữ độc nhất trên thế giới có từ vựng mỗi năm mỗi hẹp lại không ?”

Cố nhiên Winston biết điều đó. Anh mỉm cười với hy vọng nụ cười của anh ra vẻ hưởng ứng, vì anh sợ không đủ tự chủ để trả lời. Syme cắn một miếng bánh mì đen nữa, nhai nhanh rồi nói tiếp:

“Anh không thấy toàn thể mục tiêu của Ngôn Mới là giới hạn tầm tư tưởng ư ? Rốt cuộc chúng tôi sẽ khiến tội tư tưởng không thể có được nữa vì sẽ không có từ ngữ để biểu lộ nó. Mỗi khái niệm cần thiết sẽ được phô diễn bởi đúng một từ, nghĩa của nó sẽ được định một cách nghiêm xác, những nghĩa phụ sẽ bị loại trừ và quên lãng. Đã rồi, trong Bản Thứ Mười Một, chúng tôi không xa mục tiêu ấy. Nhưng quá trình này sẽ tiếp tục mãi, khi cả anh lẫn tôi đều qua đời. Mỗi năm, số từ càng ngày càng ít đi và tầm ý thức càng ngày càng hẹp lại. Cố nhiên ngay ngày nay không có cớ hay lý do gì để phạm tội tư tưởng. Đấy đơn thuần là một vấn đề kỷ luật cá nhân, kiềm chế thực tế. Nhưng sau cùng đến sự kiềm chế này cũng sẽ không cần thiết. Cách Mạng sẽ hoàn thiện khi ngôn ngữ được hoàn hảo. Winston này, có bao giờ anh nghĩ rằng vào khoảng 2050 muộn nhất, sẽ không còn một mạng nào hiểu được một câu chuyện như chúng mình đang nói với nhau không ?”

“Ngoại trừ —,” Winston bắt đầu tỏ nỗi nghi hoặc nhưng anh ngừng câu.

Anh suýt buột miệng nói “Ngoại trừ dân đen” nhưng anh tự kiểm thảo vì không hoàn toàn chắc chắn nhận xét của mình không có bề bất chính thống. Song le, Syme đoán được điều anh định nói.

“Dân đen không phải là người,” anh chàng thờ ơ nói. “Khoảng 2050 — có thể sớm hơn — mọi hiểu biết thực sự về Ngôn Cũ sẽ biến mất. Toàn thể văn chương quá khứ sẽ bị tiêu diệt. Chaucer, Shakespeare, Milton, Byron — những tác phẩm của họ sẽ chỉ tồn tại trong ấn bản Ngôn Mới, không những chúng sẽ biến đổi khác, chúng còn bị đổi thành bản văn trái nghịch hẳn với nguyên bản. Ngay cả văn chương Đảng cũng sẽ biến đổi. Làm sao có được một khẩu hiệu như “Tự do là nô lệ” nếu khái niệm tự do đã bị loại trừ ? Toàn cảnh tư tưởng sẽ khác. Thực sự, sẽ không còn tư tưởng theo như chúng ta hiểu ngày nay. Chính thống có nghĩa là không suy nghĩ — không cần suy nghĩ. Chính thống là vô ý thức.”

Một ngày nào đó, Syme sẽ bị hóa hơi, Winston thình lình tin chắc nghĩ. Anh chàng quá thông minh. Anh chàng nhìn quá rõ, và nói quá thẳng. Đảng không ưa những người như vậy. Rồi một ngày anh sẽ biến mất. Điều đó hiện trên mặt anh.

Winston đã ăn xong bánh mì và phó mát. Anh hơi nghiêng mình trên ghế để uống chén cà phê. Tại bàn bên trái anh, người đàn ông có giọng the thé vẫn nói chuyện không tha. Một thiếu phụ có lẽ là thư ký của anh ta, ngồi xoay lưng về phía Winston, nghe anh ta nói và hình như hưởng ứng nồng nhiệt lời lẽ của anh ta. Thỉnh thoảng Winston bắt được một lời phê như “Tôi nghĩ ông rất có lý, tôi rất đồng ý với ông” thốt ra bởi một giọng nữ trẻ mà hơi đần. Nhưng cái giọng kia không hề ngưng một lúc, ngay khi cô gái lên tiếng. Winston biết mặt người đàn ông, mặc dầu anh không biết gì hơn về anh ta ngoài sự anh ta có một địa vị quan trọng trong Cục Truyện. Anh ta khoảng ba mươi tuổi, có một cỗ cổ nổi bắp thịt và một cái mồm rộng di động. Đầu anh ta hơi hất về sau, và tại góc anh ta ngồi, mắt kính của anh ta bắt ánh đèn chỉ chìa cho Winston thấy hai khoanh rỗng thay vì mắt. Điều khủng khiếp là từ tràng tiếng đổ ra từ miệng anh ta, gần như không thể nhận ra được một chữ. Có mỗi một lần Winston bắt được một câu — “hoàn tất phế thải thuyết của Goldstein” — xổ ra thật nhanh, như thể một mạch, tựa như một dòng chữ in sắp đặc. Còn lại chỉ là một tiếng động, một tiếng quạc quạc. Thế nhưng, dù không nghe được rõ điều người đàn ông nói, cũng đoán chắc được tính chất đại cương của nó. Có thể anh ta đang lên án Goldstein và đòi hỏi nhiều biện pháp mạnh hơn chống tội phạm tư tưởng và quân phá hoại, có thể anh ta đang ca tụng Bác hay các anh hùng của mặt trận Malabar — những điều đó không khác gì nhau. Anh ta nói gì chăng nữa, có thể chắc rằng mỗi chữ anh ta dùng đều thuần túy chính thống, hoàn toàn Anh Xã. Nhìn khuôn mặt không mắt với bộ quai hàm di động lanh lẹ, Winston có cái cảm giác là lạ là kẻ kia không phải là người mà là một thứ hình nộm. Không phải óc của anh ta nói mà là cổ họng của anh ta. Cái tiếng thoát ra khỏi anh ta gồm toàn chữ nhưng không phải là câu nói theo đúng nghĩa của nó: nó là một tiếng động thốt ra trong vô thức như tiếng quạc của con vịt.

Syme đã nín lặng được một lúc và đang lấy thìa vẽ trên vũng canh hầm. Tiếng nói tại bàn bên tiếp tục quạc nhanh, dễ nghe thấy mặc dầu xung quanh ầm ỹ.

“Trong Ngôn mới có một từ,” Syme nói, “không hiểu anh có biết không: từ nói vịt nghĩa là quạc như vịt. Đó là một trong những từ hay hay có hai nghĩa trái ngược. Dùng cho một đối thủ nó có ý chửi rủa, dùng cho một người mình đồng ý với nó có ý khen ngợi.”

Không nghi ngờ gì được, Syme sẽ bị hóa hơi, Winston lại nghĩ vậy. Anh nghĩ thế với một cảm giác buồn bã, mặc dầu anh biết Syme khinh anh và hơi ghét anh, và rất sẵn sàng tố cáo anh là tội phạm tư tưởng nếu có cớ. Có cái gì lệch lạc đôi chút nơi Syme. Anh chàng như thiếu một cái gì: tính thận trọng, tính dè dặt, một tính ngu xuẩn bảo toàn. Không thể nói rằng anh chàng bất chính thống. Anh ta tin nguyên lý Anh Xã, anh ta thờ phụng Bác, anh ta vui mừng chiến thắng, anh ta ghét quân tà giáo, không những một cách thành thực mà còn với một lòng sốt sắng không nguôi và một sự thạo tin cập nhật không một Đảng viên thường nào bì kịp. Tuy vậy mà có một vẻ bất minh nhẹ bám vào anh chàng. Anh ta nói những điều không nên nói, anh ta đã đọc quá nhiều sách, anh ta hay lui tới quán cà phê Cây Lật, nơi hò hẹn của họa sĩ và nhạc sĩ. Không có luật nào ngay cả luật truyền khẩu cấm lui tới quán cà phê Cây Lật, nhưng nơi này không hiểu sao mang tiếng xấu. Những lãnh tụ xưa, đã mất uy tín, của Đảng thường tụ họp tại đây trước khi rốt cuộc bị thanh trừ. Chính Goldstein, theo tin đồn, thường thỉnh thoảng lảng vảng tới đó mấy chục năm trước. Số phận của Syme không khó tiên đoán. Thế nhưng sự thể là nếu Syme nắm được thực chất tư tưởng của Winston dù trong ba giây, anh chàng sẽ tức khắc trình báo Winston với Cảnh Sát Tư Tưởng. Kể ra ai khác cũng sẽ hành động như vậy: nhưng Syme còn hơn ai khác. Lòng sốt sắng không đủ. Chính thống là phải vô thức.

Syme ngước mắt nhìn lên. “Parsons tới kia kìa,” anh ta nói.

Có cái gì trong thanh điệu của anh chàng hình như nói thêm: “cái thằng ngu xuẩn ấy”. Parsons, con người mập mạp, tầm thước, tóc vàng mắt ếch, đồng cư với Winston tại khu Nhà Chiến Thắng, quả thật đang chen lối qua phòng ăn. Mới ba mươi nhăm tuổi anh ta đã chất hàng cuộn mỡ nơi cổ nhưng cử động của anh ta nhanh nhẹn trẻ trung. Toàn diện anh ta là dáng của một cậu bé quá mập, thành thử mặc dầu anh ta mặc bộ quần áo liền quần hợp cách, không thể không liên tưởng tới anh ta với chiếc quần cộc, áo sơ mi xám và khăn quàng đỏ của Đoàn Gián Điệp. Thấy anh ta là luôn luôn nghĩ tới hình ảnh đôi đầu gối có lỗ hỏm và đôi tay áo vén cuộn trên hai cánh tay bụ bẫm. Mà thật ra, bao giờ Parsons cũng quay về quần cộc mỗi khi một chuyến dạo chơi tập thể hay một hoạt động thể dục cho anh cớ để làm vậy. Anh ta chào hai người với tiếng “Ê này ! Ê này !” vui vẻ và ngồi xuống bàn họ, đồng thời tỏa ra một mùi mồ hôi nặng nề. Hàng giọt ướt lấm chấm khắp khuôn mặt hồng hào của anh ta. Khả năng đổ mồ hôi của anh ta thật tài tình. Tại Trung Tâm Cộng Đồng ai cũng đoán được anh ta vừa chơi bóng bàn xong theo sự ẩm ướt của cán vợt. Syme đã lôi ra một dải giấy có một hàng chữ dài và xem xét nó với một quản bút mực trong tay.

“Coi hắn làm việc giữa giờ ăn kìa,” Parsons vừa nói vừa huých Winston. “Chăm chỉ nhỉ ? Chuyện gì đó, anh bạn ? Tôi chắc lại một việc vượt trí óc tôi. Bạn Smith này, tôi cho anh biết tại sao tôi đi kiếm anh. Tại cái món góp anh quên đưa cho tôi.”

“Món góp nào vậy ?”, Winston vừa trả lời vừa sờ túi kiếm tiền. Khoảng một phần tư lương của mỗi người phải dành cho các cuộc quyên góp tình nguyện, nhiều vô số không theo hết được.

“Cho Tuần Lễ Hận Thù. Anh biết mà — cái quỹ từng nhà ấy. Tôi làm thủ quỹ cho dãy nhà tụi mình. Chúng mình phải cố gắng hết sức để phô một màn kinh người. Cho anh biết, không phải lỗi tại tôi nếu khu Nhà Chiến Thắng không có bộ cờ lớn nhất toàn phố. Anh có hứa đưa tôi hai đôn.”

Winston tìm thấy và đưa ngay cho Parsons hai mảnh giấy nhăn nheo bẩn thỉu được anh chàng ghi ngay vào một cuốn sổ nhỏ bằng nét chữ nắn nót của kẻ vô học.

“A này, anh bạn,” anh ta nói. “Tôi được biết cái thằng nhỏ ăn mày nhà tôi đã bắn súng cao xu vào anh hôm qua. Tôi có cho nó một bài học ra trò rồi. Thật, tôi có bảo nó tôi sẽ tịch thu cái súng ấy nếu nó còn làm thế.”

“Tôi cho là nó bất bình vì không được đi xem hành hình,” Winston nói.

“Ừ phải — tôi muốn nói nó tỏ ra có tinh thần tốt đấy chứ, phải không anh ? Hai đứa nó là hai đứa nhãi con đanh ác, nhưng về lòng hăng hái thì khỏi phải chê ! Lúc nào chúng nó cũng nghĩ tới Đoàn Gián Điệp, và cả chiến tranh nữa, cố nhiên. Anh có biết cái con bé nhà tôi nó làm gì thứ bẩy vừa qua khi đội của nó đi dạo trên đường đi Berkhamsted không ? Nó lôi hai con bé khác theo nó rời nhóm đang dạo để theo dõi một người lạ khắp cả buổi chiều. Chúng nó đi theo anh ta hai tiếng đồng hồ, băng qua cả rừng, khi tới Amersham chúng nó giao anh ta cho lính tuần.”

“Chúng làm thế để làm gì vậy ?”, Winston hơi bàng hoàng hỏi. Parsons hoan hỉ tiếp:

“Con bé nhà tôi xem chừng anh ta là một thứ điệp viên của địch — biết đâu anh ta chẳng được thả dù xuống. Nhưng chuyện là như thế này này, anh bạn ạ. Theo anh, cái gì khiến nó theo dõi anh ta trước nhất ? Nó để ý thấy anh ta mang một đôi giầy kỳ lạ — nó chưa thấy ai đi giầy giống vậy. Cho nên rất có thể anh ta là người ngoại quốc. Lỏi con bẩy tuổi như vậy giỏi ghê hỉ !”

“Người đàn ông đó rồi ra sao ?” Winston hỏi.

“Ồ, cái đó thì tôi không biết được, dĩ nhiên. Nhưng tôi không ngạc nhiên chút nào nếu —”, Parsons làm cử chỉ nhắm súng và tặc lưỡi thay tiếng nổ.

“Hay,” Syme nói bâng quơ, mắt không rời dải giấy.

“Cố nhiên chúng ta phải đề phòng sự bất trắc,” Winston đồng ý cho phải lẽ.

“Tôi muốn nói là hiện nay đang có chiến tranh,” Parsons bảo.

Như để xác nhận điều đó, một tiếng trống kèn nổi lên từ máy truyền hình ngay trên đầu họ. Tuy nhiên, lần này không phải là bản tuyên ngôn chiến thắng mà là một bản bố cáo của Bộ Sung Túc.

“Các đồng chí !” Một giọng hăng trẻ hét. “Chú ý ! Các đồng chí ! Chúng tôi có tin vẻ vang cho các đồng chí. Chúng ta đã thắng trận sản xuất ! Bản thống kê đầy đủ mới hoàn thành về mọi loại hàng tiêu thụ cho biết mức sống đã tăng lên không dưới 20% so với năm ngoái. Trên khắp Đại Dương sáng nay đã xảy ra nhiều cuộc biểu tình tự động không kìm hãm nổi, dân lao động đã bước ra khỏi sở và xưởng rồi mang biểu ngữ hành diễn khắp đường phố để nói lên lòng biết ơn Bác đã ban cho chúng ta đời sống sung sướng mới nhờ tài lãnh đạo sáng suốt của Bác. Đây là một vài con số đã được bổ sung. Thức ăn —”

Câu “đời sống sung sướng mới” được nhắc lại nhiều lần. Đó là câu được chuộng nhất gần đây của Bộ Sung Túc. Parsons bị thu hút bởi tiếng kèn gọi và há hốc mồm trịnh trọng ngồi nghe những câu xây dựng chán ngắt. Anh ta không hiểu nghĩa những con số nhưng ý thức rằng chúng tất phải là một mối gieo mừng. Anh chàng đã lôi ra một ống điếu to dơ dáy đầy nửa thuốc cháy đen. Với khẩu phần thuốc lá độ một trăm gam một tuần, ít khi nhét được đầy ắp ống điếu. Winston thì hút một điếu thuốc lá Chiến Thắng được anh cẩn thận cầm ngang. Khẩu phần mới ngày mai mới được bắt đầu phát mà anh chỉ còn có bốn điếu. Hiện anh khép tai với tiếng động ngoài xa để nghe những điều tầm phào tuôn ra từ máy truyền hình. Hình như có cuộc biểu tình cám ơn Bác đã tăng khẩu phần xúc cô la lên hai mươi gam một tuần. Nhưng mới chỉ hôm qua, anh ngẫm, có bố cáo khẩu phần bị giảm xuống hai mươi gam một tuần. Làm sao dân chúng có thể nuốt được sự thay đổi sau chỉ có hai mươi tiếng ? Vậy mà họ nuốt được. Parsons nuốt nó dễ dàng với sự đần độn của con vật. Con người không mắt ở bàn bên nuốt nó một cách cuồng tín, say mê, với một sự dữ dội thèm muốn lùng bắt, tố cáo và hóa hơi bất cứ ai gợi ý tuần trước khẩu phần là ba mươi gam. Cả Syme cũng thế, nhưng một cách phức tạp hơn, bao hàm ý đôi. Như vậy chỉ có một mình anh là có trí nhớ ư ?

Những con số thống kê hoang đường tiếp tục đổ ra từ máy truyền hình. So với năm ngoái có nhiều thức ăn hơn, nhiều quần áo hơn, nhiều nhà cửa hơn, nhiều đồ đạc hơn, nhiều soong chảo hơn, nhiều dầu hôi hơn, nhiều tàu thủy hơn, nhiều trực thăng hơn, nhiều trẻ sơ sinh hơn, thứ gì cũng hơn trừ bệnh tật, hình sự và chứng điên. Năm này sang năm khác, phút này sang phút khác, mọi người mọi vật ù ù lên cao. Như Syme làm lúc nãy, Winston cầm thìa khuấy vào vũng nước canh nhạt loang lổ trên bàn và kéo dài nó thành hình vẽ. Anh hậm hực suy nghĩ về đời sống vật chất. Nó vẫn từng như thế này chăng ? Vị thức ăn từng như vậy ư ? Anh nhìn quanh quán ăn. Một căn phòng thấp trần, tường đen bẩn vì cọ sát với quá nhiều người; bàn ghế kim khí méo mó sắp sát vào nhau đến nỗi người ngồi chạm phải khuỷu tay nhau; thìa cong, mâm mẻ, chén trắng thô sơ; mọi mặt phẳng dính mỡ, chất dơ cáu trong kẽ hở; và một mùi chua hỗn tạp của rượu gin xoàng, cà phê dở, canh hầm đanh và quần áo bẩn. Luôn luôn dạ dầy và da thịt như muốn phản đối, cảm như mình đã bị lừa mất một cái gì mình có quyền có. Thật ra thì ký ức anh không ghi một sự thể nào khác nhiều hiện tại. Theo như anh nhớ rõ, thời nào cũng không có đủ ăn, chẳng bao giờ bí tất hay quần áo lót không có lỗ rách, bàn ghế lúc nào cũng méo mó trầy sát, phòng ở không bao giờ được sưởi đủ ấm, tầu hầm luôn luôn đông nghẹt, nhà cửa đổ nát, bánh mì đen xì, trà chè khan hiếm, cà phê tanh hôi, thuốc lá thiếu hụt — chẳng có gì rẻ và nhiều trừ rượu gin hóa học. Mặc dầu sự thiếu thốn đâm ra trầm trọng với sự già nua của cơ thể, nó chẳng phải là dấu hiệu của sự phản lẽ tự nhiên hay sao, khi tim người lịm đi trước sự thiếu tiện nghi, bẩn thỉu và khan hiếm, trước những mùa đông bất tận, trước sự nhầy nhựa của bí tất, trước thang máy không bao giờ chạy, trước nước lạnh, xà phòng cát, thuốc lá bở tan, thức ăn có vị tởm lạ ? Tại sao anh không thể chịu đựng được những điều đó nếu không phải tại ký ức xa xưa của anh ghi nhận có thời sự thể khác hẳn ?

Anh lại nhìn quanh phòng ăn. Gần như ai cũng xấu xí và sẽ vẫn xấu nếu được ăn mặc khác bộ áo liền quần hợp cách. Ở phía cuối phòng có một gã đàn ông nhỏ bé giống bọ hung lạ, ngồi một mình một bàn uống cà phê, đôi mắt nghi kỵ láo liếc trước sau. Nếu không nhìn xung quanh mình, Winston nghĩ, dễ tin biết bao rằng mẫu người lý tưởng do Đảng ấn định — thanh niên cao lớn, vạm vỡ, và thiếu nữ ngực nở, tóc vàng, đầy sinh lực, da sạm nắng, vô tư — có thật và đông hơn hết. Thực ra, như anh nhận xét, phần đông dân Không Phận Một bé nhỏ, tóc đen và xấu xí. Lạ sao cái loại người bọ hung sinh sôi nẩy nở trong các Bộ: loại người bé lùn, mập mạp, chân ngắn, cử động nhanh nhẹn hấp tấp, có khuôn mặt phì nộn trơ ì và đôi mắt ti hí. Đó là mẫu người phát đạt nhất dưới sự thống trị của Đảng.

Tin tức của Bộ Sung Túc chấm dứt với một trống còi khác rồi nhường chỗ cho một tiếng nhạc inh ỏi. Parsons, khá phấn khởi bởi tràng con số, rút ống điếu ra khỏi miệng.

“Năm nay Bộ Sung Túc làm việc giỏi thật,” anh chàng gật gù nói. “A này, bạn Smith, chắc anh không có dao cạo cho tôi mượn phải không ?”

“Không có con nào,” Winston nói. ” Chính tôi vẫn dùng một con từ sáu tuần nay.”

“Thế hả — nghĩ nên hỏi anh vậy thôi ấy mà, anh bạn.”

“Rất tiếc,” Winston nói.

Tiếng quạc nơi bàn bên, tạm thời ngưng trong lúc Bộ cho tin, đã bắt đầu trở lại, lệnh vỡ hơn bao giờ hết. Vì lẽ gì đó, Winston bỗng nghĩ tới bà Parsons với mái tóc rối và bụi trên nét nhăn của bà. Nội hai năm nữa hai đứa trẻ kia sẽ tố cáo bà với Cảnh Sát Tư Tưởng và bà sẽ bị hóa hơi. Syme sẽ bị hóa hơi. Winston sẽ bị hóa hơi. O’Brien sẽ bị hóa hơi. Mặt khác, Parsons sẽ không bao giờ bị hóa hơi. Con người không mắt với tiếng vịt kia sẽ không bao giờ bị hóa hơi. Những người bọ hung nhỏ bé hấp tấp lanh lẹ trong trận đồ hành lang của các Bộ cũng sẽ không bao giờ bị hóa hơi. Và cô gái tóc đen, cô gái trong Cục Truyện — cô ấy cũng sẽ không bao giờ bị hóa hơi. Hình như linh tính cho anh biết ai sẽ sống sót, ai sẽ chết: tuy khó nói được cái gì khiến cho con người sống sót.

Nghĩ đến đây, anh giật mình khỏi giấc mơ màng. Cô gái tại bàn kế bên đã ngoảnh mặt lại và đang nhìn anh. Chính là cô gái tóc đen. Cô ta liếc nhìn anh, với một cường độ lạ lùng. Lúc cô ta bắt gặp mắt anh, cô ta nhìn đi nơi khác.

Mồ hôi bắt đầu chảy trên sườn lưng Winston. Một cơn kinh hoảng thông qua anh. Nó biến đi ngay nhưng để lại một cảm giác khó chịu bực bội. Tại sao cô ta nhìn anh ? Tại sao cô ta cứ theo anh ? Tiếc thay anh không nhớ cô ta đã ngồi ở bàn trước khi anh đến hay cô ta tới sau anh. Nhưng gì thì gì, hôm qua, trong Hai Phút Hận Thù, cô ta đã đến ngồi ngay sau lưng anh khi rõ ràng cô không cần phải làm vậy. Hiển nhiên mục đích của cô là rình anh xem anh có hét lớn vừa phải không.

Ý nghĩ ban đầu trở lại với anh: có thể cô ta không phải là nhân viên của Cảnh Sát Tư Tưởng, thế nhưng chính điệp viên tài tử mới nguy hiểm hơn ai hết. Anh không biết cô ta nhìn anh từ bao lâu, có thể chừng năm phút, và có thể lúc ấy anh không hoàn toàn kiềm chế sắc mặt của anh. Để tư tưởng thẩn thơ khi ở giữa công chúng hay dưới tầm kiểm soát của máy truyền hình là một điều hết sức nguy hiểm. Chi tiết nhỏ nhất cũng có thể phản mình. Một tật bồn chồn, một cái nhìn lo sợ vô ý thức, một thói lẩm bẩm — bất cứ cái gì gợi ý một sự khác thường, cho ngờ mình có việc phải giấu. Dầu sao, mang một nét không hợp thời trên mặt (ra vẻ hoài nghi khi có tin chiến thắng, chẳng hạn) là đã phạm phải một tội đáng phạt rồi. Ngôn Mới có cả một chữ chỉ tội ấy: đó là tội mặt.

Cô gái đã xoay lưng vào anh trở lại. Nghĩ cho cùng, có thể cô ta không hề theo dõi anh, có thể sự cô ta ngồi gần anh hai ngày liền là một sự trùng hợp. Điếu thuốc lá của anh đã tắt, anh cẩn thận để nó trên bờ bàn. Anh sẽ hút tiếp hết sau buổi làm việc, nếu anh giữ được thuốc lá trong điếu. Rất có thể người ngồi bàn kế anh là một điệp viên của Cảnh Sát Tư Tưởng và rất có thể nội ba ngày nữa anh sẽ ở trong hầm Bộ Tình Yêu, nhưng một mẩu thuốc lá không thể bị phung phí. Syme đã cất dải giấy lại và cất nó trong túi. Parsons đã lại bắt đầu nói:

“Tôi có kể cho anh chưa nhỉ, anh bạn,” anh ta vừa nói vừa đập nhẹ vào ống điếu, “chuyện hai đứa lỏi nhà tôi đốt váy một bà già ở chợ vì chúng thấy bà ta gói xúc xích trong một bích chương có hình Bác ? Chúng luồn sau bà ta rồi lấy hộp diêm đốt váy bà ta. Tôi tin bà ta bị cháy nặng. Quỷ con, hỉ ? Mà lanh như ranh ! Ngày nay Đoàn Gián Điệp huấn luyện chúng hay tột — hay hơn thời tôi. Anh có biết chúng học được gì mới đây nhất không ? Dùng ống máy điếc để nghe qua lỗ khóa ! Con bé nhà tôi đem về nhà một cái đêm trước — nó nghe thử qua cửa phòng khách và nhận thấy rằng nghe như vậy rõ hơn gấp hai lần gắn tai sát vào lỗ khóa. Dĩ nhiên, cái ống máy đó chỉ là trò chơi thôi, anh có biết không ? Vậy mà nó gieo ý đúng cho chúng, hỉ ?”

Vừa lúc đó, máy truyền hình lên tiếng huýt điếc tai. Đấy là dấu báo hiệu phải trở về công việc. Cả ba người đứng phắt dậy ra nhập đám người tranh nhau thang máy, và chút thuốc lá còn lại của Winston rớt ra ngoài điếu.

Bình luận